Có phương pháp bào chữa chớ. Mình có thể tự mình làm trạng sư đặng bào chữa tội cho mình. Nếu khi đang sống, mình biết cái lỗi của mình, tức nhiên Ngươn linh của mình cãi cho mình. Ngươn linh cãi tội cho chơn linh thì ngày kia không có bắt tội nữa. Đó là phương pháp bào chữa tội của các chơn linh cao siêu đoạt Đạo. Phải chăng đây là phương pháp NHỰT NHỰT TAM TỈNH HỘ THÂN, không phải một ngày mình thăm Cha, Mẹ một lần mà còn phải xét mình ba lần nữa. Đức Chí Tôn nói rằng: Tội tình các con đầy dẫy trên mặt quả địa cầu này, mà đến giờ chót các con kêu danh Thầy:
thì Thầy đến cứu. Thầy đem Bí pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Khi Ngươn linh của chúng ta đã đồng tánh với Càn khôn Vũ trụ, đồng tánh với Chí Linh là đoạt Đạo. Đấng Chí Linh duy chủ mà để quả kiếp trong tay Đấng Chí Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ quan giải thoát đoạt pháp là vậy đó.
Quả địa cầu 68 này nhỏ hơn hết mà nhơn loại nơi đây có hơn 2.700 triệu. Trong Càn khôn Vũ trụ có tới 3 ngàn triệu quả địa cầu thì biết bao nhiêu nhơn loại? Từ vật loại cho đến con người nó có linh hồn của nó mà Đức Chí Tôn làm Chúa cả sanh mạng của nó… Như thân thể chúng ta thử hỏi sợi lông nheo nó ngứa có động đến thân thể chúng ta chăng? Ngón tay bị lột phao chúng ta có biết đau chăng ?
Trong Càn khôn Vũ trụ này nhứt động nhứt tỉnh Ngài đều biết, các vật loại đâu đâu Ngài cũng đều thấu đáo. Bởi vì chính thân thể của Ngài là cơ quan giải thoát. Bí mật là vậy đó.
Khi vô Cung Phục Linh thì chúng ta sống lụng lại, nhờ Đức Phục linh tánh Phật gìn giữ nguyên kiếp của chúng ta, qui tụ chơn linh lụng lại. Ở trên Thượng Nê Noàn có Hộ Pháp bắt ấn giữ Ngươn linh chúng ta. Chúng ta sống nơi Cung có hồi mê muội để quên kiếp trước của mình. Linh hồn chúng ta được sống lụng lại, không biết chừng muôn triệu kiếp từ vật loại tới phẩm nhơn loại. Khi chúng ta thác qua sống lại, cơ huyền bí làm cho chúng ta nhập vô trong Ngươn linh của chúng ta.
Thiên hạ muôn trùng vạn điệp đều không qua khỏi luật Trời. Cái nền chính trị Càn khôn Vũ trụ thế nào mà nắm vững chắc nó đặng? Định quyền, cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là gì ?
Muốn trị kẻ dữ chưa cần Toà án, chưa cần ngục. Muốn thưởng kẻ lành không cần Vương Đế, không cần phải thưởng… Luật khó khăn hơn hết là trị tội và thưởng công mà hai điều ấy không cần thì nền chính trị Càn khôn Vũ trụ để làm gì? Để đặng bảo thủ sanh tồn Càn khôn Vũ trụ, tức nhiên phụng sự cái quyền cầm quyền Càn khôn Vũ trụ, tức nhiên để phụng sự cho Vạn loại và Vạn linh.
Vì cớ cho nên cái bí mật của nhơn loại đem hình ảnh hữu hình này làm con vật tại thế gian có mục đích tối trọng, tối Thiêng liêng. Chúng ta đến thế gian đặng phụng sự cho nhơn loại Vạn linh hữu hình, phụng sự đặng định phận cho chúng ta. Hễ phụng sự đắc lực thì đoạt vị đặng, còn phụng sự bất lực thì phạm tội. Bần đạo lập lại một lần nữa và nói quả quyết rằng: “Cơ quan giải thoát của Đức Chí Tôn do nơi công nghiệp của chúng ta phụng sự cho Vạn linh đó vậy .”
Khi vào Linh Tiêu Điện ở Ngọc Hư Cung, lúc mới tới ngoài, chúng ta thấy lầu các nguy nga. Dầu vị kiến trúc sư nào ngó thấy rồi thì mơ mơ, mộng mộng hoài, mơ mộng cái vẻ đẹp ấy, không thể gì tưởng tượng được cái đẹp cái khéo của nó đặng. Lầu các bằng ngọc, muôn hình ngàn tướng. Hễ chúng ta tưởng tượng cái gì thì nó hiện ra cái nấy. Quyền pháp vô biên vô đối.
Bước vô nhìn lên thấy vũ trụ mênh mông đại hải. Chúng ta thấy từ trên dài tới dưới, một Triều chánh không thể nào tả nổi, oai quyền huyền bí làm sao đâu! Trên hết chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn ngự với cái triều nghi của Đức Ngài là Huỳnh Kim Khuyết. Trên đầu của Đức Ngài, nơi xa xa chúng ta thấy vòi vọi, xa nữa chúng ta thấy 3 vị Phật mà chúng ta thấy tượng hình trên Bát Quái Đài là BRAHMA Phật, CIVA Phật và CHRISTNA Phật.Con mắt mình ngó thấy như một đạo hào quang chớp nhoáng mà không có hình ảnh gì hết chiếu diệu trên cái triều nghi của Ngài là Huỳnh Kim Khuyết. Dưới Huỳnh Kim Khuyết là Cửu Phẩm Thần Tiên đương ngự triều với Đức Chí Tôn, oai nghiêm không thể nào tả được.
Nếu may duyên mà chúng ta đoạt Pháp, đoạt vị đặng thì dầu chúng ta hàng phẩm dưới cũng không cần gì mơ mộng hết.Nếu chúng ta nhìn lên thì thấy địa vị của chúng ta không có nghĩa lý gì.Còn nếu chúng ta bị đọa thì hại thay,khổ thay, đau đớn thay! Cái triều nghi xa tuốt mút khỏi con mắt ta rồi nó biến mất. Chúng ta không biết mình đến đâu, chỉ đứng đó chịu một tấn tuồng thảm khổ.
Hại thay, cả tội tình hiện ra trước mắt ta, không thể gì chối cãi được.Mình xử lấy mình, hễ xử rồi thì từ từ hạ xuống cho tới cửa Trần gian, ấy là cửa Phong đô đó.
Có nhiều Đấng đến gần Đức Chí Tôn, xấp xỉ cùng Đức Chí Tôn cao sang vinh hiển dường ấy. Chúng ta ngó thấy những vinh quang đều hiện ra chữ KHỔ, các Đấng ấy lập vinh quang cao trọng là do thắng khổ đó vậy. Họ đoạt đựơc cái quyền năng vi chủ của họ mà cái khổ muôn triệu vô số trong những kiếp sanh của họ.
Chính mình thấy ngay Đức Chí Tôn chữ KHỔ, mà Ngài là Càn khôn Vũ trụ? Bởi vì Ngài có quyền năng vi chủ cái khổ của chúng ta. Tưởng tượng coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng nó nổi? Đó là vì mình không đủ can đảm, không đủ tinh thần chịu khổ, sợ khổ rồi không biết vi chủ cái khổ.
Ngó hình thể của Đức Chí Tôn, thấy Đức Ngài không nói, không có thinh âm mà tinh thần của chúng ta và Ngài dường như có liên quan cùng nhau vậy. Ngài còn có nhiều thống khổ, còn ta, ta chịu có một phần mà ta than thở thối chí sao! Thống khổ Thầy đã chịu muôn triệu lần, vì thế khi thấy mặt Đức Ngài thì những sự sầu thảm đau khổ về tâm hồn và xác thịt chúng ta đặng an ủi. Hỏi tại sao? Tại khối quyền năng vĩ đại kia là khối khổ, kho Bửu Pháp mà Ngài đã chịu thống khổ mới đoạt được huyền vi ấy. Chúng ta được an ủi sau khi chúng ta thắng nổi khổ.
Bần đạo dám chắc và nói quả quyết rằng: Rất hạnh phúc cho kẻ nào đã chịu nhục nhã về xác thịt thì linh hồn họ sẽ được hạnh phúc vô đối vì kẻ ấy phải chịu thống khổ của Đời mới được Đức Chí Tôn an ủi. Rất hữu hạnh cho những kẻ chịu trong kiếp sanh bị thiên hạ đè nén, khinh rẻ, chê bai: Đức Chí Tôn đem họ vào một địa vị phi thường vinh hiển.
Nếu chúng ta đủ can đảm chịu nỗi cái khổ của Đức Chí Tôn là chúng ta được một kho vô tận vinh hiển đó vậy.
Chúng ta rủ nhau đi từ Cửu Thiên Khai hóa, tinh thần chúng ta quan sát,nếu chúng ta đoạt vị đặng thì sự ấy vinh hiển không thể nói hết.Về nơi Tiểu Thiên Cung tức là gia tộc của chúng ta lập thành trong các kiếp sanh. Ta đi từ Tiểu Thiên Cung cho đến đại gia tộc của chúng ta.
Trong Tiểu Thiên Địa của chúng ta cũng có Ma, có Phật.Tại không khéo của ta trong mấy kiếp sanh, vì thù hận chẳng vì yêu ái, vì oán cừu chẳng vì bác ái. Hễ oán cừu thì tạo nghiệp Quỉ ma, còn bác ái từ bi thì tạo nghiệp Phật.Chúng ta dầu có quyền năng trong kiếp sanh đoạt Tiểu Thiên Địa, những gì giục ta cừu hận oán ghét thì chúng ta tìm cách tuyệt bỏ lần đi.Mỗi kiếp sanh tạo sự yêu thương đặng sống hưởng nơi Cực lạc Thế giới. Mỗi kiếp sanh các Chơn linh trừ bớt thù hận, đoạt quyền lực thương yêu y như trên hình tượng trước Đền Thánh mà Đức Chí Tôn để Tam Thánh ký hòa ước với Ngài vậy.
Cực Lạc Thế giới là nơi ta về cùng Tiểu Thiên cung của chúng ta, nhứt là bên Phật cảnh, còn bên ma cảnh ta đè nó xuống. Đó là nơi chúng ta định Pháp.Trong Đạo giáo nói có quyền lực tinh thần linh quang chiếu diệu, không cảnh nào trong Càn khôn Vũ trụ mà không thấu đáo; chỉ ngồi một chỗ mà dời non lấp bể, đảo hải di sơn.Bởi chúng ta đào tạo mỗi kiếp sanh đoạt thành chơn pháp, nắm vững trong tay chơn pháp, lấy hữu hình mà tạo bí pháp vô biên, nó có quyền năng vô tận.
Đức Chí Tôn có thể ban đặc ân cho ta chưởng quản một thế giới vài ba chục quả địa cầu, ta thấy chỉ tại nơi Cực lạc Thế giới mà vận hành sanh hóa trong khuôn luật, không cần đi đâu hết.Quyền năng vô tận ấy, ta không hiểu, mà chính nó tấn triển mãi cho đến ngày giờ nó đủ quyền đoạt chơn pháp, đủ quyền tạo Càn khôn cho nó như Đức Chí tôn tạo Càn khôn của Ngài.
Tông đường thiêng liêng của chúng ta mỗi người đã sẵn. Đức Chí Tôn nói rằng “Cái gia nghiệp của các con Thầy đã gìn giữ, dành sẵn, ấy là Tông đường thiêng liêng của chúng ta đó ”.
Tông đường thiêng liêng của chúng ta chia làm 3 hạng :
- Hạng trí thức tinh thần chúng ta do Ngươn linh của chúng ta sản xuất.
- Hạng ngoại thân là những chơn hồn chúng ta đã làm bạn khi tái kiếp làm người. Mỗi kiếp làm người chúng ta có Cha, Mẹ, Anh, Em, bạn tác, thân quyến .. những người thân.
- Hạng nội thân của chúng ta là chính các chơn linh của chúng ta đã giáng linh đầu kiếp .
Mỗi kiếp mình giáng linh phân thân đầu kiếp là một người đặc biệt riêng ra. Các bậc cao siêu chẳng cần tại kiếp. Họ có quyền giáng linh đặng chuyển kiếp. Như câu kinh: ”Nhứt thân ức vạn diệu huyền thần biến” nghĩa là vậy đó.
Không có ngoại thân thì Tiểu Thiên Địa chúng ta không có.Dầu cho nội thân, dầu cho ngoại thân, nó vẫn phản nghịch lại chúng ta; ngoại thân thường phản phúc với chúng ta lắm..
Nơi Ngọc Hư Cung có các Tông đường thiêng liêng cao trọng như :
b. Tông đường của Địa Tạng Vương Bồ Tát.
c. Tông đường của Đức Di Lạc.
d. Tông đường của Đức Phật Thích Ca.
e. Tông đường của Đức Lão Tử.
f. Tông đường của Đức Khổng Tử.
g. Tông đường của Ngài Jesus Christ.
h. Tông đường của Ngài Mahomet
i. Tông đường của Hộ pháp .
a. Tông đường của Quan Âm Bồ Tát, tức nhiên Từ Hàng Bồ Tát.
Trong Tông đường thiêng liêng chúng ta có ngoại thân và nội thân. Dầu cho ngoại hay nội thân, nó cũng vẫn phản nghịch lại chúng ta. Chính nơi mình của Đức Chí Tôn,trong nguyên căn của Ngài có Quỉ Vương.Tính bác ái từ bi của Ngài tạo nghiệp Trời, còn oán thù tiền kiếp tạo nên Quỉ vương.
Quỉ Vương hay Kim Quang Sứ là một vị Đại Tiên có quyền hành đem ánh sáng Thiêng liêng của Đức Chí Tôn chiếu diệu trong Càn khôn Vũ trụ. Vị Đại Tiên ấy gấm ghé bước vào Phật vị. Cái quyền năng của Ngài đoạt đặng tưởng không thua kém Đức Chí Tôn là bao nhiêu, do tự kiêu tự đại còn một bước đường nữa mà đoạt không đặng.
Người hám vọng, muốn cầm quyền lực để điều khiển Càn khôn Vũ trụ, chưa đoạt đặng mà Ngọc Hư Cung đã biết tinh thần Kim Quang Sứ muốn phản phúc. Ngọc Hư Cung mới cho Người làm chủ một cõi nhưng Người không vừa lòng, phản lại mới bị đoạ vào Quỉ vị.
Nếu chúng ta muốn biết tình trạng của Kim Quang Sứ, đoạt quyền Thiên Cung buổi nọ thì coi trong quyển Chơn Truyền Thánh Giáo Gia Tô.
Ngày giờ này, Đại Tiên Kim Quang Sứ đã đặng ân xá bởi vì Quỉ vị cũng được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn ân xá như toàn thể các Chơn hồn trong Càn khôn Vũ trụ. Chúa Quỉ lãnh một phận sự tối trọng tối yếu là làm Giám khảo dượt Chư Tiên đoạt phẩm vị Phật. Cho nên trong lúc cả thảy Thánh thể của Đức Chí Tôn đương hòa ái với nhau; giữ theo nề nếp chơn truyền của Đức Chí Tôn thì Kim Quang Sứ giáng cơ cho một bài thi như một tối hậu thơ:
Cửu Phẩm Thần Tiên nể mặt ta.
Thích Ca dầu trọng khó giao hòa.
Cửa Kinh Bạch Ngọc năng lui tới.
Đường Đạo Tây Phương thử chánh tà.
Để kẻ thù nghịch khảo dượt toàn con cái của Đức Chí Tôn, tức nhiên là khảo dượt Đức Chí Tôn, nhưng Ngài không có nao, không có sợ. Chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí Tôn hơn quyền phép Kim Quang Sứ thế nào? Hơn nhiều lắm.
Khi mới mở Đạo tại Từ Lâm Tự, Đức Chí Tôn đến, cơ viết tên Ngài, Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến khảo dượt, phá cho tiêu nền chơn giáo của Ngài. Cả Thánh thể Đức Chí Tôn và toàn thể con cái của Ngài đang bị tay Kim Quang Sứ làm hại; đủ mưu lược, mưu chước đặng làm cho thất Đạo. Nhưng, quyền lực Kim Quang Sứ bao nhiêu đi nữa cũng chưa qua khỏi cái mức của Đức Chí Tôn đã vạch sẵn cho con cái của Ngài đi.
Đức Chí Tôn cho thử con cái của Ngài đặng bỏ Phàm lấy cái THÁNH chất. Đức Chí Tôn có thể định vị cho mình nhưng mình phải lấy đạo đức của mình lập phẩm vị. Tức nhiên, mình phải chịu khảo dượt, phải thi thố cho đậu mới đoạt đặng phẩm vị cao siêu của mình
Buổi ban sơ, tinh thần của Bần đạo còn hoang mang, không biết tại sao có bổn phận đi mở Cực Lạc Thế giới. Cực lạc Thế giới là gì? sao lại phải đi mở? Tới chừng đi rồi mới biết tình trạng của các Đẳng Chơn linh đã đoạt vị trong Càn khôn vũ trụ chịu nạn khảo thí do nơi Kim Quang Sứ.
Nền chính trị Càn khôn Vũ trụ có hai cơ quan:
Pháp luân thường chuyển trong bí pháp dục tấn của các Chơn linh trong càn khôn Vũ trụ, toàn thể thuộc quyền Cực Lạc Thế giới.đĐây cũng được gọi Niết Bàn Cảnh, là nơi Hư vô tịch diệt, đoạt bí pháp chơn truyền và được định vị.Các Chơn linh đoạt Đạo đến đây đặng nhập vào đại nghiệp của họ. Cực Lạc Thế giới là cảnh chúng ta tạm giải thoát, tức là cảnh chúng ta tạm định nghiệp chúng ta chứ chưa phải là cảnh tối cao tối thượng của các chơn linh.
Buổi nọ, Bần đạo đi với cái Pháp bửu bằng Vân xa. Khi từ Ngọc Hư Cung qua Cực Lạc Thế giới, Vân xa bị Kim Quang Sứ đón đường không cho đi Bần đạo đương bối rối, không biết tính làm sao; liền khi ấy ngó thấy Đức Lý Minh Vương trong Pháp thân của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt cầm cây gậy nhảy ra chiến đấu với Kim Quang Sứ. Hai đàng đánh với nhau không phân thắng bại, bửu bối không biết bao nhiêu mà bất phân thắng bại. Hồi lâu ngó thấy Đức Lý Minh Vương đập Kim Quang Sứ một gậy, đập văng hào quang ra đen như lọ nồi, đập thấy biến thành người thứ nhì nữa. Trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn có một vị chức sắc ra đánh với người thứ nhì đó. Kim Quang Sứ biến ra bao nhiêu thì bên này cũng hiện ra bao nhiêu để đánh với nhau; một trận đại chiến náo nhiệt.
Bần đạo ngồi trên Vân xa cũng như ngồi trên máy bay khán trận vậy. Nhìn riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ rồi thức dậy thấy cũng còn đánh. Làm ba lần như vậy, tới lần thứ ba tỉnh lại thấy mặt trận đầy cả Càn khôn Vũ trụ. Bên mình không biết làm thế nào chiến đấu cho lại. Vừa nghĩ vậy thì Pháp thân của Bần đạo hiện ra một người nữa. Hồi Bần đạo ngồi trên Vân xa thì mặc áo trắng, bịt khăn trắng y như đạo phục mặc thường ngày đi cúng nhưng làm bằng gì mà mặc vào nghe trong mình nhẹ nhàng sung sướng làm sao. Tới chừng xuất Pháp thân ra, thấy mặc đại-phục mà tôi nhái theo kiểu đó nhưng vẫn chưa thiệt trúng. Mặc đồ Đại-phục rồi, tay cầm cây Giáng Ma Xử với cây Kim Tiên bay giữa không trung; người ngồi trên và người ngồi dưới hiểu nhau như một người. Cầm cây Kim Tiên vẽ vòng gom lại thì chẳng khác nào như giải cái chài vậy. Định thần gom lại, vừa gom vừa thúc nhặt mặt trận ấy nhỏ lần lần, rốt cuộc chỉ còn Đức Lý Minh Vương đánh với Kim Quang Sứ.
Đánh với nhau một hồi, Đức Lý Minh Vương đập Kim Quang Sứ một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang đằng vân bay mất.Đường đi qua Cực Lạc Thế giới bị cản trở như thế, phải chăng trong Đạo giáo nói “Đạo bị bế ” vì lẽ đó.
Còn nữa, khi tới cửa ngoài Cực Lạc Thế giới thấy có hai cái chong chóng quay tròn luôn. Nếu chúng ta lấy trí tưởng tượng thì mặt dưới lên tới mặt trên ít nữa nó cũng cao 50.000 thước đặng ngăn không có người nào qua lọt. Hai cửa ấy, một cửa hóa ra hào quang trắng, một cửa hóa ra hào quang đỏ hồng hồng. Tới chừng dùng cây Giáng Ma Xử trong thân tôi định thần chỉ ngay vào bảo nó ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ vòng tròn ấy là chữ Vạn. Vừa biểu ngừng thì mấy người ngoài cửa Cực Lạc Thế giới chạy ùa vào. Bần đạo lại chỉ phía bên kia biểu ngừng thì họ cũng chạy vô được một ít nữa. Vô rồi thì thấy có một vị Phật đứng ở trên, hai tay bắt ấn thì chữ Vạn quay nữa. Phải chăng vì nơi Cực Lạc Môn ngoại có các đẳng chơn hồn đã đoạt vị mà vì Pháp giới đã bế khiến Tôi đi đến đó đặng bắt hai chữ Vạn ngưng lại cho họ vào. Đó là do Thánh ý của Đức Chí Tôn chớ không phải là sự tình cờ như con mắt của chúng ta tưởng. Ấy vậy, Đức Chí Tôn sai Đức Hộ Pháp qua mở cửa Cực Lạc Thế giới bởi hai nguyên do:
- Cơ quan trị thế do bên Cửu Thiên Khai Hóa.
- Cơ quan giác thế do bên Cực Lạc Thế giới, điều khiển bằng sự giáo hóa.
- Vì đường từ Linh Tiêu Điện, Ngọc Hư Cung qua Cực Lạc Thế giới buổi nọ bị Kim Quang Sứ đón chận đường.
- Các vị Tăng đồ từ trước có tu mà thành thì không thành vì bị thất Pháp bửu nên bị ở nơi Cực Lạc Môn ngoại. Đức Chí Tôn biểu qua đó dẫn các chơn hồn cho có ngôi vị nơi Cực Lạc Thế giới.
Kể từ cung Tạo Hóa Thiên, Phi Tưởng Diệu Thiên cho tới Hư vô Cao Thiên cầm quyền giải thoát cho Vạn Linh. Trong kỳ Thượng Ngươn đệ tứ chuyển này, Đức Chí Tôn giao quyền Chưởng quản trị phần hồn và phần xác của Càn khôn Vũ trụ cho Đức Di Lạc Vương Phật, ngự nơi cung Hỗn Ngươn Thượng Thiên.
Nơi cung này, chúng ta thấy Đức Chí Tôn, tức nhiên gần Đức Đại Từ Phụ hơn hết. Đức Chí Tôn đến với hình thể là một vị Đại Từ Phụ. Nếu dân Do Thái đoạt Pháp đã qui liễu sẽ thấy Ngài là JEHOVAH giáo hóa họ. Nếu là người Trung Hoa đoạt Pháp về nơi cung ấy sẽ thấy Ngài đến với hình ảnh Hồng Quân Lão Tổ. Người Ấn Độ đoạt Pháp sẽ thấy Ngài với hình ảnh BRAHMA, CIVA hay là CHRISTNA. Đó là Cung Vạn linh hiệp Nhứt linh vậy. Cung ấy là Cung Chánh Pháp của Đạo Cao Đài để tại mặt thế này cho nhơn loại đoạt đến. Nơi Cung ấy,Đức Chí Tôn cho những kẻ dầu đoạt Pháp hay không vẫn về hiệp một cùng Đức Chí Tôn, rồi chính mình Ngài đến đặng giáo hóa, đặng dạy dỗ. Chính mình Ngài đến đặng cùng chung sống với con cái của Ngài. Trong buổi giáo hóa, Ngài không tiếc chi với con cái. Đức chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn nhơn có nói:
Khi chúng ta về tới Cung Hỗn Ngươn Thượng Thiên chúng ta mới ngó thấy cái hạnh phúc ấy. Cung Hỗn Ngươn Thượng Thiên cốt yếu là noi chung họp các Đấng Chơn hồn cao siêu, trí thức thông minh, kể từ bậc Tiên Thiên cho tới Phật vị đều ở nơi đây, ở đây đặng tạo dựng đại nghiệp của mình.
Cả toàn thể trong Càn khôn Vũ trụ hoặc tiêu diệt hoặc biến sanh cũng do nơi đó cầm chơn pháp quyết định. Đây cũng là nơi quyết định chương trình Long Hoa Đại Hội của toàn thể Vạn linh trong Càn khôn Vũ trụ.
Các Đấng tưởng niệm không xao lãng, luôn niệm danh Đức Chí Tôn, sống trong Đức Chí Tôn và hình ảnh hiệp một cùng Đức Chí Tôn. Đạo Pháp đã nói: Nếu chúng ta xuất hiện ra, biến tướng ra, đến ngày giờ nào chúng ta trở lại đặng tức nhiên là ngày ấy chúng ta đoạt Pháp, đoạt Đạo. Ấy vậy, nơi cung Hỗn Ngươn Thượng Thiên còn gọi là Cung Định, Cung Pháp.
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Tiên.
Chúng ta rủ nhau đến Niết Bàn cảnh, tựa như Kinh đô của Cực Lạc Thế Giới. Chúng ta sẽ thấy Đức Phật Thích Ca nơi Kim Sa Đại điện từa tựa như Kim Tự Tháp ở Egypte. Cửa Tháp này có một cây dương lớn lắm, chúng ta không thể gì tả được, hình dáng lá nhỏ như sợi chỉ vậy. Nếu lấy con mắt phàm quan sát bề mặt của nó chúng ta tưởng tượng tới chừng vài trăm cây số vậy, thấy mút con mắt. Cây dương ấy bao phủ phía trên làm như tàn che tủa xuống trọn vẹn. Trong cái bí pháp của Niết Bàn, nơi cây dương liễu ấy, mỗi lá dương đều có giọt nước Cam Lồ. Mỗi lá đều có một giọt nước. Mỗi một giọt nước là một mạng căn trên Càn khôn Vũ trụ.
Kim Tự Tháp có từng, có nấc với hằng hà sa số Chư Phật, không thế nào mà đếm được. Các Vị Phật ấy do Nguyên Linh của Đức Chí Tôn sản xuất và đoạt vị. Nếu một vị Phật muốn thăng lên nhứt phẩm Liên Hoa phải tái kiếp làm con vật, rồi từ con vật lên tới Phật vị, mới được một tầng Liên Hoa nữa. Pháp thân khi ngự trên Liên Đài họ rồi, sẽ toàn vẹn trong trẻo, huyền bí vô biên. Mỗi Liên Hoa của họ chiếu diệu tức nhiên mỗi linh pháp chuyển thế của Càn khôn Vũ trụ. Họ tương thân cùng Càn khôn Vũ trụ do điểm Liên Hoa của họ chiếu diệu mà thôi.
Niết Bàn bên Cực Lạc Thế Giới cầm quyền giáo hoá Vạn Linh.
Pháp thân xuất hiện từ Kim Bàn mới có bóng dáng mà thôi. Nhờ Sanh Sanh Tử Tử, thâu đoạt Ngươn khí mới tạo đặng Pháp Thân của mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền vi bí mật quyền phép Tạo đoan. Nói rõ hơn, Pháp thân của các vị Phật ngự trên Liên Đài Kim Tự Tháp do tổng số vạn kiếp sanh của họ. Vạn Pháp thân của họ tổng số lại biến tướng nên hình ảnh vô biên vô tận của họ.
Giờ phút này dưới cội cây Dương liễu tối cổ ấy,chúng ta thấy một Liên Đài rực rỡ quí báu vô biên vô giới chiếu diệu cả muôn muôn vạn vạn Linh Quang trong Càn khôn vũ trụ. Trên Liên Đài ấy, giờ phút này vị Chưởng giáo ở Niết bàn là ĐỨC DI LẠC VƯƠNG PHẬT, còn buổi trước Ngai đó thuộc quyền Đức Phật Di Đà. Ngày giờ mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức nhiên mở Đạo Cao Đài, Đức Chí tôn đã giao quyền lại cho Đức Di Lạc Vương Phật.Đức Chí tôn ban cho nhơn loại Nguyên tử lực cũng do nơi Liên Đài đó vậy.Khi chúng ta đến cảnh Niết Bàn thấy cái bí mật là chữ KHÍ.Đức Chí Tôn đã để chữ Khí nơi sau lưng Hộ Pháp là nó đó, chẳng gì khác.Đó là Khí Sanh Quang, tinh ba của nó là khí sanh của họ, là nguyên tử.
Đức Chí Tôn tạo cảnh Niết Bàn, các Chơn linh không ai mà không muốn, không thèm thuồng. Không phải không có người đến được. Được hay không là do nơi mình. Bần Đạo nói quả quyết, đó là cảnh tượng Đức Chí Tôn đào tạo dành cho con cái Ngài. Ngôi vị ấy trước kia ai ngồi đặng thì bây giờ mình cũng ngồi đặng. Tất cả do nơi căn đức của mình. Không phải của cải vô biên ấy dành cho ai hết, ai cũng có thể đến.
Các Chơn linh tự định quyền lập vị cho mình, muốn có Liên Đài nơi Kim Tự Tháp thì cũng do nơi mình. Chúng ta muốn mà được bền hay không bền thì cũng do chúng ta. Chơn lý bao giờ cũng vậy.
Trước khi vô Cực Lạc Thế Giới, chúng ta gặp đám đông ngồi ngoài cửa thành mà tụng niệm. Có kẻ gặp mình thì tỏ vẻ đau đớn thương tâm, khổ não tâm hồn lắm.Trong đám đó có đủ các sắc dân trên Càn khôn Vũ trụ, không phải quả địa cầu 68 này thôi đâu.
Khi họ đến Cực Lạc Thế Giới, họ gặp một bức tường cao vòi vọi cản ngăn họ vào. Khi đi trên không vào Cực Lạc Thế Giới nhìn xuống thấy họ lao nhao lố nhố, tới giờ thì đọc kinh. Đó là tín đồ của các Tôn giáo, dầu cho Tả đạo bàng môn nhưng mà tâm linh của mỗi người bao giờ cũng hướng về Đạo giáo. Nhiều hạng trí thức, nhiều Chơn linh siêu thoát mà lầm lạc…vì nơi đâu có Tôn giáo thì người ta theo, không biết chơn truyền là gì hết? Họ thật tâm tu mà không vào được là vì nền Tôn giáo đó thất chơn truyền. Họ vì nghe vì tin mà theo. Họ cũng đến Cực Lạc được, duy có một điều là họ không hưởng thiệt cảnh, họ hưởng giả cảnh mà thôi.
Họ phải ở ngoài Cực Lạc một thời gian đặng đào luyện tinh thần họ. Họ không có tội tình gì hết, chỉ đi lạc lối mà thôi. Một thời gian năm bảy trăm năm họ đầu kiếp lại tu nữa, tìm tàng thấu đáo chơn truyền mới được nhập vào thiệt cảnh.
Họ ngờ vực, không biết cái chơn lý thiệt là ở chổ nào. Họ nghi không có Niết Bàn, không có Cực Lạc, không có cõi Thiên cung, Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Nơi thế gian có kẻ ngu dốt thì cũng có những bực thông minh thấu đáo cả cơ thể tạo đoan. Cảnh thiêng liêng kia cũng vậy, sự thật mà mình còn nghi ngờ là do mình mờ ám. Nơi thế gian này đã có những bậc cao siêu như Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jesus, được nhân loại gọi là Phật tại thế. Ấy vậy, Chơn lý không tả được, phải tự suy gẫm. Sự mờ ám ngờ vực do nơi quả kiếp của họ. Họ phải chịu thống khổ, chịu tấn triển mỗi kiếp sanh của họ. Họ phải đi từ từ mà tấn hoá trong khuôn luật quả kiếp của nhơn loại.
Đức Chí Tôn có nói: Trong kỳ Đại Ân Xá này, nếu các con biết Đạo, các con tu một kiếp thì đoạt đặng. Lời nói ấy của Đức Chí Tôn nói không sai, đoạt đặng cùng chăng là do nơi mình.
Trước đây, Đức Di Đà Chưởng quản Càn khôn Vũ trụ. Trong kỳ Thượng Ngươn tứ chuyển này, Đức Di Đà đã giao quyền Chưởng quản Càn khôn Vũ trụ lại cho Đức Di Lạc.
Đức Di Lạc ngồi ngự nơi Kim Tự Tháp, còn Đức Di Đà trở vào ngự nơi Lôi âm Tự. Nơi đó, chúng ta có thể học các triết lý Phật giáo từ tạo Thiên lập Địa đến giờ. Cơ giải thoát của Phật cũng để tại mặt thế gian này,duy tại nhơn sanh không tu nên không đạt được Pháp. Từ Thượng cổ đến giở, nền Phật giáo là tối cổ, một nền Tôn giáo mẹ của các tôn giáo khác. Vào đây, Bần đạo được nghe lời thuyết pháp của Đức DI ĐÀ.
Thoạt tiên, chúng ta thấy phía xa xăm có ánh sáng chói dọi như mặt trời mọc buổi sáng, ánh sáng chiếu diệu như một vừng thoại khí.
Khi Pháp xa của Bần Đạo đến, thấy hào quang chói vào Pháp xa sáng rỡ, càng đi càng thấy vui sướng trong lòng. Lại gần tới thất một Toà Thiên Các đẹp đẽ lắm, màu sắc thay đổi. Lâu đài đó là một vật sống chứ không như lâu đài ở thế gian bằng gạch đá. Nó vận hành thay đổi màu sắc vô cùng vô biên. Bí Pháp ấy không thể gì tả đặng. Bạch Ngọc Kinh là một vật sống vận hành biến hoá, chung quanh thoại khí bao trùm từ Nam chí Bắc, từ Đông qua Tây. Khối lửa ánh sáng ấy chúng ta thấy như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời thì nóng nực, bực bội, còn ánh sáng nơi Toà Bạch Ngọc Kinh lại dịu dàng và huyền bí lắm.
Bạch Ngọc Kinh chia ra làm ba căn, căn chính giữa các vị cao siêu ngự. Nếu mình đứng xoay vào trong thì bên tả là phái Nữ, bên hữu là phái Nam. Hình bóng họ chiếu qua vách mà tấm vách thật lạ lùng, trong và trắng như sương sa vậy.
Nơi Bạch Ngọc Kinh, khí nó là Hỗn Ngươn khí, biến hình Hỗn Ngươn khí ra là Khí Sanh Quang. Chính nhờ Khí Sanh Quang mà chúng ta đã thở, đã hô hấp. Khí Sanh Quang nuôi sống cả sanh linh vạn vật. Ta sống cũng do nơi nó mà biểu làm sao không là vật sống.
Pháp xa vừa ngừng, Bần đạo bước xuống thấy 3 cửa của Bạch Ngọc Kinh có 12 vị Thời quân mặc khôi giáp tay cầm Bửu pháp đứng cản đường không cho thiên hạ vô. Mỗi cửa có 4 người giữ. Bần đạo hỏi: vì cớ gì không cho người ta vô? Họ nói: người ta biểu đừng cho vô. Biết là Kim Quang Sứ biểu nên giận quá liền day ra lệnh cho các Chơn linh vô. Họ tràn vô nghe cái ào, dường như nước chảy vỡ bờ. Tới chừng các Chơn linh vô hết, 12 vị Thời quân vô, Bần đạo vô sau chót.
Vào đó Bần Đạo thấy cả thảy đều có ngôi vị sẵn. Bần Đạo nghĩ sao người ta có chỗ ngồi mà mình không có? Vừa nói thì có tiếng “Cái ngai của Ngài kia.”Bần đạo dòm lên thì thấy cái ngai tốt lắm. Từ thuở đến giờ, dầu vạn kiếp sanh chịu khổ để tạo vị nơi mặt thế gian này cũng không bằng ngồi được trên đó. Sung sướng làm sao đâu: ở đó tưởng, muốn cái gì đều có hết.
Bần đạo tưởng ở thế gian nầy dầu muôn triệu kiếp sanh cũng chưa có cái sang trọng, sung sướng như khi được vào Bạch Ngọc Kinh.
Long Hoa Hội đó! Long Hoa Hội tại Bạch ngọc Kinh đó vậy. Đức Chí Tôn cho Bần Đạo thấy trước và ngó thấy các Chơn linh ngự trước đó đặng ngày kia con cái của Ngài cũng ngự như vậy. Bần Đạo làm chứng đặng nói lại với con cái của Ngài. Chúng ta chịu đầu thai, chịu cái khổ của đời mà lập vị mình. Đối với cái khổ hạnh muôn kiếp của mình, mình sẽ được trả lại một cách vô đối. Có thấy mới biết rằng Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào chịu thiếu nợ ai cả.
Rất hạnh phúc cho kẻ nào dám cả gan cho Ngài vay, rất hạnh phúc cho những kẻ nào biết yêu ái, biết làm tôi tớ cho Ngài. Ngài sẽ đáp lại cái ơn ấy cho mình. Tới chừng Đấng ấy trả lại cho mình thì không có cái hạnh phúc hay giá trị gì ở mặt thế gian này bằng được.
Khi vào Bạch Ngọc Kinh rồi, Bần Đạo muốn biết Đức Đại Từ Phụ và Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế có phải là một không ?
Vừa tưởng thì Tôi thấy cái gì bao phủ như tấm màn che vậy. Ý vừa muốn vạch cái màn ra thì cái màn ấy hé mở. Dường như có tầng, có nấc, xa lắm không thể gì tả đặng, kế đó thấy Ổng bước ra mặt áo trắng bịt khăn trắng giống như bộ đồ tiểu phục của Giáo hữu. Cũng có miếng vải lòng thòng sau lưng, râu bạc trắng coi đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu. Trong bụng nói: Ổng ngồi tại Linh Tiêu Điện mình ngó thấy trong bộ đồ khác, không lẽ hai người?
Vừa nghĩ thì thấy Ngài bước ra đứng ngay chính giữa ngó ngay Bần Đạo như thể biểu con coi đây. Ngó ngay lên Ngài, thấy đạo hào quang chiếu diệu, tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của Ổng quảy cái bầu, bên mình mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân, Ngài kéo cái bầu ra thành cái giá cân, kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp lại thành Cây Cân Thiêng liêng mà chính mình đã thấy nơi Linh Tiêu Điện.
Cũng Đại Từ Phụ nhưng thiên biến vạn hoá mà tạo ra Càn khôn Vũ trụ đó vậy.
Dầu cho một cái bông, chúng ta chưa chắc đó là một vật. Nếu chúng ta bẻ nó một cách vô lối, rủi phải nhằm sanh mạng của Phật thì khó mà tu lắm .
Một vị Phật Bồ Tát đương chuyển kiếp có thể trong dạng thú. Nếu mình ăn thịt nhầm, ngày kia về trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, họ nhắc kiếp trước Phật có ăn thịt tôi. Nhắc bao nhiêu đó cũng đủ mang bầu, quảy gậy mà tái kiếp nữa. Nơi thế gian này hằng hà sa số con vật, mà biết đâu trong con vật nào đó lại có vị Phật Bồ Tát đương tái kiếp để tạo Liên Đài, rủi ta ăn nhầm thì khó mà đạt vị lắm.
Vì thế, Đức Chí Tôn biểu chúng ta phải trường chay là vậy.
1.Giờ phút này đã mãn Hạ ngươn tam chuyển và vào Thượng ngươn tứ chuyển là hồi nhơn loại tương hợp với nhau, cả thảy nơi mặt quả địa cầu này,đó là thuyết Đại Đồng. Đem để nơi mặt địa cầu này một nền chính trị cho vững chắc mới hiệp đặng, tức nhiên khởi mầm để tạo một nền chính trị Hiệp chủng Đại đồng cho nhơn loại.
2. Bần đạo muốn biết hết Bạch Ngọc Kinh vì thấy Bạch Ngọc Kinh lớn lắm. Chưa kịp thưa xin phép thì Đức Ngài đã biết. Đức Ngài bước lại gần cái đôn, cầm cây gậy gỏ vào, cái đôn biến ra một ông già. Ông già dắt Bần đạo đi cùng nơi này qua nơi khác. Mỗi cảnh đều thu nhỏ lại như hòn non bộ vậy. Bần đạo đi khắp nơi, đi mệt quá. Đi bằng chơn linh mà cũng biết mệt. Càn khôn Vũ trụ mênh mông đại hải.
Về đến cảnh giới Bạch Ngọc Kinh rồi, đừng sợ thiếu chỗ ngồi. Không có thiếu đâu, nếu có, kêu Bần đạo, Bần đạo sẽ thường cho. Ở thế gian ráng TU để được về cảnh ấy. Bần đạo cho hiểu, cho ngó thấy đó đặng cho toàn thể con cái ráng chuyên cần lo tu. Không tu tại nơi mình, sau này đừng nói Hộ Pháp không thuyết giảng, không nói gì cho hiểu biết hết nên tôi không biết. Bần đạo nói có chứng thiên hạ.
