I .- Hai Chữ
Thơ Thiền
Đạo Cao-Đài khai đạo năm 1926 tại Thánh
Thất tạm Từ Lâm. Tháng 3 năm 1927 Đạo dời Thánh Tượng về chùa mới (Tòa Thánh
ngày nay) thì chùa này đuợc đổi tên là Thiền Lâm Tự. Để nhớ nguồn phát xuất và
khắc sâu những Thiền thi cho trong giai đoạn đầu, chúng tôi chọn hai chữ THƠ
THIỀN. Từ đêm
14 tháng 1 năm 1926 Đức Chí Tôn đã dạy về tâm pháp:
Thành tâm niệm phật
Tịnh tịnh tịnh, tỉnh tỉnh
Tịnh là VÔ NHỨT VẬT
Thành tâm hành Đạo Pháp Đến ngày
28 tháng 1 năm 1926 Đức Chí Tôn dạy thêm:
Một ngày thỏn mỏn một ngày qua
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Đức Lý Thái bạch cũng khuyên nên luyện tâm pháp:
Có công phải biết gắng nên công (PHU)
Tu tánh đã xong tới luyện lòng (TÂM)
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục
Đơn tâm khó (THIỀN) Định lấy chi mong. Đức Lý
dạy rõ hơn:
Tiên Phật nơi lòng người chứng tập
Tây phương tại thế chẳng xa đâu. II.- Yếu
Lược Thiền Trong Đạo Cao-Đài
Đức Hộ Pháp dạy rõ
trong bài “Kinh Xuất Hội” như sau:
Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô
Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh.
Đạo vốn
vô vi do một âm một dương tạo thành (nhất âm nhất dương chi vi Đạo). Đạo là gì?
Đức Lão Tử cho rằng “Đạo khả đạo phi thường Đạo”. (Đạo mà ta gọi được không còn
là danh thường, thường ở đây là vĩnh hằng). Cái bản thể tuyệt đối có tên
là “Không Tên” đó, chính là gốc của Trời Đất (Vô Danh thiên địa chi thỉ) tức là
ngôi Thái Cực. Đạo Hư
Vô mà Sư cũng Hư Vô. Thầy (Sư) mà sao hư vô? Kiến giải thành ngữ “sắc tức thị
không, không tức thị sắc” : Cái có vốn xuất phát từ cái không; Cái không lại
xuất phát từ cái có, xem hiện tượng sóng gió thì thấy rõ. Về
giáolý, Thầy là Thái Cực, Thái Cực do khí Hư Vô sinh thành, vậy Thầy vốn có
nguồn gốc từ cái không, Thầy là chơn sư của thiền định Đạo Cao-Đài. Nhưng sao
Đức Hộ Pháp bảo “Sư Hư Vô”. Đức Chí Tôn đã dạy: Thầy vốn Hư Vô. Thầy chẳng giống
thứ chi trên cỏi trần này. Bất cứ tín đồ của tôn giáo nhìn Thầy sẽ thấy có đức
tin của họ ở trong, hình ảnh của Đấng Tối Cao mà họ đang sung bái. Thật là một
sự bao dung đại đồng chưa từng thấy. Như thế
Đức Chí Tôn dạy về thiền định trong Đạo Cao Đài là vượt cái bản ngã, tức phải
vô ngã nên không ai còn nghĩ mình là tín hữu của bất cứ một tôn giáo nào. Ta
là ai? Hiểu rõ tánh ta là đắc đạo (Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa). Không phải
đọc sách nhiều (Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục) , không phải tu lâu :
từ tri đạo, hành đạo mà không đắc đạo là vì không cơ duyên, không
thức tỉnh, vì còn chờ “Reo chuông thoát tục, phất cờ tuyệt sinh”.
Có những nguyên nhân chỉ cần một tiếng chuông, một
câu kinh là ngộ đạo trong chớp mắt (sát-na) và thoát ra ngoài vòng sinh tử. Tóm lại
thiền định của Đạo Cao Đài đưa nhân loại đến gần nhau, là đỉnh cao mở cửa đại
đồng thế giới. “Sư Hư Vô” có bất cứ ở đâu, thiền bất cứ nơi nào, tự bạn khám phá;
không ai ngoài ta giúp ta giải thoát đuợc. Hành giả
của Đạo Cao Đài tịnh luyện theo pháp môn nào? Đức Chí
Tôn dạy thờ Qủa Càn Khôn. Càn ( ) trên, Khôn ( ) dưới là quẻ Bỉ ( Bất Hòa)
ám chỉ thời kỳ mạt kiếp (xin xem Lý Giải Qủa càn Khôn), nên Càn Khôn thất vị
nhường trục Bắc Nam cho Ly ( ) Khảm ( ) mà Ly Khảm trọng trược nên Thầy dạy
“Chiết Khảm điền Ly” tức lấy hào dương của quẻ Khảm hoán chuyển tới hào âm của
quẻ Ly thì Khảm Ly trở lại Khôn Càn tức quẻ Thái ( Thuận Hòa) mà hạnh thông
đắc đạo.
Lý giải
trên dạy ta phải gạn đục (âm) khơi trong (dương). Tập cách sống của chim bay
trên trời tức bỏ tánh thị phi, vị kỷ. Hãy đè nén dục vọng ham muốn. Hãy quên đi
các hành vi thiện của ta và sám hối những việc làm ác độc, nhớ rằng qủa bao giờ
cũng đến từ nhân. Muốn đạt
những điều trên khi Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng, Đức Chí Tôn dạy làm đài
luyện khí . Tập thở là quan trọng nhất trong thiền định. Thở đúng cách giúp
ta đẩy than khí ra ngoài và hít những dưỡng khí vào trong để nuôi cơ thể. Ta có
thể điều khiển khí thế nào cho pháp luân thường chuyển hay phản bổn
hườn nguyên bằng một nội lực thâm hậu, không vọng động, khi tịnh luyện mà
còn tính lợi hại với đời, đó là động, và nghĩ rằng mình phải là Thần Thánh, đó
là vọng. Hành giả luôn phải giữ tâm tỉnh mà lặng (Tịnh, tịnh, tịnh , tỉnh, tỉnh)
nghe như không nghe, thấy như không thấy. Làm người có tai có mắt sao không nghe
thấy, dù có nghe thấy thị phi mà lòng luôn phá chấp, gác bỏ ngoài tai mắt.
Thế mới gọi là thiền định. Bất cứ ở đâu, bất cứ đi đứng nằm ngồi, giờ cúng
người hành giả cũng có thể thực hành đuợc. Tiến sĩ Trần Quang Hải phát hiện
đồng song thanh trong giờ cúng tiếng cầu kinh cao ngất đưa hành giả đến
thiền định, đâu đợi đến toạ thiền, ngồi im một chổ. III. Thơ
Thiền Trong Đời Tu Của Đệ Tử Đức Cao-Đài.
Theo lý giải trên có
người cho rằng mỗi hành động mỗi lời nói của đệ tử Đức Cao-Đài hàm súc thiền ở
trong. Nói đúng đắn hơn, mỗi lời thơ của các Đấng, của “Đạo đức văn Đàn” có
thiền ẩn tàng. Thơ và thiền gần nhau ở điểm xuất trần vượt lên trên đối cảnh,
chìm trong không gian tâm linh để đạt đến chân trí thức Tâm Không. Ai đã
đưa thơ thiền vào Thánh giáo của Đạo Cao Đài? Đó là các Đấng, chính danh hơn là
Lý Thái Bạch, nhà thơ lớn thời thịnh Đuờng (713 – 766). Nhờ lấy cảm hứng từ Tam
Giáo nên nhà Đường nổi lên thi Tiên, thi Phật (Vương Duy) và thi Thánh (Đổ Phủ),
Lý Thái Bạch là thi Tiên không vì phong cách tuyệt vời bay bỏng mà còn do tài
năng siêu phàm. Toàn huyết quản của Lý Bạch là thơ. Chính Ngài đã đưa thơ Đường
Luật vào Thánh giáo của Đạo Cao Đài và trở thành Thánh thi. Xem thế,
Thánh thi nặng Đường luật thất ngôn, còn kinh lễ thường dùng Việt thi song thất
lục bát. Tại sao chọn Đường luật làm Thánh thi?
- Thứ nhứt, Đường luật coi trọng sự hài hòa cân đối qua sáu
nguyên tắc của luật thi: niêm, luật, vần, đối, tiết tấu và bố cục.
- Thứ hai, Đường Luật kín đáo, chừng mực, hài hòa giữa văn
(cái bên ngoài) và chất (cái bên trong). Đức Không Tử nói: “Văn chất bân
bân”. Thơ văn tươi tốt sẽ chung đúc khí thiêng liêng sông núi và sự lên men của
tâm hồn.
- Thứ ba, trong thơ Đuờng âm thanh thuờng là tiếng chuông
chùa xa “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” . . . làm thức tỉnh lòng người.
Thơ thường chỉ gợi không nghị luận, không nói rõ ý mà tùy người đọc luận ra
Thánh ý. Điểm đặc sắc nữa là Đường thi ít thấy “cái tôi” trong đó. IV. Nội Dung
Tập Thơ Thiền.
1.- Thiền thi:
gồm thơ thiền của các bậc chân tu, tiền bối trước. 2. -
Đạo thi: gồm thơ khuyến tu của các đấng, các chức sắc trong “Đạo Đức Văn Đàn”
. Sở dĩ gọi đạo thi khuyến tu mà in trong tập Thơ Thiền vì lác đác ta tìm
thấy ý thiền bên trong. 3.-
Tâm thi: gồm những bài thơ lòng của soạn giả. Đôi bài thơ nhuộm màu thiền.
Đôi bài ghi lại hiện tượng lạ trong mảnh vườn con trước nhà: Thanh Minh mai lại
nở, cây mít chỉ trổ trái hồ lô, với bài xướng và họa của các bạn thơ. Thầm
mong tưong lai có nhiều thơ thiền để tâm hồn thanh thoát an nhiên .
TRUNG THU QUÝ SỬU
VÂN
ĐẰNG
Chẳng
ham danh lợi chẳng mê trần Thạch
động thanh nhàn thân độ thân (2) Biển
Bắc mặc dầu cơn sóng bủa Non
Nam chi quản đám mây vần Ngày
ăn hai bửa nuôi tinh huyết Đêm
ngủ ba canh dưỡng khí thần Quyết
đoán công phu thân vận động Đường
Tiên cửa Phật mới mong gần
PHẠM HỘ PHÁP (1)
Người tu hành tức Hành giả (2)
Ý trong câu 1 “Ngô thân bất độ hà thân độ” Không độ được mình còn độ ai ?
HỘ độ
nhơn sanh đến cõi bồng PHÁP
luân thường chuyển khắp Tây Đông TỊNH
tâm thiện niệm hằng trì giới ĐƯỜNG
Phật nẻo Tiên hiệp đại đồng VÂN
ĐẰNG
Quyết
chọn đường tu chẳng bợn trần Tại
gia luyện đạo giữ gìn thân Sáng
chiều tĩnh lặng lo trì niệm Thế sự
bon chen mặc chuyển vần Ăn
uống đôi lần bồi khí huyết Ngủ
nghê vài khắc dưỡng tinh thần Xa dần
tửu sắc theo đường chánh Nẻo
Thánh ngôi Tiên đã lộ gần VÂN ĐẰNG
Dẫn
thể về Tiên có mấy tay? Mừng
thay cửa Đạo Hiệp Thiên Đài Đưa cờ
dìu chúng qua bờ bĩ Nắm
kiếm độ sanh khỏi sóng tai. Cứu
giống Lạc Hồng còn luyến thể Sửa
dòng Nam Việt vững tương lai Tăng
thêm bước tiến qua non phật Chiêu
được thiện bào cứu nạn tai
THANH SƠN
ĐẠO SĨ
Mừng
rạng chơn thần giữ trọn công Đèn từ
soi chiếu khắp non sông Sửa
đời mong có chơn thần tịnh Đặng
dẫn xác thân đến cõi Bồng
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Nối
gót Tiên gia rán dẫm dò Thầy
không có bóng cố lường đo Động
đào đưa khó tùy phương mở Bến
tục định thần liệu thể lo Sẵn
lái sẵn buờm còn thiếu khách Đủ
linh đủ phướn mãi nhiều tơ Khai
tâm nhờ tịnh ( ) vì thở Tình
dục khuyên xa chớ hững hờ VÔ
DANH TIÊN TRƯỞNG
HỌA NGUYÊN VẬN
Bài “ NGƯỜI TU HÀNH” của Đ H P
Tập
tánh không không chớ não phiền Điển
quang diêu động thấu cung Tiên Chèo
thuyền Bát Nhã chờ đưa khách Bảo tố
phong ba có pháp quyền
BẠCH LONG
Ý tịnh
ẩn trong mây trắng bay Vô tâm
mọi việc trọn điều hay Mây
xuyên trăng sáng Nam
lên Bắc Trăng
vượt mây lành Đông lại Tây Nửa
mảnh phù vân che núi biếc Một
vầng tâm tuệ trỏ đường ngay Dò tìm
nguồn Đạo nơi Bồng Đảo Phản
bổn hườn nguyên ắt gặp Thầy VÂN
ĐẰNG
Khai
pháp môn tu tịnh Cho
lòng luôn ổn định Hướng
về chốn Phật đài Sớm
tối hằng thiền định
VÂN ĐẰNG
Pháp
tu Đại Đạo có ba đường: Cửu
phẩm Thần Tiên tới Phật hương Phước
Thiện tu tâm bằng trợ khó Hiệp
Thiên tịnh luyện tới Thiên Đường CAO
THƯỢNG SANH
Tu tâm
dưỡng tánh một đời Cố tìm
CON MẮT CỦA TRỜI nơi đâu ? Ở trên
rừng thẩm biển sâu Hay
ngoài – Bồng Đảo – ngàn lau mịt mùng Hay
nơi tên gọi Thiên Đường Hoặc
trên đỉnh thác bồng bềnh nước sa ? Mắt
Trời chẳng ở đâu xa Chính
trong lòng ngực tâm ta mà tìm
VÂN KIM
KHAI PHÁP MÔN
Tịnh Luyện
( Kỷ Mùi - Quí Mùi )
Vạn lý
hòa tâm đồng nhứt mạch Pháp
cao bình trí hội Tam tông Cung
Thiên tiếp dẫn chơn linh vị Hồi
đáp cựu ngôi hưởng phước hồng
VÂN ĐẰNG
Mồng mười – tháng bốn lại về
đây
Ẩn hiện hình Thầy trong bóng
mây
Tần Quốc triều Thiên rung đất
Thánh
Pháp tu hành hiệp động trời
Tây.
Dụng quyền Ma Xử đời an trị
Nhờ Pháp Kim Tiên Đạo chuyển
xây
Bửu Tháp linh thiêng bên cội
phúc
Chúng sanh cùng ngưỡng Đức cao
dầy
VÂN KIM
Sinh nhựt VÂN ĐẰNG
10- 4- Bính Tý Ngày triều Thiên ĐH P
10-4- kỷ Hợi
Nền
ĐẠO Thầy ban chấp bút Tiên Kỳ ba
vinh hạnh gặp chơn truyền Hòa
đồng giáo lý an trần thế Ưu ái
nghĩa nhân đẹp thượng Thiên Trí
Giác (Cung) thân tâm tan tục lụy Địa
Linh ( Động) nhân kiệt đủ cơ huyền Nhân
ngày kỷ niệm xin cầu nguyện Khai
Pháp Chơn Quân vui phục nguyên
VÂN
ĐẰNG
Bệnh
ngặt xuất hồn về đảo bồng May
duyên tái ngộ Thầy (1) Đồng Tân (2) Cho về
viết sách làm công quả Độ thế
tu tâm sớm thóat trần
VÂN ĐẰNg (
Tháng 4- Giáp Tý) (1 ) Sư Phụ (2) Lữ Đồng Tân nguơn
linh CAO THƯỢNG SANH
Cuộc
sống con người được bấy năm? Mặc ai
dè xiễm hay thì thầm. Tháng
ngày thanh thản bên vườn vắng Sáng
tối đơn sơ chiếc áo thâm Xe
ngựa rôn ràng tàn mấy chốc Đường
trần nhàn nhã sống hơn trăm Gởi
hồn theo sáo lên bồng đảo, Xa
lánh bụi trần thóat cõi âm.
VÂN ĐẰNG
VÍA KHAI PHÁP CHƠN QUÂN
(22-1- ÂL)
Bầu
Tiên linh dược sẵn còn đây May
gặp Hiền nhân xin tỏ bày Thân
tịnh, trước tâm còn giới định Huệ
minh, sau tánh tự nhiên khai Thất
tình gió cuốn bườm day cánh Lục
dục sóng nhồi lái trở tay Biển
khổ vượt mau qua bỉ ngạn Thân
là thuyền đó chở TÂM nầy
DIỆU THÔNG
(Thánh Thất Trung nguyên –Quảng ngãi 1952)
Người
đời thường ngỏanh lại Buồn
vui nối tiếp qua Ngày
đêm dài dằng dặc Chỉ
thấy hồn trong ta Từ bỏ
lối đi quen Trở về
giới tự nhiên Thơ
chối từ vần điệu Ngồi
thiền và đứng thiền Từ bỏ
nếp sống quen Ra đi
không ngỏanh lại Ăn
thiền và uống thiền Cuộc
sống đẹp như nhiên.
VÂN ĐẰNG
THẢO XÁ HIỀN CUNG
( Năm
1929, Phối sư Thượng Tông
tặng
ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM
hai tấm
sơn mài, có màu sắc thiền,
hiện
còn treo nơi Thảo Xá Hiền Cung) Chúng
hoa đáo lão bậc huyên nghiên Chịêm
đoán phương tình nội tiểu viên Sơ ảnh
hòanh tà thiểu thanh đạm Án
hương phù động nguyệt hòang hôn
DỊCH THƠ: Ngàn
hoa rơi đóa đẹp còn vương Lặng
ngắm vườn con tình ngát hương thơm Bóng
ngã lưa thưa màu nhợt nhạt Hương
thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm
VÂN ĐẰNG dịch NGUYÊN
TÁC
THƠ TỐNG
Chúng
phương đáo lạc bậc huyên nghiên Chiếm
tận phong tình hướng tiểu viên Sơ ảnh
hòanh tà thiểu thanh thiểu Ám
hương phù động nguyệt hòang hôn Sương
còn dục há tiên thâu nhãn Phản
điệp như tri hợp đọan hồn Hạnh
hữu vi ngân khá tương hiệp Bất tu
đàn bản cộng kim tôn. LÂM BÔ
Muốn
thân trọng trược đặng tinh anh Tu
luyện nhiều năm mới đạt thành “ Trí”
định thiên lương qui nhứt bổn HUỆ
thông Đạo pháp độ quần sanh.” Thiên
Quân mở cửa vô vi pháp, (1) Ngự Mã
giúp đời Tam lập danh. Thiên
Hỉ Động nâng người đức hạnh, Đọan
Trần Kiều tiếp bước cha lành
VÂN KIM Năm 1950, ĐHP vào nhà
tịnh Trí Huệ Cung
Bến
tục thuyền sen dựa đảnh Thiền, Cưỡi
lưng hạc trắng hiệp vầy duyên Cửa
Hùynh trao nết kề oai Phật Động
Bích lui thân tiếp lịnh Thiên Bờ
Ngạn sóng đưa cơn bỉ cực Cầu
Ngân bè rước lúc linh huyền Khai
Thần để bước lên Bồng Đảo Trỏ
nẽo tay đưa gậy trúc Tiên
CAO THƯỢNG PHẨM
Bản
chất vốn sanh bởi địa hòan Âm
dương nhờ đó mới thành căn. Nhựa
nhành do bởi mầm vi tố(1) Máu
huyết nảy sanh vật hữu thân. Nhờ
hưởng khí trời nên được sống Nương
theo vị đất đặng hằng sanh. Kiếp
căn bao thuở đà tiền định Vi tố
(1) đến hồi trở lại căn
CAO THƯỢNG PHẨM (1) Vi tố là nguyên tố
rất nhỏ, đầy âm chỉ tế bào (Cellule)
Nguyên
lai bản chất vốn trung bình Lục
dục thất tình vẫn vẹn thinh. Phật
Mẫu ban cho nên đức tính Chí
Tôn trau sửa được thành hình. Ruộng
cày sáu mẫu lo vun quén (1) Nhà ở
bảy căn rán vẹn gìn (2) Trở
lại ngôi xưa nhờ khéo dưỡng Yêu
thương Phật Mẫu tạo nên hình CAO
THƯỢNG PHẨM (1) Lục căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân , ý (2) Thất tình: hỉ,
nộ , ái, ố, ai , lạc ,cụ.
Phất
Chủ chuyển hồn về cõi Thiên, Diệu
Quang khai khiếu phép Kim Tiên Vân
Đằng chứng ngộ từng đàn cúng, Phẩy
quạt Long Tu dứt bơn phiền. CAO
THƯỢNG SANH (15-4-Quí Dậu)
Chí
Tôn vời vợi đỉnh cao Ngôi Mở cửa
Thiên môn khai Đạo Trời Đại xá
Tam Kỳ nghe Thánh dạy Hoằng
dương ngũ giới nhủ người Soi Tu
chơn gìn khẩu tròn nhơn đạo Tích
đức giữ thân vẹn luật Đời Xủ áo
trần gian về Cực Lạc
Thiêng Liêng hằng sống hiện trong Tôi VÂN ĐẰNG
XÁC THÂN (TINH)
( Đệ nhứt xác thân)
CHƠN THẦN (Khí)
( Đệ nhị xác thân)
Tinh
Thần khí kiện đạt cao Ngôi Nhờ
Đức Hòang Thiên mở lượng Trời Ban
phát áo cơm hằng bửa đủ Xét
xem tánh nết mỗi giờ Soi Tạ ơn
nhỏ phước luôn rèn chí Lập
đức tu thân giữ trọn Đời May
được làm người mừng gặp Đạo Đường
ngay nẽo thiện phỉ tình Tôi HƯNG
HUYỀN
Cuối
trời mây trắng bay Ta từ
mây trắng lại. Lơ
lững một hình hài Bóng
chìm chìm nổi nổi. Trời
mọc rồi trời xế. Trăng
lên rồi trăng chếch Người
sinh rồi người chết Mai
sau còn tí gì??
VÂN ĐẰNG
Thân
như chiếc bóng có rồi không Sắc
diện xuân tươi lại cỗi Đông Suy
thịnh qua mau dường chớp mắt Lâng
lâng hồn lẫn cõi non bồng VÂN
ĐẰNG
Nẽo
đời nay đã chẳng còn mong Danh
lợi xe xua lắm bợn hồng Xa mã
giống như bơi ngược nước Sắc
không ngâu tức nước xuôi dòng Kiếp
sanh nhân thế trăm năm mất Nếp
sống Thần Tiên vạn thuở còn Cửa
đạo luyện tâm , tinh khí thể Non
bồng ngày tháng bước thong dong. VÂN
ĐẰNG
Trần
thế thị phi mãi vẫn còn, Miễn
tâm trụ vững tấm lòng son Thuyền
khơi nào trách cơn ghen biển Rừng
thẩm đâu màng chuyện ghét non. Ngọn
bút thần kỳ nung chí lớn Huệ
gươm khử trược bợn lon con. Ơn -Trên
giáo hóa nên người trí Ba tám
sách in, ước nguyện tròn. VÂN
ĐẰNG
Việc
đời rủ bỏ nhẹ hai vai Thiền
định trầm tư bóng nhạt nhòai. Quẳng
nổi thất tình thân nhẹ nhỏm Lánh
mùi lục dục dạ trơn chai. Dặn
lòng xa cách đường gian dối Luyện
tánh gần kề nẻo thiện ngay Giác
ngộ về nguyên nâng Thánh chất Niết
Bàn thanh thản cõi lâu dài
VÂN ĐẰNG
BÀI 3 Thiên
nhập Cao Đài đã định Ngôi May
thay mới gặp Đấng cha Trời Chơn
truyền cứu thế nên nay mở Chánh
giáo an dân được sáng Soi Mê đắm
cõi trần sao giải khổ Năng
tu cội Đạo dứt oan đời Kỳ ba
ân xá tòan sanh chúng Cực
Lạc Niết Bàn hiện dạ Tôi
Ngọc Lâm Sơn
BÀI 4 Thiên
nhãn càn khôn chỉ một Ngôi Tam
thanh vận chuyển rưới ân Trời Âm
dương trải khắp nhân gian khởi, Nhật
nguyệt giao hòa vũ trụ Soi Tạo
hóa diệu huyền yêu ái vật Thiêng
Liêng cao khiết mến thương Đời Kịp
thời Tam chuyển LONG HOA HỘI Đại-
Đạo hoằng khai thức tỉnh Tôi.
HẢI SƠN
THƠ THIỀN VIỆT NAM
(VÂN ĐẰNG dịch)
Giường
sách ánh đèn cửa nửa khung Sân
thu đêm xuống đêm hư không. Nhịp
chày chợt giấc đâu còn tiếng Trăng
chiếu trên hoa mộc tỏa hương TRẦN
NHÂN TÔN
(Phù vân Yên Tử)
Thi
phòng khóa chặt suốt ngày chơi Khách
tục chẳng ai đến cửa ngòai. Tiếng
quốc giục vang xuân chợt đến Đầy
sân hoa nở hạt mưa bay.
NGUYỄN TRÃI (Côn
Sơn Thượng sĩ)
Ở trần
vui Đạo lại tùy duyên Đói
đến thì ăn mệt ngủ liền Trong
nhà có báu (1) thôi đừng kiếm Đối
cảnh vô tâm (2) chớ hỏi Thiền
TRẦN NHÂN TÔN (1) Tam
Bửu (2) Vô
tâm đạo dễ tầm
NGÔI TRỜI SOI ĐỜI TÔI
(Tiếp bài 1, 2)
Mênh
mông theo gió thuyền trôi dạt Sáng
ánh trăng vàng bóng nước mây. Tiếng
sáo bè ai ngòai bãi sậy Trăng
rơi ngọn sóng sông sương đầy HUYỀN
QUANG THIỀN SƯ
(1254- 1334)
Trăng
trong gió mát đủ sinh nhai Nước
biếc non xanh cuộc sống đầy. Sớm
héo bườm lan trên dặm nước Chiều
về tiếng sáo sóng vờn mây.
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
(Trúc Lâm Yên Tử)
Xoay
mình thoắt cái vượt ra lồng, Vạn sự
đều không, nhắm mắt không. Tam
giới mênh mông lòng sáng suốt Trăng
Tây vừa lặn, trời nhô Đông.
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Hư vô
nơi ấy thật sâu xa Thổi
dụi mọi nơi đạt gió hòa. Cõi đó
vô vi ai cũng muốn Mong
lên cảnh ấy thật ngôi nhà.
CHÂN KHÔNG THIỀN SƯ
Học
đạo mênh mông ai có hay Gạch
đem mài gạch nhọc công thay Xin
anh bỏ ý nương nhà khác Một
ánh xuân sang hoa nở đầy.
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
(Trúc Lâm Yên Tử )
Bảo có
hạt ti cát đều có. Bảo
không cả thảy đều không Có
không như bóng trăng trên nước Đừng
bán cái có như cái không.
TỪ ĐẠO HẠNH
Sắc
thị không, không tức sắc, Không
thị sắc, sắc tức không, Sắc
không đều không vướng Chắc
hòa hợp chơn tông. Ỷ
LAN HÒANG HẬU (1117)
Núi
Điện linh thiêng đẹp cảnh thần, Bạch
mai hương ngát cả vườn xuân Cánh
Tiên trăng chiếu hình mây bạc Nhụy
Bụt sương pha ánh bạch ngân Muốn
chập chờn khơi chất Thánh Bông
thơm sực nức thóat hồng trần Đất
trời hòa hợp hồn thơ thới Núi
Điện linh thiêng đẹp cảnh thần
VÂN ĐẰNG (TẠP
CHÍ VĂN SỐ
13 - 1991)
Tịnh
luyện vừa xong như thóat trần, Tâm
hồn thơ thới ý thong dong Phất
phơ theo gió mây vờn sóng Phủi
sạch thất tình lục dục không. VÂN
ĐẰNG
( Cẩn bút)