Đạo Cao Đài đồng nghĩa với Tam đại : ĐẠI ĐẠO, ĐẠI ÂN XÁ tiến tới ĐẠI ĐỒNG.
Trong Tân Luật có ba đạo sư đồng hành : Đạo pháp, Thế luật và Tịnh Thất. Đạo pháp là tu theo cửu phẩm thần tiên.
Tịnh Thất là luyện đạo Trường Sanh, dành cho tín đồ để trọn câu tận độ chúng sanh.
Đêm 8-4-1926, Đức Chí Tôn đã phán : “Muốn trọn câu phổ độ phải làm thế nào ? Phải bày bửu pháp ra, chớ không đặng đâu nữa”. Đức Chí Tôn lại nhắc nhở : “Con hiểu bổn nguyên Thánh chất Thầy … Tuỳ sức mỗi đứa lo lập (cho mình một Tịnh Thất )” (Đàn 4-8-1926)
Đức Cao Thượng Phẩm đã lập Tịnh Thất tại tư gia đầu tiên gọi là Thảo Xá Hiền Cung.
Đức Chí Tôn dạy về tu chơn : Cái xác vô hình huyền diệu Thiêng Liêng này do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành … Nó phải có bổn nguyên Chí Thánh, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất ra Thánh, Tiên, Phật”. (Đàn 17-7-1926)
Đức Chí Tôn lại khẳng định : “Nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”. (Đàn 19-12-1926)
Đức Chí Tôn lại nhấn mạnh : “Dầu không Thiên phong, hễ gắng tâm thiện niệm thì địa vị cũng đạt hồi đặng”. (Đàn 17-9-1927)
Sau đó Đức Chí Tôn thúc hối Đức Hộ Pháp : “T. làm Tịnh Thất cho rồi đặng mấy anh con vào tịnh, các đài LUYỆN KHÍ trật hướng …” (Đàn 5-1928)
Khí là đầu mỗi sự sống của vạn vật. Luyện Khí là luyện Đạo Thần Tiên.
Sau khi Đức Phật Mẫu ban cho Đức Hộ Pháp “vẹn toàn pháp môn“, trong lời thuyết đạo ngày 5-2-Mậu Tý, Đức Ngài nói : “Tội nghiệp thay mấy anh lớn già yếu đã giải thoát không được hưởng một đặc ân gì …
Nơi Hiệp Thiên Đài lấy bí pháp tạo HUYỀN LINH ĐÀI (do Bảo Huyền Linh Quân giữ ) để tương liên với quyền năng vô hình, rước các hành giả tu tịnh.
Trong con đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Ngài cho biết : Nhiều linh hồn không qua được cửa Bát Quái Đài vì nhiều người không tiếp tục tu. Bởi lẽ, tín đồ chỉ vào hàng Địa Thần làm sao qua cổng Trời được, ít nhất phải bậc Thiên Thần (Chí Thần). Vì thế, hàng tín đồ muốn đạt Chí Thần phải tiếp tục tu tịnh.
Đức Chí Tôn đại xá cho những người vào Đạo biết tu và thiện niệm, làm lành lánh dữ, cầu xin siêu độ, thoát vòng nghiệt chướng.
BẠCH VÂN QUÁN

DẪN NHẬP
"Tịnh Thất" là nhà thanh tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện. Muốn vào nhà Tịnh Thất phải tuân y những điều lệ như sau nầy:
Chú giải: Từ ngữ tín đồ , xác nhận rằng các chức sắc muốn nhập tịnh phải bỏ chức phẩm, như Đức Hộ-Pháp nói khi nhập tịnh Trí Huệ Cung: “giải chức Hộ-Pháp chỉ là bạn tu mà thôi” (Trí Huệ Cung, trang 13). Trong quyển “Giáo Lý” đuợc lời phê của Đức Hộ Pháp có viết như vầy: “Hàng tín đồ này là bậc thượng thừa xong xuôi tất cả bổn phận làm người, mới đặng nhập Tịnh thất”. Như vậy, người tín đồ muốn vào nhà tịnh phải tiệm tu qua Hạ thừa, Trung thừa rồi mới tới thượng thừa đuợc. Bậc Thượng thừa, Thượng căn, Thượng trí đuợc nhập Tịnh thất vào ngày đại tịnh.
Điều Thứ Nhứt:
Trong hàng tín đồ, ai đã xử tròn nhơn đạo và giữ trai giái từ sáu tháng sắp lên thì được xin vào Tịnh Thất mà nhập định.
Chú giải:
Theo qui định trên hàng tín đồ đề cập đó ở vào bậc Trung thừa tu luyện theo trung tịnh vì chỉ mới giữ trai giới 6 ngày trở lên. “Đã giữ nhơn đạo” tức phải giữ đúng thế luật.
Đọc lại chương II, điều thứ 13 của Tân Luật – “Trong hàng hạ thừa ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên đuợc thọ truyền bửu pháp, vào Tịnh thất có người chỉ luyện đạo”
Điều Thứ Hai:
Phải có một người đạo đức hơn mình tiến dẫn và một người đạo hữu bảo hộ.
Chú giải:
Hàng tín đồ Thượng thừa (Thượng căn , Thượng trí) muốn vào nhập Tịnh thất phải có một tu sĩ tuổi thiền cao hơn mình tiến dẫn và một người bảo trợ là anh, em hay con cháu bảo đảm cung cấp phẩm vật và lo đời sống cho tịnh viện suốt thời kỳ tu tịnh. Thế nên buổi lễ nhập Tịnh thất tuy đơn sơ nhưng phải tôn nghiêm có đủ mặt cả ba người: chủ tịnh, tu sĩ tiến dẫn và người bảo trợ. Thiếu một trong ba người đó, buổi lễ phải đình lại.
Điều Thứ Ba:
Cấm không đặng thơ tín vãng lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người "Tịnh Chủ" xem trước.
Chú giải:
Tu sĩ tịnh luyện là tu chơn, phế trần luyện đạo, nên tịnh chủ phải kiểm soát thơ tín, các bưu kiện gửi cho tu sĩ, ngừa những đồ dùng xa xí trái với luật đạo. Vì theo điều thứ 21, phần Thế Luật của bộ Tân Luật có ghi như vầy:
“Người bổn đạo ăn mặc phải cần kiệm, tuỳ phận tuỳ duyên, nên dùng đồ vải áo bô và giảm bớt hàng tơ lụa”.
Điều Thứ Tư:
Cấm người ngoài không được vào nhà Tịnh, chẳng luận là viên quan chức sắc cùng thân tộc tín đồ.
Chú giải:
Quyển “Giáo Lý” của Trương Tiếp Pháp viết: “Tịnh Thất là một giáo đuờng thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần dưỡng trí, tu luyện tánh mạng đến công viên qủa mãn”. Như vậy Tịnh Thất là nơi dành riêng cho các tịnh viên phế trần luyện đạo. Do đó người ngoài không nên bước vào đó tham quan như ở các Thánh Thất, Đền Thờ.
Điều Thứ Năm:
Cấm không được chuyện vãn với người ngoài, trừ ra cha mẹ và con cháu đến thăm song cũng phải có phép người "Tịnh Chủ" cho.
Chú giải:
Bên cạnh Tịnh thất còn có Tịnh xá là nhà ở của các tịnh viên. Nơi đây con cháu đến thăm viếng và ủy lạo đuợc, song phải xin phép trước để tránh trùng giờ tịnh luyện. “Cấm không được chuyện vãn với người ngoài” vì sợ thấu lậu phương pháp tọa tịnh ra ngoài, kẻ hám vọng luyện sai mà nguy hại. Tuyệt đối cấm truyền Tân Pháp ra ngoài.
Điều Thứ Sáu:
Nhập Tịnh Thất rồi phải tuyệt trầu thuốc và không được ăn vật chi ngoài mấy bữa cơm.
Chú giải:
Tịnh viên không những kiêng trầu, thuốc, rượu mà thôi, mà còn phải trường chay diệt dục, giữ ngũ giới cấm theo chương bốn, điều thứ 21 của Tân Luật.
Điều Thứ Bảy:
Phải giữ cho chơn thần an tịnh, đừng xao xuyến lương tâm. Phải thuận hòa không được tiếng lớn, phải siêng năng giúp ích cho nhau và dìu dắt nhau trong đường đạo.
Chú giải:
Muốn “chơn thần an tịnh” phải “nhất tâm bất loạn phá vọng tồn chơn” và luyện phép vô niệm. Đó là định của thiền.
Muốn “tâm không xao xuyến” thì không xen, không nói chuyện về người khác. Tuyệt đối không bàn việc thời sự chính trị vì trái với luật của người tu chơn.
“Không đuợc tiếng lớn” vì là nhà tịnh (yên lặng), ít nói chừng nào tốt chừng ấy. Nói nhiều tâm xao xuyến nhiều, chơn thần sẽ tản mạn. Tuyệt đối không nói chuyện trong Tịnh thất.
“Siêng năng giúp ích cho nhau”, trồng hoa màu phụ, ngũ cốc và để nâng cao bữa ăn có nhiều rau xanh.
“Dìu dắt nhau trong đuờng đạo” theo khẩu hiệu : khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ” chớ không viết thành văn nên cần giúp đỡ nhau về cách luyện đạo.
Điều Thứ Tám:
Phải tuân mạng lịnh của một "Tịnh Chủ" phải y theo giờ khắc sẽ định mà hành công tu luyện.
Chú giải:
Ban thường vụ Tịnh thất gồm có ba người:
- Chủ tịnh: chủ toạ các phiên họp, chịu trách nhiệm trước Hội Thánh. Khuyên nhủ và kiểm soát mọi sinh hoạt của tịnh viên. Hướng dẫn các tịnh viện luyện đạo.
- Phó chủ tịnh: thay mặt cho chủ tịnh khi vị này vắng mặt, kiêm thủ bổn.
- Từ Hàn: biên chép và giữ sổ sách của Tịnh Thất kiêm lo đời sống.
CÔNG PHU TỊNH LUYỆN
- Sơ tịnh: Dành cho hàng hạ thừa còn sống lẫn lộn với đời. Tịnh tập thể mỗi tháng 2 lần vào giờ dậu ngày mùng một và ngày rằm nơi Điện Thờ Phật Mẫu. Kỳ dư tịnh ở nhà, Thầy dạy “mỗi đứa lo lập một (tiểu) tịnh thất” là ý vậy.
- Trung tịnh: dành cho hàng Trung thừa vẫn còn ở nhà, vào giờ dậu, mỗi ngày phải đến Điện Thờ Phật Mẫu mà tịnh luyện trong 2 giờ. Tu sĩ làm ăn bình thường và làm nghĩa vụ công dân như sơ thiền.
- Đại tịnh: Dành cho hàng Thượng thừa, phế trần luyện đạo phải đủ tứ thời, nhập Tịnh Thất tu luyện cho đến giải thoát.


Vậy tinh khí thần là gì?
Trời có ba báu ấy mà hoá sanh vạn vật, dưỡng dục muôn loài, chuyển luân càn khôn thế giới, phân ranh ngày đêm.
Đất nhờ ba báu ấy ma ømưa gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết có bốn mùa.
Người có tam bửu để nuôi dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến khoa học giúp nhân loại.
Con người qui được tam bửu ngũ hành thì đắc quả đạt đạo, còn chơi bời trác táng làm hư hoại tam bửu ngũ hành thì thân bại , hình người mà dạ thú. Vậy phải giữ gìn tinh , khí , thần như báu vật.
Tinh là nguồn gốc của thân thể , nên giữ gìn được tinh thì không sợ bệnh hoạn. Nếu nguyên âm kém, thì nguyên dương lấn áp, giao động (hay ngược lại) , làm sức đề kháng của cơ thể bị giảm súc thì tà khí xâm nhập mà phát sanh bệnh.
Theo nguồn gốc thì khí trời hít thở vào phổi và khí hoá sinh ra trong thức ăn uống đều gọi là khí hậu thiên.
Còn khí chứa ở thận gọi là khí tiên thiên, vì nó bao gồm khí nguyên âm (thận âm) và khí nguyên dương (thận dương) bẩm thụ ở tiên thiên , nên còn gọi là nguyên khí.
Hai khí tiên thiên và hậu thiên bao trùm bốn thứ: nguyên khí, tôn khí, dinh khí và vệ khí. Tôn khí (thượng tiêu ) chưá ở Thượng khí hải tại giữa ngực . Đó là chỗ vừa qui tụ vừa xuất phát vận hành trong toàn thân rồi lại trở về tại đó.Tôn khí và nguyên khí, một chứa ở lồng ngực và một chứa ở thận kết hợp nhau mới nuôi dưỡng cả cơ thể. Ta gọi chung cả hai là chân khí. Chân khí kết hợp với cốt khí làm cho cơ thể khỏe mạnh.
Dinh khí (Trung tiêu) là thứ khí của thức ăn uống thuộc âm. Âm tính nhu thuận cho nên dinh khí đi ở trong mạch .
Vệ khí (hạ tiêu) là khí mạnh trong đồ ăn uống nên thuộc dương đi ngoài mạch .Khi ta luyện khí thì âm dương ức chế lẫn nhau. Nếu tôn khí, dinh khí, vệ khí bất hoà trở ngại, ta sẽ bị bệnh.
Tam bửu hổ tương lẫn nhau. Tinh là cơ sở của thần, khí từ tinh hoá ra. Thần là mặt biểu hiện của khí .
Sự thăng trầm của tinh , khí, thần quan hệ đến mạnh yếu của thân thể, sự mất còn của sự sống. Vì thế cổ nhân mới gọi tinh khí thần là tam bửu (ba món báu ), tức là nguồn gốc sinh mạng của con người. Các nhà đaọ học coi thần là Thái cực nơi cơ thể con người . Thần chủ đaọ viêïc phối hợp khí hóa âm dương màta thường gọi là thần khí , thần sắc. Nên thần mất tạng tuyệt, vì các tạng có nhiệm vụ : can tàng hồn , tâm tàng thần, thận tàng tinh, phế tàng phách và tỳ tàng trí ý. Như thế , thần luân chuyển họat động , biến hóa vô cùng , không có chúng sanh nào mà không có thần ngự trị.

Hườn hư là an tịnh cái tâm , luyện cho khí hậu thiên tiếp vơí khí tiên thiên. Hễ hườn hư là đạt đạo.
Ngoài việc nâng cao chính khí để cơ thể nhẹ nhàng thuần dương đắc quả, việc luyện tinh khí thần là tập cho con người tính điềm đạm ,vui tươi, lòng nhân ái, có những suy nghĩ tốt , bỏ tư tưởng xấu xa, tăng cường hoạt động nội tạng mà còn sửa mình , trừ khử các bịnh và diệt thất tình , lục dục nữa.
Vì giận thì hại can (can thuộc mộc), mừng quá hại tâm (tâm thuộc hoả) , lo nghĩ hại tỳ (tỳ thuộc thổ) buồn quá hại phế (phế thuộc kim) , sợ hãi hại thận (thận thuộc thủy).
Thế nên bỏ giận dữ để nuôi dưỡng tinh, ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần, bớt nói để nuôi dưỡng khí, ngăn lòng ham muốn để nuôi dưỡng tâm.
Muốn nuôi dưỡng tâm phải nuôi dưỡng thần trước.
Muốn nuôi dưỡng thần phải nuôi dưỡng khí trước.
Muốn nuôi dưỡng khí phải nuôi dưỡng tinh trước.
Muốn nuôi dưỡng tinh phải nuôi duỡng chí trước.
Muốn nuôi dưỡng chí phải nuôi dưỡng thần trước.
Việc luyện đaọ chỉ có một mục đích, nhưng mỗi thời kỳ có tên khác nhau. Phật Giáo chú trọng “Hư vô tịch diệt” nên dùng phép thiền định mà giữ lòng không cho xao động.
Đạo Tiên chú trọng “ thanh tịnh vô vi” để tùng thiên lý, quyết không để cái tâm lưu luyến hồng trần , tức lánh trần.
Đạo Nho chú “ tồn tâm dưỡng tánh”, chỉ tĩnh toạ để tạo cái tính tiết độ cao siêu của bậc quân tử.
Đại Đạo thì chú trọng luyện “ tam bửu, ngũ hành” mỗi ngày công phu bốn lượt và tịnh luyện một lần để nuôi dưỡng linh hồn, vì đó là mục đích trọng yếu của tu thân.
Luyện tinh khí thần, chủ yếu là luyện khí. Khí vào buồng phổi rồi luân lưu khắp châu thân để nuôi dưỡng cơ thể . Vậy luyện khí tức là luyện thở .
Con người có thể nhịn ăn 50 ngày, nhịn uống 5 ngày, nhưng chỉ nhịn thở vài phút thì sự sống không còn.
Khi còn bào thai trong bụng mẹ thì bà mẹ đã thở cho thai nhi .Khi sanh ra, cuống rún bị cắt rời tách khỏi nguồn thở của mẹ. Thán khí trong máu trẻ sơ sinh tăng cao khiến nó phải khóc giúp cho hai lá phổi bung ra.
Thế là sự hô hấp của đứa bé bắt đầu thở cho đến cuối cuộc đời của nó. Như vậy sợi nhau thai thay thế bởi sợi sinh khí đem sự sống của khí trời vào cho con người . Sợi khí đó là hơi thở. Hơi thở là sự sống, mà sống là phải thở. Nhưng thở cách nào cho sự sống khỏe mạnh và sống lâu dài, đó là cả một nghệ thuật nên phải luyện khí vừa để nuôi cơ thể, vừa để dưỡng thần chí.

Đức Chí Tôn dạy:
Bởi lẽ luyện khí chưa thành thuộc mà vào tham thiền, dinh khí và vệ khí phản khắc nhau (như trình bày ở trước) thì tẩu hỏa nhập ma, do người tu luyện không biết thở cho đúng cách.
Muốn tịnh tâm (an tâm) , ta phải thở bằng bụng: phình bụng là hít vào, thót bụng là thở ra, thở như vậy để trái tim được thong thả.
2-Thở êm nhẹ:
Biểu hiện sự thoải mái trong tâm hồn, hơi thở ra hoặc hít vào không có tiếng động, người ngồi bên cạnh
không nghe được hơi thở của ta. Hãy đặt một cái lông trước lỗ mũi, nếu hơi thở lay động cái lông, tức hơi thở
chưa êm nhẹ
3- Thở đều nhịp:
Vì các cơ quan trong thân thể đều tuân theo một nhịp điệu nhất định để giữ thế cân bằng, ổn định sinh lý và phụ thuộc vào nhịp thở và nhịp tim. Hai loại nhịp nầy quan hệ mật thiết với nhau. Do đó thay đổi nhịp thở cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của tim, tốt hay xấu tùy theo nhịp thở mau hay chậm .
Phải giữ đều nhịp thở từ đầu đến cuối lúc luyện khí, 8 lần trong một phút là tốt.
Khi tập thở thì thả lỏng các cơ bắp không tham gia vào động tác thở, như tay chân chẳng hạn. Hai mắt phải lim dim hoặc nhắm hẳn lại để dễ dàng tập trung ý tưởng vào Hạ khí hải (tức Đơn điền). Nhờ đó ta tưởng tượng khí lọt vào mũi nhẹ nhàng làm bụng phình lên, xẹp xuống. Tới một lúc, ta cảm hấy hơi thở dương khí lôi cuốn mình đi…và ta sắp bước sang trạng thái khoan khoái kỳ lạ phiêu diêu.
1- Với tư thế nằm, ngồi gì cũng được, thường là ngồi xếp hoa sen, để hai bàn tay ngữa phía dưới Đơn điền. Hai vai không lay động , vì nếu nhúc nhích sẽ làm cản trở động tác hô hấp.
2- Luôn luôn thể hiện trong tâm hình ảnh : phình bụng hít vào, xẹp bụng thở ra cho hết thán khí Thở sâu, thong thả, nhẹ nhàng và đều nhịp
Tập thở thuần thuộc đến độ nào đó không cần tập nữa mà cơ thể phản xạ thở tự nhiên theo thói quen.
Thầy Mạnh Tử viết rằng: “Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập nhi thủ chi”. Nghĩa là làm theo đạo pháp thì khí sanh mà không dùng sức để cưỡng chế. Thầy cũng nói: “Tất hữu sự yên, nhi vật chánh. Tâm vật động. Vật tư trưởng dả”. Aét có sự đến (khí sanh) nhưng đừng dùng sức mạnh ép khí.Tâm không động mà chẳng lưu ý trợ trưởng nữa. Thầy cho phép luyện thở như cách trồng lúa, muốn lúa mau lên thì phải năng chăm bón chớ chẳng phải lấy tay nhóm gốc, chẳng khác gì thúc bách khí chóng đến mà không biết pháp nuôi dưỡng khí thì không bao giờ đạt hiệu quả.

Muốn tọa tịnh, trước phải nhập định. Nhập định là làm cho tâm thần yên ổn, không nghĩ suy điều chi, chỉ nuôi dưỡng duy nhất tư tưởng thánh thiện trọn lành. Giờ nhập định tốt nhất là sau lễ thời mẹo, dậu . Các tịnh viên sắp đàn, ngồi hoa sen như ngồi cúng ở Đền Thánh , lấy dấu Thầy xong ,bắt đầu niệm các bài kinh, nghĩa là đọc thầm bằng tư tưởng mà không phát ra thành tiếng để dứt tam nghiệp: khẩu , ý (tâm) thân mà diệt tam độc: tham , sân ,si.
Tịnh tâm chú
Lòng người đặng tánh linh hơn vật
Biết kỉnh thành dè dặt khôn lanh
Khá tua lánh dữ làm lành
Những điều nghiệt ác hóa thành khói tan .
(1 lạy)
Tịnh thần chú
Ở trần thế bụi nhơ thân vấy
Khí trược xin bốc tẩy thành hơi
Đạo tâm giữ sạch chẳng dời
Lòng thành kỉnh lạy Phâït Trời chứng tri.
(1 lạy)
Muốn tọa thiền phải tập trung ý tưởng cao, xóa bỏ tư tưởng thiện ác lởn vởn trong tâm. Âm thanh đập vào tai nghe như không nghe. Ánh sáng chói vọi vào mắt thấy mà như không thấy, tạo cái tâm phá chấp
Muốn tĩnh tọa phải là một cái bồ đoàn, hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn. Bồ đoàn để giữa cái niệm hình vuông cạnh 6 tấc. Tu sĩ ngồi lên bồ đoàn xếp hoa sen như ngồi cúng ở Tòa Thánh .
Xương cùn chiếu đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua, nghiêng lại cho chính rồi chỉnh thân cho ngay thẳng, hai ống chân kéo sát vào thân, sau đó nới lỏng dây lưng, cổ áo cho thoải mái. Lấy mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải (nữ thì làm ngược lại ). Hai ngón tay cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn tay đặt nhẹ vào dưới đơn điền..lưng thẳng , đầu hơi cuối xuống, mắt nhắm ¾. Gương mặt bình thản và bắt đầu thở bằng bụng (thai tức) . Nhớ ngậm miệng lại , răng khít răng, lưỡi kề răng làm như vậy giúp cho mạch nhâm và mạch đốc giao nhau. Nước miếng sẽ chảy ra gọi là huỳnh tương cam lộ, hãy nuốt từng ngụm một, gọi là ngọc dịch hườn đơn , nước miếng đó chính là tinh, tinh hóa khí, khí hóa thần.Nhờ đó điển trong người không thất thoát (trở lại trên) và luôn được pháp luân thường chuyển .
Nếu nằm ngữa thì buông lỏng cơ thể, thở tự nhiên , nhắm mắt ngậm miệng. Đặt huyệt lao cung của hai lòng bàn tay vào ngay huyệt Đơn điền.
Nếu nằm nghiêng bên trái thì đặt huyệt lao cung tay trái vào dái tai , lóng ngón tay út đặt lên huyệt Thái dương , chân trái duỗi thẳng, chân mặt hơi co, Huyệt Lao cung tay phải đặt trên huyệt hoàn khiêu . Nằm nghiêng bên phải thì ngượïc lại.
Cứ thở đều đều cho huyền khí bên ngoài hòa lẫn với nguyên khí bên trong người thành chơn nhứt khí để nuôi cơ thể. Dẹp bỏ hết mọi ước muốn ở cõi trần gian , giữ cái tâm thanh tịnh, một ngày nào đó mà takhông thể biết trước được , tự nhiên thần khí của ta sáng bừng lên cảm thấy chân lý. Đó là lúc điểm sáng linh quang được bật cháy tỏa quanh thân ta, ấn chứng ngộ đạo . (1)
Lục Tổ dạy: “Một khi đã ngộ, thì chỗ nào cũng vậy . Muốn hồi hướng về Phật phải theo tự tánh mà hành chớ cầu ở ngoài thân. Tâm giác ngộ sáng suốt là Phật, Tâm ấy phóng đại quang minh phá hết lục dục chiếu vào tự tánh làm cho tam độc dứt liền , các tội đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tỏ chẳng khác gì cõi Tây phương”.
Tịnh từ 1 đến 2 giờ , muốn xả tịnh thì hai bàn tay chà sát vào nhau cho nóng gọi là “âm dương ký tế” rồi chà từ mặt lên trán ra sau ót , đoạn vuốt hai bên tai , hai cánh tay, hai ống chân. Sau cùng, hai bàn chân tự chà vào nhau, rồi đứng lên đi lại bình thường.
-------------------------------------------------------------
Ngộ có ba bậc: khải ngộ và chứng ngộ
Khải ngộ phải nhờ thiện trí thức chỉ dẫn phép tu niệm đọc kinh đọc sách, gọi là trí hưũ sư
Giải ngộ là nhân nghe một câu kinh hay lời giảng đạo Thánh hiền, liền thấy được bản tánh nhanh như chớp (sát na).
Chứng ngộ là công phu tịnh luyện viên mãn , an trụ tánh giác trọn vẹn do tịnh luyện mà phát ra,
không nhờ sự giúp đỡ của ai , gọi là trí vô sư. Được chứng ngộ mới đạt bất sanh bất diệt tức giải thoát sinh tử mà hằng sống.

Thầy cũng dạy:’’ Tham thiền nhập định là để tâm thần yên ổn hầu có sửa mình màtrừ khử các bịnh và diệt thất tình lục dục”.
Thật vậy luyện tam bưủ ngũ hành theo cổ nhân là để điều hòa mọi hoạt động sinh lý nội tạng và thần kinh . Trong sinh hoạt hằng ngày, cơ thể bị thay đổi luôn, hơi thở cũng phải thay đổi cho thích ứng. Ngồi bàn làm việc, chân tay ít hoạt động , mệt mõi; thay vì hút thuốc lá, hãy thở sâu 5 lần sẽ thấy khoan khoái . Khi lao động nặng nhọc, máu chứa đầy urê và acid lactic , hãy cứ thở sâu như trên đây sẽ thấy kết quả tốt.
Khi giận dữ, cáu gắt, nhịp tim đập dồn dập, hơi thở rối lên. Để nén cơn giận, ta hít vào thật sâu, đưa cơ hoành nén hơi giữ khí lại rồi thả ra từ từ. Làm như thế 5 lần cơn giận sẽ hết.
Đêm nằm không ngũ được, ngồi dậy xếp hai chân cho chặt làm động mạch đùi bị ép lại và thở như trên, rồi nằm xuống. Máu động mạch dồn trở lại hai bàn chân , đồng thời lôi cả máu từ não xuống, cơ thể chuyển sang trạng thái thiếp ngủ .
Thở bằng bụng có thể trị được nhiều chứng bệnh . Nhờ thở bằng cơ hoành, coi như trái tim thứ hai (deuxième coeur- veineux ) giúp người bị suy tim thoải mái vì tim ít gắng sức. Khi lên cơn hen suyển, ngồi thẳng thở ra một hơi dài sâu và tập trung ý xuống vùng dưới bụng đang thót vào như để đẩy khí ra thật hết rồi tự động hít nhẹ nhàng vào. Cố tập thời gian dài sẽ cắt đứt được cơn hen.
Khi thở bằng bụng, cơ hoành coi như cây thụt xoa bóp nội tạng như dạ dày, gan , ruột ; nên có tác dụng trị bón và loét dạ dày; đặc biệt kích thích tuần hoàn tĩnh mạch gan, làm tiêu tan xung huyết để ổn định tiêu hóa và hạ bịnh cao huyết áp.
Tóm lại , luyện khí thở bằng bụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao sức khỏe cho cơ thể, tạo niềm tin mình tự chửa bịnh cho mình . Thế mới hay luyện tam bưủ đồng nghĩa với luyện tập dưỡng sinh cho thân khoẻ mạnh . Bởi lẽ, tinh thần Thánh Thiện chỉ có trong xác thân khang kiện.
DƯỠNG SINH THI
Tích khí tồn tinh , cánh dưõng thần
Thiểu tư quả dục , vật lao thân
Thực bôi bán bão vô kiêm vị
Ẩm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn , đa thú tiếu
Thường hàm lạc ý , mạc sinh sân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu giao quá bách xuân
Dịch nghĩa:
Giữ khí , gìn tinh , lại dưỡng thần
Ít lo ít muốn , ít lao thân
Cơm nên vừa bụng đừng nhiều vị
Nước chỉ vài phân, chớ quá tầng
Môi cứ câu đùa vui miệng mãi
Dạ thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
Nóng hờn , biến trá, thôi đừng hỏi
Để NGÃ tiêu giao đến tuổi trăm.
Đại ý bài thơ:
Luyện tinh khí thần mục đích là để trường sinh , có sức khỏe để yêu đời , yêu người, không giận hờn, gian trá, ham muốn, mưu toan. Cứu cánh của người tu là thanh đạm ít món ăn vừa đủ no, uống từng ngụm nhỏ vì nước nhiều làm mệt tim.
Bởi lẽ bệnh tật phát sinh do ăn uống quá độ, tích tụ nhiều năm làm cơ thể mất quân bình âm dương mà sinh nhiều chất độc. Chỉ ăn khi đói , chỉ uống khi khát. Aên những chất thuần dương, như ngũ cốc xay lức và hoa quả. Tuyệt đối không ăn các thức có chất hóa học và các loại cà, măng, nấm… Được như vậy sống sẽ đến trăm tuổi già (quá bách xuân).
Xem tiếp

