Thay Lời Tựa

      I .- Hai Chữ Thơ Thiền

                  Đạo Cao-Đài khai đạo năm 1926 tại Thánh Thất tạm Từ Lâm. Tháng 3 năm 1927 Đạo dời Thánh Tượng về chùa mới (Tòa Thánh ngày nay) thì chùa này đuợc đổi tên là Thiền Lâm Tự. Để nhớ nguồn  phát  xuất và khắc sâu những Thiền thi cho trong giai đoạn đầu, chúng tôi chọn hai chữ THƠ THIỀN.

       

                  Từ đêm 14 tháng 1 năm 1926 Đức Chí Tôn đã dạy về tâm pháp:

                              Thành tâm niệm phật

                              Tịnh tịnh tịnh, tỉnh tỉnh

                              Tịnh là VÔ NHỨT VẬT

                              Thành tâm hành Đạo Pháp

       

                  Đến ngày 28 tháng 1 năm 1926 Đức Chí Tôn dạy thêm:

                              Một ngày thỏn mỏn một ngày qua

                              Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.

                              Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,

                              Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

       

                  Đức Lý Thái bạch cũng khuyên nên luyện tâm pháp:

                              Có công phải biết gắng nên công (PHU)

                              Tu tánh đã xong tới luyện lòng (TÂM)

                              Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục

                              Đơn tâm khó (THIỀN) Định lấy chi mong.

       

                  Đức Lý dạy rõ hơn:

                              Tiên Phật nơi lòng người chứng tập

                              Tây phương tại thế chẳng xa đâu.

       

      II.- Yếu Lược Thiền Trong Đạo Cao-Đài

                Đức Hộ Pháp dạy rõ trong bài “Kinh Xuất Hội” như sau:

                              Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô

                              Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.

                 

                  Đạo vốn vô vi do một âm một dương tạo thành (nhất âm nhất dương chi vi Đạo). Đạo là gì? Đức Lão Tử cho rằng “Đạo khả đạo phi thường Đạo”. (Đạo  mà ta gọi được không còn là danh thường, thường ở đây là vĩnh hằng). Cái bản thể tuyệt đối có tên là “Không Tên” đó, chính là gốc của Trời Đất (Vô Danh thiên địa chi thỉ) tức là ngôi Thái Cực.

       

                  Đạo Hư Vô mà Sư cũng Hư Vô. Thầy (Sư) mà sao hư vô? Kiến giải thành ngữ “sắc tức thị không, không tức thị sắc” : Cái có vốn xuất phát từ cái không; Cái không lại xuất phát từ cái có, xem hiện tượng sóng gió thì thấy rõ.

       

                  Về giáolý, Thầy là Thái Cực, Thái Cực do khí Hư Vô sinh thành, vậy Thầy vốn có nguồn gốc từ cái không, Thầy là chơn sư của thiền định Đạo Cao-Đài. Nhưng sao Đức Hộ Pháp bảo “Sư Hư Vô”. Đức Chí Tôn đã dạy: Thầy vốn Hư Vô. Thầy chẳng giống thứ chi trên cỏi trần này. Bất cứ tín đồ của tôn giáo nhìn Thầy sẽ thấy có đức tin của họ ở trong, hình ảnh của Đấng Tối Cao mà họ đang sung bái. Thật là một sự bao dung đại đồng chưa từng thấy.

       

                  Như thế Đức Chí Tôn dạy về thiền định trong Đạo Cao Đài là vượt cái bản ngã, tức phải vô ngã nên không ai còn nghĩ mình là tín hữu của bất cứ một tôn giáo nào. Ta là ai? Hiểu rõ tánh ta là đắc đạo (Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa). Không phải đọc sách nhiều (Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục) , không phải tu lâu : từ tri đạo, hành đạo mà không đắc đạo là vì không cơ duyên, không thức tỉnh, vì còn chờ “Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh”.

       

                  Có những nguyên nhân chỉ cần một tiếng chuông, một câu kinh là ngộ đạo trong chớp mắt (sát-na) và thoát ra ngoài vòng sinh tử.

       

                  Tóm lại thiền định của Đạo Cao Đài  đưa nhân loại đến gần nhau, là đỉnh cao mở cửa đại đồng thế giới. “Sư Hư Vô” có bất cứ ở đâu, thiền bất cứ nơi nào, tự bạn khám phá; không ai ngoài ta giúp ta giải thoát đuợc.

       

                  Hành giả của Đạo Cao Đài tịnh luyện theo pháp môn nào?

       

                  Đức Chí Tôn dạy thờ Qủa Càn Khôn. Càn (  ) trên, Khôn (  ) dưới là quẻ Bỉ (    Bất Hòa) ám chỉ thời kỳ mạt kiếp (xin xem Lý Giải Qủa càn Khôn), nên Càn Khôn thất vị nhường trục Bắc Nam cho Ly (  ) Khảm (  ) mà Ly Khảm trọng trược nên Thầy dạy “Chiết Khảm điền Ly” tức lấy hào dương của quẻ Khảm hoán chuyển tới hào âm của quẻ Ly thì Khảm Ly trở lại Khôn Càn tức quẻ Thái (     Thuận Hòa) mà hạnh thông đắc đạo.

                 

                  Lý giải trên dạy ta phải gạn đục (âm) khơi trong (dương). Tập cách sống của chim bay trên trời tức bỏ tánh thị phi, vị kỷ. Hãy đè nén dục vọng ham muốn. Hãy quên đi các hành vi thiện của ta và sám hối những việc làm ác độc, nhớ rằng qủa bao giờ cũng đến từ nhân.

       

                  Muốn đạt những điều trên khi Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng, Đức Chí Tôn dạy làm đài luyện khí . Tập thở là quan trọng nhất trong thiền định. Thở đúng cách giúp ta đẩy than khí ra ngoài và hít những dưỡng khí vào trong để nuôi cơ thể. Ta có thể điều khiển khí thế nào cho pháp luân thường chuyển hay phản bổn hườn nguyên bằng một nội lực thâm hậu, không vọng động,  khi tịnh luyện mà còn tính lợi hại với đời, đó là động, và nghĩ rằng mình phải là Thần Thánh, đó là vọng. Hành giả luôn phải giữ tâm tỉnh mà lặng (Tịnh, tịnh, tịnh , tỉnh, tỉnh) nghe như không nghe, thấy như không thấy. Làm người có tai có mắt sao không nghe thấy, dù có nghe thấy thị phi mà lòng luôn phá chấp, gác bỏ ngoài tai mắt. Thế mới gọi là thiền định. Bất cứ  ở đâu, bất cứ đi đứng nằm ngồi, giờ cúng người hành giả cũng có thể thực hành đuợc. Tiến sĩ Trần Quang Hải phát hiện đồng song thanh trong giờ cúng tiếng cầu kinh cao ngất đưa hành giả đến thiền định, đâu đợi đến toạ thiền, ngồi im một chổ.

       

      III. Thơ Thiền Trong Đời Tu Của Đệ Tử Đức Cao-Đài.

                Theo lý giải trên có người cho rằng mỗi hành động mỗi lời nói của đệ tử Đức Cao-Đài hàm súc thiền ở trong. Nói đúng đắn hơn, mỗi lời thơ của các Đấng, của “Đạo đức văn Đàn” có thiền ẩn tàng. Thơ và thiền gần nhau ở điểm xuất trần vượt lên trên đối cảnh, chìm trong không gian tâm linh để đạt đến chân trí thức Tâm Không.

                  Ai đã đưa thơ thiền vào Thánh giáo của Đạo Cao Đài? Đó là các Đấng, chính danh hơn là Lý Thái Bạch, nhà thơ lớn thời thịnh Đuờng (713 – 766). Nhờ lấy cảm hứng từ Tam Giáo nên nhà Đường nổi lên thi Tiên, thi Phật (Vương Duy) và thi Thánh (Đổ Phủ), Lý Thái Bạch là thi Tiên không vì phong cách tuyệt vời bay bỏng mà còn do tài năng siêu phàm. Toàn huyết quản của Lý Bạch là thơ. Chính Ngài đã đưa thơ Đường Luật vào Thánh giáo của Đạo Cao Đài và trở thành Thánh thi.

       

                  Xem thế, Thánh thi nặng Đường luật thất ngôn, còn kinh lễ thường dùng Việt thi song thất lục bát. Tại sao chọn Đường luật làm Thánh thi?

      - Thứ nhứt, Đường luật coi trọng sự hài hòa cân đối qua sáu nguyên tắc của luật thi: niêm, luật, vần, đối, tiết tấu và bố cục.

      - Thứ hai, Đường Luật kín đáo, chừng mực, hài hòa giữa văn (cái bên ngoài) và chất (cái bên trong). Đức Không Tử nói: “Văn chất bân bân”. Thơ văn tươi tốt sẽ chung đúc khí thiêng liêng sông núi và sự lên men của tâm hồn.

      - Thứ ba, trong thơ Đuờng âm thanh thuờng là tiếng chuông chùa xa “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” . . . làm thức tỉnh lòng người. Thơ thường chỉ gợi không nghị luận, không nói rõ ý mà tùy người đọc luận ra Thánh ý. Điểm đặc sắc nữa là Đường thi ít thấy “cái tôi” trong đó.

       

      IV. Nội Dung Tập Thơ Thiền.

               

                    1.- Thiền thi: gồm thơ thiền của các bậc chân tu, tiền bối trước.

                  2. - Đạo thi: gồm thơ khuyến tu của các đấng, các chức sắc trong “Đạo Đức Văn Đàn” . Sở dĩ gọi đạo thi khuyến tu mà in trong tập Thơ Thiền vì lác đác ta tìm thấy ý thiền bên trong.

                  3.- Tâm thi: gồm những bài thơ lòng của soạn giả. Đôi bài thơ nhuộm màu thiền. Đôi bài ghi lại hiện tượng lạ trong mảnh vườn con trước nhà: Thanh Minh mai lại nở,  cây mít chỉ trổ trái hồ lô, với bài xướng và họa của các bạn thơ.

       

                  Thầm mong tưong lai có nhiều thơ thiền để tâm hồn thanh thoát an nhiên .

       

      TRUNG THU QUÝ SỬU

      VÂN ĐẰNG



        NGƯỜI TU HÀNH (1)

        Chẳng ham danh lợi chẳng mê trần

        Thạch động thanh nhàn thân độ thân (2)

        Biển Bắc mặc dầu cơn sóng bủa

        Non Nam chi quản đám mây vần

        Ngày ăn hai bửa nuôi tinh huyết

        Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần

        Quyết đoán công phu thân vận động

        Đường Tiên cửa Phật mới mong gần

         

        PHẠM HỘ PHÁP

         

         

        (1) Người tu hành tức Hành giả

        (2) Ý trong câu 1 “Ngô thân bất độ hà thân độ” Không độ được mình còn độ ai ?



        Top of Page
        HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG

        HỘ độ nhơn sanh đến cõi bồng

        PHÁP luân thường chuyển khắp Tây Đông

        TỊNH tâm thiện niệm hằng trì giới

        ĐƯỜNG Phật nẻo Tiên hiệp đại đồng

         

         VÂN ĐẰNG



        HỌA NGUYÊN VẬN
        Bài “ NGƯỜI TU HÀNH” của Đ H P

        Quyết chọn đường tu chẳng bợn trần

        Tại gia luyện đạo giữ gìn thân

        Sáng chiều tĩnh lặng lo trì niệm

        Thế sự bon chen mặc chuyển vần

        Ăn uống đôi lần bồi khí huyết

        Ngủ nghê vài khắc dưỡng tinh thần

        Xa dần tửu sắc theo đường chánh

        Nẻo Thánh ngôi Tiên đã lộ gần

         

        VÂN ĐẰNG

         



        ĐỘ THẾ

        Dẫn thể về Tiên có mấy tay?

        Mừng thay cửa Đạo Hiệp Thiên Đài

        Đưa cờ dìu chúng qua bờ bĩ

        Nắm kiếm độ sanh khỏi sóng tai.

        Cứu giống Lạc Hồng còn luyến thể

        Sửa dòng Nam Việt vững tương lai

        Tăng thêm bước tiến qua non phật

        Chiêu được thiện bào cứu nạn tai

         

        THANH SƠN ĐẠO SĨ

         



        CÕI BỒNG

        Mừng rạng chơn thần giữ trọn công

        Đèn từ soi chiếu khắp non sông

        Sửa đời mong có chơn thần tịnh

        Đặng dẫn xác thân đến cõi Bồng

         

        THƯỢNG TRUNG NHỰT



        KHAI TÂM

        Nối gót Tiên gia rán dẫm dò

        Thầy không có bóng cố lường đo

        Động đào đưa khó tùy phương mở

        Bến tục định thần liệu thể lo

        Sẵn lái sẵn buờm còn thiếu khách

        Đủ linh đủ phướn mãi nhiều tơ

        Khai tâm nhờ tịnh ( ) vì thở

        Tình dục khuyên xa chớ hững hờ

         

        VÔ DANH TIÊN TRƯỞNG



        Top of Page
        CHỜ ĐƯA KHÁCH

        Tập tánh không không chớ não phiền

        Điển quang diêu động thấu cung Tiên

        Chèo thuyền Bát Nhã chờ đưa khách

        Bảo tố phong ba có pháp quyền

                                        

        BẠCH LONG



        VÔ TÂM

        Ý tịnh ẩn trong mây trắng bay

        Vô tâm mọi việc trọn điều hay

        Mây xuyên trăng sáng Nam lên Bắc

        Trăng vượt mây lành Đông lại Tây

        Nửa mảnh phù vân che núi biếc

        Một vầng tâm tuệ trỏ đường ngay

        Dò tìm nguồn Đạo nơi Bồng Đảo

        Phản bổn hườn nguyên ắt gặp Thầy

         

         VÂN ĐẰNG



        KHAI PHÁP MÔN
        Tịnh Luyện
        ( Kỷ Mùi - Quí Mùi )

        Khai pháp môn tu tịnh

        Cho lòng luôn ổn định

        Hướng về chốn Phật đài

        Sớm tối hằng thiền định

         

        VÂN ĐẰNG



        BA ĐƯỜNG TU

        Pháp tu Đại Đạo có ba đường:

        Cửu phẩm Thần Tiên tới Phật hương

        Phước Thiện tu tâm bằng trợ khó

        Hiệp Thiên tịnh luyện tới Thiên Đường

         

         CAO THƯỢNG SANH



        MẮT TRỜI NƠI ĐÂU

        Tu tâm dưỡng tánh một đời

        Cố tìm CON MẮT CỦA TRỜI nơi đâu ?

        Ở trên rừng thẩm biển sâu

        Hay ngoài – Bồng Đảo – ngàn lau mịt mùng

        Hay nơi tên gọi Thiên Đường

        Hoặc trên đỉnh thác bồng bềnh nước sa ?

        Mắt Trời chẳng ở đâu xa

        Chính trong lòng ngực tâm ta mà tìm

         

        VÂN KIM



        Top of Page
        VẠN PHÁP CUNG

        Vạn lý hòa tâm đồng nhứt mạch

        Pháp cao bình trí hội Tam tông

        Cung Thiên tiếp dẫn chơn linh vị

        Hồi đáp cựu ngôi hưởng phước hồng

         

        VÂN ĐẰNG



        NHỚ MÙNG 10 THÁNG 4

        Mồng mười  – tháng bốn lại về đây

        Ẩn hiện hình Thầy trong bóng mây

        Tần Quốc triều Thiên rung đất Thánh

        Pháp tu hành hiệp động trời Tây.

        Dụng quyền Ma Xử đời an trị

        Nhờ Pháp Kim Tiên Đạo chuyển xây

        Bửu Tháp linh thiêng bên cội phúc

        Chúng sanh cùng ngưỡng Đức cao dầy    

         

        VÂN KIM               

         

        Sinh nhựt VÂN ĐẰNG   10- 4-   Bính Tý

        Ngày triều Thiên ĐH P  10-4- kỷ Hợi

         

         



        VÍA KHAI PHÁP CHƠN QUÂN
        (22-1- ÂL)

        Nền ĐẠO Thầy ban chấp bút Tiên

        Kỳ ba vinh hạnh gặp chơn truyền

        Hòa đồng giáo lý an trần thế

        Ưu ái nghĩa nhân đẹp thượng Thiên

        Trí Giác (Cung) thân tâm tan tục lụy

        Địa Linh ( Động) nhân kiệt đủ cơ huyền

        Nhân ngày kỷ niệm xin cầu nguyện

        Khai Pháp Chơn Quân vui phục nguyên

                              

         VÂN ĐẰNG



        TỰ THUẬT

        Bệnh ngặt xuất hồn về đảo bồng

        May duyên tái ngộ Thầy (1) Đồng Tân (2)

        Cho về viết sách làm công quả

        Độ thế tu tâm sớm thóat trần

         

        VÂN ĐẰNg

        ( Tháng 4- Giáp Tý)

         

        (1 ) Sư Phụ

        (2) Lữ Đồng Tân nguơn linh CAO THƯỢNG SANH

         

                                                                                                    



        THÓAT TRẦN

        Cuộc sống con người được bấy năm?

        Mặc ai dè xiễm hay thì thầm.

        Tháng ngày thanh thản bên vườn vắng

        Sáng tối đơn sơ chiếc áo thâm

        Xe ngựa rôn ràng tàn mấy chốc

        Đường trần nhàn nhã sống hơn trăm

        Gởi hồn theo sáo lên bồng đảo,

        Xa lánh bụi trần thóat cõi âm.

         

        VÂN ĐẰNG



        Top of Page
        THÂN TÂM

        Bầu Tiên linh dược sẵn còn đây

        May gặp Hiền nhân xin tỏ bày

        Thân tịnh, trước tâm còn giới định

        Huệ minh, sau tánh  tự nhiên khai

        Thất tình gió cuốn bườm day cánh

        Lục dục sóng nhồi lái trở tay

        Biển khổ vượt mau qua bỉ ngạn

        Thân là thuyền đó chở TÂM nầy

                                  

        DIỆU THÔNG

        (Thánh Thất Trung nguyên –Quảng ngãi 1952)



        ĂN THIỀN - UỐNG THIỀN

        Người đời thường ngỏanh lại

        Buồn vui nối tiếp qua

        Ngày đêm dài dằng dặc

        Chỉ thấy hồn trong ta

          

        Từ bỏ lối đi quen

        Trở về giới tự nhiên

        Thơ chối từ vần điệu

        Ngồi thiền và đứng thiền

         

        Từ bỏ nếp sống quen

        Ra đi không ngỏanh lại

        Ăn thiền và uống thiền

        Cuộc sống đẹp như nhiên.

         

        VÂN ĐẰNG



        THẢO XÁ HIỀN CUNG


        HOA - MAI

        (  Năm 1929, Phối sư Thượng Tông

        tặng   ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM

        hai tấm sơn mài,  có màu sắc thiền,

        hiện còn treo nơi Thảo Xá Hiền Cung)

         

         

        Chúng hoa đáo lão bậc huyên nghiên

        Chịêm đoán phương tình nội tiểu viên

        Sơ ảnh hòanh tà thiểu thanh đạm

        Án hương phù động nguyệt hòang hôn

         

         

                 DỊCH THƠ:

         

         

        Ngàn hoa rơi đóa đẹp còn vương

        Lặng ngắm vườn con tình ngát hương thơm

        Bóng ngã lưa thưa màu nhợt nhạt

        Hương thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm

         

        VÂN ĐẰNG dịch

         



        NGUYÊN TÁC THƠ TỐNG


        MAI- HOA

        Chúng phương đáo lạc bậc huyên nghiên

        Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên

        Sơ ảnh hòanh tà thiểu thanh thiểu

        Ám hương phù động nguyệt hòang hôn

        Sương còn dục há tiên thâu nhãn

        Phản điệp như tri hợp đọan hồn

        Hạnh hữu vi ngân khá tương hiệp

        Bất tu đàn bản cộng kim tôn.

        LÂM BÔ



        TRÍ HUỆ CUNG NỮ THIỀN

        Muốn thân trọng trược đặng tinh anh

        Tu luyện nhiều năm mới đạt thành

        “ Trí” định thiên lương qui nhứt bổn

        HUỆ  thông Đạo pháp độ quần sanh.”

        Thiên Quân mở cửa vô vi pháp, (1)

        Ngự Mã giúp đời Tam lập danh.

        Thiên Hỉ Động nâng người đức hạnh,

        Đọan Trần Kiều tiếp bước cha lành

         

        VÂN KIM

        Năm 1950,  ĐHP vào nhà tịnh Trí Huệ Cung



        Top of Page
        KHAI THẦN

        Bến tục thuyền sen dựa đảnh Thiền,

        Cưỡi lưng hạc trắng hiệp vầy duyên

        Cửa Hùynh trao nết kề oai Phật

        Động Bích lui thân tiếp lịnh Thiên

        Bờ Ngạn sóng đưa cơn bỉ cực

        Cầu Ngân  bè  rước lúc linh huyền

        Khai Thần  để  bước lên Bồng Đảo

        Trỏ nẽo tay đưa gậy trúc Tiên

         

        CAO THƯỢNG PHẨM



        XÁC THÂN (TINH)
        ( Đệ nhứt xác thân)

        Bản chất vốn sanh bởi địa hòan

        Âm dương nhờ đó mới thành căn.

        Nhựa nhành do bởi mầm vi tố(1)

        Máu huyết nảy sanh vật hữu thân.

        Nhờ hưởng khí trời nên được sống

        Nương theo vị đất đặng hằng sanh.

        Kiếp căn bao thuở đà tiền định

        Vi tố (1) đến hồi trở lại căn

         

        CAO THƯỢNG PHẨM

         

        (1) Vi tố là nguyên tố rất nhỏ, đầy âm chỉ tế bào (Cellule)



        CHƠN THẦN (Khí)
        ( Đệ nhị xác thân)

        Nguyên lai bản chất vốn trung bình

        Lục dục thất tình vẫn vẹn thinh.

        Phật Mẫu ban cho nên đức tính

        Chí Tôn trau sửa được thành hình.

        Ruộng cày sáu mẫu lo vun quén (1)

        Nhà ở bảy căn rán vẹn gìn (2)

        Trở lại ngôi xưa nhờ khéo dưỡng

        Yêu thương Phật Mẫu tạo nên hình

         

         CAO THƯỢNG PHẨM

         

        (1) Lục căn:    mắt, tai, mũi, lưỡi, thân , ý

        (2) Thất tình:   hỉ, nộ , ái, ố, ai , lạc ,cụ.



        CHỨNG NGỘ

        Phất Chủ chuyển hồn về cõi Thiên,

        Diệu Quang  khai khiếu phép Kim Tiên

        Vân Đằng chứng ngộ từng đàn cúng,

        Phẩy quạt Long Tu dứt bơn phiền.

         

         CAO THƯỢNG SANH

         (15-4-Quí Dậu)



        NGÔI TRỜI
        ( SOI ĐỜI TÔI)

        Chí Tôn vời vợi đỉnh cao Ngôi

        Mở cửa Thiên môn khai Đạo Trời

        Đại xá Tam Kỳ nghe Thánh dạy

        Hoằng dương ngũ giới nhủ người Soi

        Tu chơn gìn khẩu tròn nhơn đạo

        Tích đức giữ thân vẹn luật Đời

        Xủ áo trần gian về Cực Lạc

        Thiêng Liêng hằng sống hiện trong Tôi

         

        VÂN ĐẰNG



        Top of Page
        NGÔI TRỜI
        ( SOI ĐỜI TÔI)

        Tinh Thần khí kiện đạt cao Ngôi

        Nhờ Đức Hòang Thiên mở lượng Trời

        Ban phát áo cơm hằng bửa đủ

        Xét xem tánh nết mỗi giờ Soi

        Tạ ơn nhỏ phước luôn rèn chí

        Lập đức tu thân giữ trọn Đời

        May được làm người mừng gặp Đạo

        Đường ngay nẽo thiện phỉ tình Tôi

         

         HƯNG HUYỀN



        MÂY TRẮNG BAY

        Cuối trời mây trắng bay

        Ta từ mây trắng lại.

        Lơ lững một hình hài

        Bóng chìm chìm nổi nổi.

         

        Trời mọc rồi trời xế.

        Trăng lên rồi trăng chếch

        Người sinh rồi người chết

        Mai sau còn tí gì??

         

        VÂN ĐẰNG



        CHỚP MẮT ( sát - na )

        Thân như chiếc bóng có rồi không

        Sắc diện xuân tươi  lại cỗi Đông

        Suy thịnh qua mau dường chớp mắt

        Lâng lâng hồn lẫn cõi non bồng

         

         VÂN ĐẰNG



        THONG DONG

        Nẽo đời nay đã chẳng còn mong

        Danh lợi xe xua lắm bợn hồng

        Xa mã giống như bơi ngược nước

        Sắc không ngâu tức nước xuôi dòng

        Kiếp sanh nhân thế trăm năm mất

        Nếp sống Thần Tiên vạn thuở còn

        Cửa đạo luyện tâm , tinh khí thể

        Non bồng ngày tháng bước thong dong.

         

         VÂN ĐẰNG



        ƯỚC NGUYỆN TRÒN

        Trần thế thị phi mãi vẫn còn,

        Miễn tâm trụ vững tấm lòng son

        Thuyền khơi nào trách cơn ghen biển

        Rừng thẩm đâu màng chuyện ghét non.

        Ngọn bút thần kỳ nung chí lớn

        Huệ gươm khử trược bợn lon con.

        Ơn -Trên giáo hóa nên người trí

        Ba tám sách in,  ước nguyện tròn.

         

         VÂN ĐẰNG



        Top of Page
        THIỀN HÀNH

        Việc đời rủ bỏ nhẹ hai vai

        Thiền định trầm tư bóng nhạt nhòai.

        Quẳng nổi thất tình thân nhẹ nhỏm

        Lánh mùi lục dục dạ trơn chai.

        Dặn lòng xa cách đường gian dối

        Luyện tánh gần kề nẻo thiện ngay

        Giác ngộ về nguyên nâng Thánh chất

        Niết Bàn thanh thản cõi lâu dài

         

        VÂN ĐẰNG



        NGÔI TRỜI SOI ĐỜI TÔI
        (Tiếp bài 1, 2)

        BÀI 3

         

        Thiên nhập Cao Đài đã định Ngôi

        May thay mới gặp Đấng cha Trời

        Chơn truyền cứu thế nên nay mở

        Chánh giáo an dân được sáng Soi

        Mê đắm cõi trần sao giải khổ

        Năng tu cội Đạo dứt oan đời

        Kỳ ba ân xá tòan sanh chúng

        Cực Lạc Niết Bàn hiện dạ Tôi

         

        Ngọc Lâm Sơn

                        

         

          

        BÀI 4

         

        Thiên nhãn càn khôn chỉ một Ngôi

        Tam thanh vận chuyển rưới ân Trời

        Âm dương trải khắp nhân gian khởi,

        Nhật nguyệt giao hòa vũ trụ Soi

        Tạo hóa diệu huyền yêu ái vật

        Thiêng Liêng cao khiết mến thương Đời

        Kịp thời Tam chuyển LONG HOA HỘI

        Đại- Đạo hoằng khai thức tỉnh Tôi.

         

        HẢI SƠN



        THƠ THIỀN VIỆT NAM

        (VÂN ĐẰNG dịch)


        NGUYỆT

        Giường sách ánh đèn cửa nửa khung

        Sân thu đêm xuống đêm hư không.

        Nhịp chày chợt giấc đâu còn tiếng

        Trăng chiếu trên hoa mộc tỏa hương

         

         TRẦN NHÂN TÔN

         (Phù vân Yên Tử)



        TỨC CẢNH CUỐI XUÂN

        Thi phòng khóa chặt suốt ngày chơi

        Khách tục chẳng ai đến cửa ngòai.

        Tiếng quốc giục vang xuân chợt đến

        Đầy  sân hoa nở hạt mưa bay.

         

        NGUYỄN TRÃI

        (Côn Sơn Thượng sĩ)



        Ở TRẦN VUI ĐẠO

        Ở trần vui Đạo lại tùy duyên

        Đói đến thì ăn mệt ngủ liền

        Trong nhà có báu  (1) thôi đừng kiếm

        Đối cảnh vô tâm (2) chớ hỏi Thiền

         

        TRẦN NHÂN TÔN

         

        (1) Tam Bửu

        (2) Vô tâm đạo dễ tầm

                                           



        Top of Page
        ĐI THUYỀN

        Mênh mông theo gió thuyền trôi dạt

        Sáng ánh trăng vàng bóng nước mây.

        Tiếng sáo bè ai ngòai bãi sậy

        Trăng rơi ngọn sóng sông sương đầy

         

         HUYỀN QUANG THIỀN SƯ

        (1254- 1334)



        GIANG HỒ

        Trăng trong gió mát đủ sinh nhai 

        Nước biếc non xanh cuộc sống đầy.

        Sớm héo bườm lan trên dặm nước

        Chiều về tiếng sáo sóng vờn mây.

         

        TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

         (Trúc Lâm Yên Tử)



        THÓAT THẾ

        Xoay mình thoắt cái vượt ra lồng,

        Vạn sự đều không, nhắm mắt không.

        Tam giới mênh mông lòng sáng suốt

        Trăng Tây vừa lặn, trời nhô Đông.

         

        TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ



        CHÂN KHÔNG

        Hư vô nơi ấy thật sâu xa

        Thổi dụi mọi nơi đạt gió hòa.

        Cõi đó vô vi ai cũng muốn

        Mong lên cảnh ấy thật ngôi nhà.

         

        CHÂN KHÔNG THIỀN SƯ



        HỌC ĐẠO

        Học đạo mênh mông ai có hay

        Gạch đem mài gạch nhọc công thay

        Xin anh bỏ ý nương nhà khác

        Một ánh xuân sang hoa nở đầy.

         

        TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

        (Trúc Lâm Yên Tử )



        Top of Page
        CÓ KHÔNG

        Bảo có hạt ti cát đều có.

        Bảo không cả thảy đều không

        Có không như bóng trăng trên nước

        Đừng bán cái có như cái không.

         

        TỪ ĐẠO HẠNH



        SẮC KHÔNG

        Sắc thị không, không tức sắc,

        Không thị sắc, sắc tức không,

        Sắc không đều không vướng

        Chắc hòa hợp chơn tông.

         

        Ỷ LAN HÒANG HẬU (1117)



        VỊNH HOA BẠCH MAI TRÊN NÚI BÀ

        Núi Điện linh thiêng đẹp cảnh thần,

        Bạch mai hương ngát cả vườn xuân

        Cánh Tiên trăng chiếu hình mây bạc

        Nhụy Bụt sương pha ánh bạch ngân

        Muốn chập chờn khơi chất Thánh

        Bông thơm sực nức thóat hồng trần

        Đất trời hòa hợp hồn thơ thới

        Núi Điện linh thiêng đẹp cảnh thần

         

        VÂN ĐẰNG

        (TẠP CHÍ VĂN SỐ 13 - 1991)



        LỜI BẠT

        Tịnh luyện vừa xong như thóat trần,

        Tâm hồn thơ thới ý thong dong

        Phất phơ theo gió mây vờn sóng

        Phủi sạch thất tình lục dục không.

         

         VÂN ĐẰNG

        ( Cẩn bút)


    Top of Page

          HOME