CHƯƠNG VI
Vai Trò Của Đức Hộ-Pháp
Trong Thể-Pháp và Bí-Pháp (1947 - 1951)
Ngày 14 tháng giêng năm Đinh-Hợi (1947), Đức Ngài đã ban hành Đạo-lịnh 209-HP chỉ dẫn về Phương Luyện-Kỷ Đặng Vào Con Đường Thứ Ba Đại-Đạo (tức luyện-kỷ, tu đơn, thiền định). Nhớ lại từ 14.01.1926, Đức Chí-Tôn đã truyền Tân-Pháp tu chơn cho Đức Ngài và nay Ngài truyền lại cho nhơn-sanh. Tại vì không tìm hiểu tận nơi mà có người cho là Tòa-Thánh Tây-Ninh chỉ có tịnh-thất cho tín-đồ mà không có lý pháp tu tịnh cho chức-sắc (Đồng Tân, Lịch Sử Đạo Cao Đài [quyển II). Sài gòn 1972, trang 402 ). Đức Chí-Tôn đã dạy: "Phải bày bửu pháp ra không đặng dấu nữa" (Thánh ngôn Hiệp Tuyển, Q. I, trang 13 ). Việc luyện Tinh, Khí, Thần đã truyền ra rồi (Xin xem: Trường Đường Tinh Khí Thần, "Quan Niệm Tu Chơn" ) cứ theo đó mà hành pháp "Dầu không Thiên-phong hễ gắng tâm thiện niệm cũng đạt hồi đặng" (Thánh ngôn Hiệp Tuyên đầu đêm 17-9-927 ).
Dưới đây là Đạo lịnh 209-HP Đức Phạm Hộ-Pháp đã ban hành công khai:
Phương-pháp trị tâm của Đức Hộ-Pháp nói gọn là Pháp Tâm hay Đạo Tâm. Vào cửa Đạo đi tu là cố gắng tĩnh lặng cái tâm "Nhân chi sơ tánh bản thiện" của ta. Bởi lẽ, tâm dẫn đầu hết thảy mọi hành động. Khi sinh hoạt theo hướng tham sân si, nhỏ mọn, trách-cứ, lo âu, sầu muộn ..., đó là ác tâm. Khi lòng ta rộng lượng, vị tha, hoan hỉ, thương người, đó là các tâm chơn-chánh: Đạo-Tâm. Nếu tâm còn bợn đục, thì phải tẩy tâm, soi rọi lại lòng mình mà hồi quang phản chiếu để minh tâm kiến tánh.
Đức Phật-Mẫu đã dạy trong bài Kinh Cửu Cửu:
Muốn hườn hư giải thoát đặng đăng Tiên, thì trí tuệ phải giác ngộ nhờ luyện Tinh Khí Thần hiệp nhứt. Tất cả mọi Tịnh-thất trong Đạo Cao-Đài đều chú trọng đến việc trau giồi cái tâm: trí-giác, trí-tuệ, vạn pháp. Muốn trau giồi cái tâm, phải tu luyện, đọc sách Thánh Hiền, không đọc sách dễ dẫn ta đến bến mê sai lầm. Chỉ có bậc thượng căn như Huệ-Năng Lục Tổ, không biết chữ mà quán thông Đạo pháp, mới được tôn sùng là bậc Đại Giác-Ngộ. Còn kẻ phàm phu phải tẩy tâm, rửa sạch bợn trần, giúp tâm thanh-tịnh phát huệ. Được như thế, mới đáp lại nhận-định của một người nước ngoài: "Đạo Cao-Đài bao dung mọi tôn-giáo, thuận-lý với khoa-học".
Ta xem "Phương Pháp Trị Tâm" của Đức Phạm Hộ-Pháp so sánh thấy phù hợp với "Thập Mục Ngưu Đồ" (Mười bức tranh chăn trâu, ngụ ý dạy về tu chơn). Mười bức tranh nầy vẽ trong Chánh-Điện Chùa Tam Tông Miếu (tức chi Minh-Lý trong Ngũ Chi Đại Đạo).
- 1. Thập Mục Ngưu Đồ (TMNĐ).
- 2. Phương-Pháp Trị Tâm (PPTT).
Ta thấy cả hai đều có 10 câu, 10 đề-tài (mười bức họa) như sau:
2.- TMNĐ: Thấy dấu trâu (kiến tích)
- PPTT: Thắng đặng mình
3.- TMNĐ: Thấy trâu (Kiến ngưu tức thấy tâm mình)
- PPTT: Từ bỏ cừu hận
4. - TMNĐ: Được trâu (đắc ngưu)
- PPTT: Thắng đặng khí nộ (thì được tâm mình)
5. - TMNĐ: Chăn trâu (mục ngưu)
- PPTT: Lấy thiện mà trừ ác
6. - TMNĐ: Cưỡi trâu về nhà (kỵ ngưu qui gia)
- PPTT: Lấy nhơn nghĩa trừ bạo tàn
7. - TMNĐ: quên trâu còn người (vong ngưu tồn nhơn)
- PPTT: Đức tin và khôn-ngoan là kho chí-bửu
8.- TMNĐ: Người trâu đều quên (Nhơn ngưu câu vong)
- PPTT: Lấy lòng quãng đại
9. - TMNĐ: Buông tay vào chợ
- PPTT: Lấy chánh trừ tà
10. - TMNĐ: Phản bổn hườn nguyên
- PPTT: Ấy là đường thương Huệ Kiếm.
Mười bức tranh vẽ trâu (chỉ cái tâm), ý nói "Bạch Ngưu Xa" tức Phật-Thừa, là cái đại viên-giác, tu đốn-ngộ. Bức tranh 1 "Tìm Trâu", trâu đâu mà tìm? Trong phút giây khác thường nào đó, ta nghi ngờ những điều tai nghe mắt thấy, tức nghi ngờ cái chánh tâm ta. Khi ta hỏi tâm ở đâu, chẳng khác nào ta hỏi trâu ở đâu? Trong khi chính ta đang cưỡi trâu. Ta đi tìm cái tâm. Rốt cuộc tâm ở nơi lòng ta. Ta chỉ cần dừng lại, nó hiện ngay trước mắt ta. Nếu loài người biết dừng lại (định tâm suy nghĩ) trong vài phút thôi, thì thế gian nầy không đến nỗi buồn thảm.
Sau giai-đoạn ngoại cầu, đến giai đoạn tư-trị, tự giác. Khi người và trâu đều quên (nhơn ngưu câu vong), thì nơi chân trời hiện lên mặt Trời huệ, tượng trưng bằng vòng tròn vô-vi Viên-Giác. Đó là Tâm Không, đạt Đạo rồi!
Trở về ngôi vị cũ với bức họa 9 nhan đề: Phản bổn hườn nguyên. Vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn. Từ nguyên thủy, con người vốn thanh tịnh, vốn là không, nên chỉ cần hiểu thấu tánh mình là hườn nguyên.
Mười bức tranh trâu và 10 phương-pháp trị tâm có thể tóm gọn một câu: Vô tâm Đạo dễ tầm (Vô tâm Đạo dị tầm). (Xem thêm mục 7 & 8, cùng chương này )
Đêm 30.09 Đinh-Hợi (1947), Đức Ngài giảng Quốc-Đạo và Đại-Đồng Thế-Giới. Đức Ngài nói:
"Nước ta nào là bóng chàng, đồng cốt, ông tà, ông địa làm cho nhơ nhuốc tinh thần Đạo-giáo. Bần-Đạo uất ức về những điều đó. Ngày Chí-Tôn tình cờ đến ... Ban đầu làm bạn thân, sau xưng thiệt danh, Ngài biểu Bần-Đạo phế đời theo Thầy lập Đạo ...
Bần-Đạo thưa: "Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão Tử hay Jésus, Thích-Ca con làm cũng không đặng. Con chỉ làm Phạm Công Tắc mà thôi."
Ngài trả lời: "Tắc, thảng như Thầy lấy tánh Phạm Công Tắc mà lập giáo con mới nghĩ sao? Bần-Đạo liền trả lời: "Nếu đặng vậy ...". Ngài liền nói: "Thầy đến lập cho nước Việt-Nam nầy một Quốc-Đạo."
"Được nghe nói một điều mà mình thèm ước, nên Bần-Đạo không từ chối ... Ngài cho một bài thi:
"Từ đây nòi giống chẳng chia ba, tức không chia ra ba Đạo (Nho, Thích, Lão), chớ không phải ba kỳ (Nam Trung bắc).
"Thầy hiệp các con lại một nhà: Thầy nắm chủ quyền hiệp Tam Giáo, nếu nói riêng nòi giống ta là hiệp Nam Trung Bắc thì vô lý lắm.
"Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc: Nền chơn-giáo Quốc-Đạo không phải của ta thôi mà còn của toàn nhơn-loại. Truyền-giáo Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại quốc, tức là Tôn-Giáo hoàn cầu vậy.
"Chủ-quyền Chơn Đạo một mình ta: Ngài vi chủ cả năm châu về tín ngưỡng, qui nhứt Tam Giáo. Chính Chí-Tôn là chúa-tể Càn-Khôn Thế-Giới, làm chúa nền chánh-giáo tại nước Nam vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng lập Quốc-Đạo ...
"Chí-Tôn nói rằng: "Quốc-Đạo nầy Ngài qui tụ tinh thần đạo đức, trí thức toàn nhơn loại ... Cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết đặng đem Quốc-Đạo làm môi giới đại đồng thế-giới". (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyển I, Tây Ninh 1970, trang 87-88 )
"Vậy hai chữ Đại-Đồng là gì? Bạn đồng sanh, nhìn nhau hiệp một trong nguyên-căn gọi là Đại-Đồng. Thuyết Đại-Đồng ngày nay thể hiện ra sao? Cung kính, tôn trọng, quý hóa mạng sanh vạn loại. Loài người đứng phẩm tối cao tối trọng, thay thế hình ảnh Chí-Tôn, có quyền làm chúa Đại-Đồng ... thuyết Đại-Đồng kết quả được là khi nào lấy thuyết hữu thần duy tâm làm môi giới chung, trong sự yêu ái tôn trọng nhau trong tình anh em đồng một căn cội, một máu thịt. Vì cớ, các Đấng giáng cơ bên Âu-Châu nói: "Loài người sẽ đạt được địa-vị tối cao tối trọng mà họ mong muốn, khi loài người chỉ có Một nòi giống, một Quốc-Gia, Một Tôn-Giáo. Ngày nào loài người đạt được ba điều ấy thì Thế-Giới Đại-Đồng." (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyển I, Tây Ninh 1970, trang 105-106 )
Kể từ mồng 1 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948), Đức Hộ-Pháp triển khai Thánh-Giáo của Đức Cao-Đài dạy về "Nam phong, Nhơn-phong".
"Theo bài thi của Đức Chí-Tôn cho Hoàng-Đế Bảo-Đại, có hai câu yếu trọng:
Đức Chí-Tôn muốn nói với Bảo-Đại về nền Quốc-Đạo (Nho Thích Lão) ngày nay đã thành Đại-Đạo (tức vạn giáo). Câu thứ nhì "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong", chữ Phong đây là phong tục. Chí-Tôn muốn phong tục nước Nam sẽ làm nền cho phong hóa của loài người.
Chí-Tôn vì quá thương mà nói? Chúng ta phải coi nền Quốc-Đạo có sẽ trở nên nền tôn-giáo của toàn cầu chăng? Và phong-hóa của chúng ta có thể thay thế phong-hóa của cả nhơn-loại chăng?
... Chúng ta có lịch-sử bốn ngàn năm tranh đấu cho tự do, độc-lập không chịu tùng mạng lịnh của Trung Hoa ... Chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền tôn-giáo Trung-Hoa và Ấn-Độ. Hai khối tinh thần ấy hiệp nhau lại làm một nền tôn-giáo" (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyển II, Tây Ninh 1973, trang 44,49,50,53,55 )
Thật vậy, triết-gia Charles Renouvier cũng kêu gọi đồng bào ông hãy quay về tôn thờ triết học Đông-Phương. (Dẫn bổ Schawb trong Renaussances Orientales, Paris Payot, trang 104 )
. "Luồng tư tưởng lớn Ấn-Độ nằm trong Bà-La-Môn-Giáo và Phật-Giáo. Luồng tư tưởng lớn Trung-Hoa nằm trong Lão-Giáo và Khổng-Giáo. Đặc biệt nhứt là cả hai luồng tư tưởng lớn nầy đều hướng về Việt-Nam, tập trung nơi đây, thăng hoa và phát triển đến cao độ, khiến nước nầy có cái thế vươn mình xa rộng khắp Đông-Nam-Á". (Helmuth de Glassenapp, les cinq grandes Religions du Monde, Paris 1954, trang 255 )
Nhân sinh nhật của Ngài năm đó, Đức Ngài giảng tiếp về Nam Phong "Thời kỳ nầy Chí-Tôn đến lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho toàn cầu vạn quốc một triết lý tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục đồi phong của nhơn-loại mà thay vào thánh chất ..." (trang 50).
"Đạo Nho có Thất Thập Nhị Hiền và Tam Thập Lục thiện Đồ-đệ. Chí-Tôn lập Hội-Thánh có nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, thất thập nhị Hiền và tam thiên Đồ-Đệ. Rõ ràng là Hội-Thánh của đạo Nho đó" (trang 52).
"Chúng ta thấy Đạo nhơn luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đổ và lung lạc. Nhứt là bên Âu-Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ quá thường ... Hại thay! Trải qua tám chục năm nay, những tính yêu nghiệt ấy lại truyền sang nòi giống ta. Đạo nhơn luân đã vậy, tinh thần con người không còn biết nhơn-phẩm, nhơn cách gì nên hạt giống yêu nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành thử, nhơn loại ngày nay quá bạo ngược tương tàn, tương sát lẫn nhau, người đối với người còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa. Cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em. Chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ. Nền luân lý của nhơn-loại trên mặt địa cầu nầy không còn khuôn phép gì hết.
"May thay! Đạo nhơn luân của tổ-phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng văn-minh ngoại bang làm ô uế, nhưng nhờ Đức Chí-Tôn đến phổ truyền nền Chơn-Giáo của Ngài có thể sửa đương và làm khuôn mẫu cho toàn các sắc dân trên mặt địa-cầu nầy bắt chước nữa" (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 55, 67, 68 ).
"Bần-Đạo xin nói trước rằng nó tốt đẹp không gì bì đặng. Hại thay! vì quốc dân xu hướng theo vào mệnh tân thời, muốn phế bỏ nó, nên đức Thanh-Sơn đề thi trị báo rằng:
Nền văn hóa nước ta đạt được trải qua bốn ngàn năm, không cần ai dâng công tạo văn hiến khác" (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 44,49,50,52,55 )
. Tinh thần đó đã thể hiện qua việc tôn thờ cụ Trạng-Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có Victor Hugo và Tôn Trung Sơn hầu hạ, có thể coi như là một biểu hiện của tinh thần vị quốc trong lãnh vực tôn-giáo"(TAÏP CHÍ ĐAÏI TRƯỜNG, "Vị trí Đại Việt Trong Lịch Sử Việt Nam". Sài gòn, Tập san Sử Địa, Số 4 - 1966, trang 90 ).
Thật vậy, Đức Thanh-Sơn tiêu biểu cho nhơn cách người Việt-Nam, tập trung nơi Người thuyết Tam Giáo đồng nguyên, phù hợp với chủ trương Tam Giáo qui nguyên của Đạo Cao-Đài. Người không màng danh lợi, từ quan về am Bạch-Vân ở ẩn, do ảnh hưởng Lão Giáo; yêu dân, đau nỗi đau của người dân, do ảnh hưởng thuyết Từ-Bi của Phật-Giáo. Lý tưởng chánh-trị cao nhứt của Nho-Giáo là chánh-sách "Đức trị", tương đồng với chủ trương "trị, bình" của Nguyễn Bỉnh Khiêm "Cư kính như hành giản" (ăn ở chân chánh, hành động đơn-giản).
Tóm lại, nhơn cách của Đức Thanh-Sơn tiêu biểu cho Nam Phong. Cái phong-hóa mà Đạo Cao-Đài đề cao đạt tới chân thiện mỹ, nhằm thi đua với văn minh cơ-giới. Đạo Cao-Đài tự chọn cho nước mình (cái điểm tựa đầu tiên của Đạo Cao-Đài) một con đường khác hơn những nước phát triển công nghiệp lắm mưu lược và nhiều xô xát. Đức Hộ-Pháp tin rằng một ngày kia loài người hồi đầu hướng thiện và lúc đó chính là lúc "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong", lấy văn-hóa con người Việt-Nam làm văn-hóa nhơn-loại mà Thanh-Sơn Đạo-Sĩ là tấm gương tiêu biểu. Hiểu được Sư-Phó (Le Maitre) Bạch Vân Động là hiểu được giáo thuyết Đạo Cao-Đài. Nó là một thực thể xã hội đề cao tinh thần dân tộc, chớ không phải là một khái niệm không tưởng.
"Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng, tuông châu đổ ngọc, muốn kêu một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm tri kỷ cùng Bần-Đạo, ngoài ra chư hiền hữu, hiền muội. Tưởng khi các bạn có lẽ tội nghiệp cho con hạc linh nầy mà để tai lóng tiếng.
"Vậy Bần-Đạo cúi mình cậy các bạn một điều rất thiết yếu là hòa giọng yêu thương cùng con hạc lạc nầy, đặng giục lòng bác ái đến cảnh an nhơn thiêng-liêng cho toàn sanh chúng. Vừa để gót về Tổ đình thì đã quên mãnh thân tiều tụy hao mòn, vội cầu Đạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chân truyền, nên tức cấp mở Hội-Nghị Nhơn-Sanh đặng phục vụ quyền Vạn-Linh như trước."
Mười lăm ngày sau (ngày 15 tháng 12 năm Bính-Tuất), khai mạc Đại-Hội Phước-Thiện, Đức Ngài nói:
Đức Ngài thêm rằng: "Mỗi tín đồ đều có cái mão của Giáo-Tông và Hộ-Pháp đội trên đầu, chẳng lẽ chỉ có một người mà người đó chết rồi là tiêu nền Đạo?". (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 122 )
Như vậy, vừa khai Đại-Hội Nhơn-Sanh và Đại-Hội Phước-Thiện, vừa thông-báo chánh thức cho toàn thể con cái Đức Chí-Tôn hay rằng Đức Ngài tái thủ quyền hành, đồng thời khuyên toàn Đạo chung lưng đâu cật xây dựng Tổ-Đình và xiển dương Chánh-Giáo.
Nhơn dịp Tết Đinh-Hợi, vào ngày mồng 6 tháng Giêng (17.01.1947). Đức Phạm Hộ-Pháp đến làm lễ trấn thần Đền-Thánh.
Cũng nên nhắc lại Đền-Thánh khởi công xây năm 1933, sau đó bị ngưng-trệ, vì nội bộ lủng củng. Năm 1936, Đức Hộ-Pháp ra lịnh khởi công tái tạo lại. Năm 1942 bị quân đội Pháp chiếm đóng. Mãi đến ngày mồng 3 tháng Giêng năm Đinh-Hợi, các công thợ hồ làm lễ bàn giao Đền-Thánh cất xong cho Hội-Thánh.
Đúng 9 giờ ngày mồng 6 tháng Giêng năm Đinh-Hợi, Đức Hộ-Pháp mặc tiểu-phục, dạy Thừa-sử Huỳnh Hữu Lợi và Truyền-Trạng Phạm Ngọc Trấn theo Đức Ngài đến Báo Ân Từ, Đức Phạm Hộ-Pháp vào điện làm lễ xong thỉnh nước âm dương giao cho Thừa-sử Lợi. Đức Ngài dùng ba bó nhang hành-pháp xong thì lại giao cho Truyền Trạng Trấn.
Khi đến Đền-Thánh, Đức Ngài ngó ngay Thiên-Nhãn trước Phi-Tưởng Đài rảy Cam-Lồ-Thủy và cầm nhang làm phép Trấn Thần. Kế tiếp đến tượng Phật Di-Lặc, tượng Đức Quyền Giáo-Tông, Bà Nữ Đầu-Sư đến tượng Ông Thiện, Ông Ác. Sau đó Đức Ngài vào cửa Đền-Thánh, đứng ngó vào Tịnh-Tâm Điện trấn thần cái Cân Công-Bình trên ngưỡng cửa. Đức Ngài nói: "Kể từ đây cái Cân Công-Bình thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn đã biểu tượng thiệt-hiện ở thế-gian nầy, để phân công chiết tội và định phẩm-vị tòa sen của toàn con cái Ngài".
Đức Ngài sang phía trái Đền Thánh, đứng ngang Cửu Trùng Đài, cách 12 thước, trấn thần con Long Mã. Trên lưng Long Mã có bộ Hà Đồ Bát-Quái và Cây Kiếm, nên có câu "Long Mã phụ Hà-Đồ". Long Mã chạy về phía Tây mà đầu quay về phía Đông. Ý nghĩa Đạo xuất từ phương Đông, đem từ Phương Đông sang phương Tây để cứu vớt chúng sanh.
Kế Đức Ngài đến Bát-Quái Đài ngó lên trấn thần Tam Thế Phật:
a. Phật Brahma đứng trên con Thiên-Nga, nhìn thẳng về phía Tây, đó là ngôi thứ nhứt tượng trưng đời Thánh-Đức thuộc Cơ Sanh-Hóa.
b. Phật Shiva đứng trên con Giao Long, nhìn thẳng về phía Nam. Đó là ngôi thứ ba ,tượng trưng phần trí não thuộc Cơ Tranh-Đấu.
c. Phật Christna (hay Vishnou) đứng trên Thất Đầu Xà, nhìn thẳng về phía Bắc. Đó là ngôi hai, có sanh có diệt, đời tái tạo thuộc Cơ Bảo-Tồn.
Sau đó Đức Phạm Hộ-Pháp đến trấn thần bốn con Kim Mao Hẩu ở hai nấc thang bên phải Đền Thánh. Rồi Đức Ngài vào Cửu-Trùng Đài, sang qua bên tả trấn thần bốn con Kim Mao Hẩu nữa, Đức Ngài nói: "Con Kim Mao Hẩu rất mạnh và khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần con người nhờ nó mà qua được các từng Trời về cùng Thầy.
Kế tiếp, Đức Ngài vào cửa bên trái Cửu-Trùng Đài, trấn thần các Thiên-Nhãn quanh Đền, lần lượt lên tới Bát-Quái-Đài, rồi sang bên phải, cả thảy là 23 Thiên-Nhãn ngó ra ngoài. Vào trong Ngài đến Cửu Trùng Đài bên phải, lên trấn thần tượng Bát-Tiên và sang bên tả trấn thần tượng Thất Hiền. Rồi Đức Ngài trở xuống ngôi Hộ-Pháp trấn thần Chữ Khí. Ngôi Hộ-Pháp có rắn bảy đầu Thất-Đầu-Xà. Cái thân mình nó quấn dưới đôn Hộ-Pháp, đưa lên trên 3 đầu (Hỉ, Lạc, Ái) và gục xuống 4 đầu (Ai, Cụ, Ố, Dục), choàn cái mình quấn dưới đôn Thượng-Phẩm và cái đuôi dưới ngôi Thượng-Sanh.
Đến ngày mồng 8 tháng Giêng năm Đinh-Hợi, lễ rước quả Càn-Khôn từ đền Phật-Mẫu về an vị tại Đền Thánh. Đức Phạm Hộ-Pháp đã thuyết giảng việc nầy như sau:
Vía Đức Chí-Tôn đúng vào ngày mồng 9 tháng Giêng. Theo tục lệ cổ-truyền Nam phong, ngày mồng 7 hạ Nêu để chấm dứt Tết Nguyên-Đán, thì nhơn-sanh mở ngay ngày Tết Khai Hạ. Theo Dịch-Lý, ngày mồng 7 tháng Giêng ứng vào con ngựa trong Thập Nhị Chi, ngày mồng 8 tháng Giêng ứng vào lúa, ngày mồng 9 tháng Giêng ứng vào Trời. Mặt khác, tháng Giêng do quẻ Thái chủ-trì. Quẻ Thái (.....) gồm quẻ Khôn (. . . ) trên, quẻ Càn (. . . . ) dưới, gồm lại Khôn 6 hào cộng với Càn 3 hào là 9 hào, chỉ Đấng Cửu Thiên Khai-Hóa tức Trời vậy.
Mặt khác, trong nền văn minh nông-nghiệp thì mùa Xuân, tháng Giêng lễ Cha, tức vía Đức Chí-Tôn; mùa Thu, tháng 8 lễ Mẹ, tức vía Đức Phật-Mẫu.
Trong ba ngày lễ vía Đức Chí-Tôn, trừ đêm mồng 8 rạng ngày mồng 9 là chánh Lễ, các ngày còn lại là lễ tạ ơn Tiền Hiền, Tổ Tiên và tổ-chức các cuộc vui. Đức Hộ-Pháp dạy ban Nhà Thuyền làm Rồng Nhang để biểu tượng xe Rồng, chỗ ngự của Đức Chí-Tôn.
Thân Rồng Nhang dài 36 thước, chia làm 18 khúc làm thành hình ống. Rồng Nhang phải trang trí sao cho thật đẹp với hai màu truyền thống vàng và đỏ. Các động tác múa bao gồm: xuất cung, đi vòng, uốn khúc, lượn sóng, Bát-Quái chậm, Bát-Quái nhanh, đi thẳng, lật nhanh 45o, lật chậm 180o, lật hình trôn ốc nhanh và chậm 360o. Người múa Rồng Nhang phải là người có sức chịu đựng và đầy đủ kinh nghiệm về múa Long Mã (Xem hình ).
Mặt khác, giữa Đại-Đồng-Xã, Đức Hộ-Pháp cho dựng Văn-Minh-Điện, tức cái đài hình lục-giác, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi người đứng xa đều nhìn thấy rõ người điều hành. Ban Tổ-chức gồm: một Trưởng-Ban cầm cái mõ và một ban Cỗ-nhạc. Phía trước Văn-Minh-Điện có một cái cầu thang để người dự lên lãnh thưởng, phía bên trên cao có đề 3 chữ "Văn-Minh-Điện", tức nhà Văn-Minh về Đạo-Đức, văn-học, mỹ thuật. Cuộc vui gồm có Thai Đố, thi thơ, hát vè, ngâm thơ. Ai đáp trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị. (Xem "Ngôi Thờ Đức Chí Tôn" cùng người viết )
Cũng nên biết thêm, Vía Đức Chí-Tôn năm sau, Đức Hộ-Pháp dạy chưng Cộ-Bông. Đề tài bao gồm: Đức-Tin nhơn-loại, Tam-Giáo (Xem hình ), Tam Trấn, v.v. phong trào chưng chế mỹ thuật bằng hoa lá bông trái phát triển từ đó, lan về các tỉnh vì người Đạo tại Thánh-Địa vốn là dân Lục Tỉnh.
Trong ngày Vía Đức Phật-Mẫu năm Đinh-Hợi, Đức Hộ-Pháp xuống lịnh cho cơ-quan Phước-Thiện chưng Cộ bày Đức Phật-Mẫu và Cửu Vị Tiên-Nương. Chỉ có Đức Phật-Mẫu là bông hình, còn 4 vị Nữ-nhạc hầu Đức Phật-Mẫu và cửu vị Tiên-Nương mặc áo dài xanh đỏ là người thật. Do các Giáo-Nhi, Đồng-Nhi nữ hóa trang để thài 10 bài Kinh ca tụng công-đức chư Phật có kỳ công khai nền Đại-Đạo. (Xem "Công Đức Đức Phật Mẫu" cùng người viết )
Nên biết, từ mồng 1 tháng 2 năm Đinh-Hợi, ngôi thờ Đức Phật-Mẫu đặt thờ tạm tại Báo-Ân-Từ. Trong ngày lễ an-vị Đức Phật-Mẫu và cửu vị Tiên-Nương, Đức Phạm Hộ-Pháp có giảng:
Đức Hộ-Pháp cũng giảng: "Bần-Đạo chắc rằng toàn con cái của Ngài (Chí-Tôn) đều ở trong lòng của Ngài, sanh ra đã có một tình-yêu đối cùng nhau. Từ trong vật-loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đã có liên-quan mật thiết nồng-nàn, khối tình ái vô biên vô hạn". (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 24)
Hội-Thánh trong Đạo Cao-Đài tổ-chức theo một đại gia-đình, anh cả tức Giáo-Tông, em nhỏ tức Chánh-Trị-Sự còn gọi là Giáo-Tông em. Nói rộng ra, con cái trong một nhà phải thương-yêu nhau là điều tất nhiên.
Đêm 28.06 năm Mậu-Tý (dl.3.08.1948), Đức Hộ-Pháp giảng rõ:
"Hội-Thánh là Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, cho nên khi Ngài lập Pháp-Chánh-Truyền, Ngài định một người làm Anh Cả trông bầy con của Ngài. Người Anh Cả ấy phải làm Cha và làm Thầy. Ngặt một điều là mình không xứng đáng mà thôi, vì mình không đủ đức tánh thay thế cho Ngài ...
"Trong tám anh em chúng ta ngồi tại đây (trong Đàn cúng ngồi Kiết-Tường), cùng sắp nhỏ kia, trong đó cũng có vị Phật, Tiên giáng thế, nhưng còn chờ chúng ta lập vị cho nó ..." (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 103 )
Vào thời Tý đêm mùng 1 tháng 5 năm Mậu-Tý (5.08.1948), Đức Hộ-Pháp giảng về Pháp-Chánh Hiệp-Thiên tức luật thương-yêu, quyền công-chánh. Đức Ngài nói:
Tại sao Ngài giao cho Hiệp-Thiên Đài? Từ ngôi Giáo-Tông đến ngôi Đầu-Sư, giữa có các ngôi Chưởng-Pháp, nếu không pháp-chánh do Hiệp-Thiên Đài nắm giữ là gì? ... Pháp-Chánh cốt yếu lập quyền cho con cái Đức Chí-Tôn, có hàng phẩm, quyền hành, thứ tự, đẳng cấp, giao cho Hiệp-Thiên-Đài sắp đặt không cho loạn, nếu loạn hàng thất thứ thì Đạo bị tiêu diệt ... Đạo Cao-Đài không lấy nguyên chất của Tam Giáo mà chỉ lọc lượt chơn-truyền của các giáo mà tổng-hợp lại...
Hình luật Tam Giáo để định án chăng? Con người chỉ quý cái tâm và hạ sanh xuống đây ít nữa phải có căn duyên mà mình không biết đó thôi. Bần-Đạo dám chắc, dầu cho một vị Phật đến tại thế-gian nầy, mang thi hài xác thịt cũng quên hết, cửa huệ quang bị bí lối, không tự biết mình, không tự hiểu phẩm-vị mình vì mang xác phàm. Duy có Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện, toàn Mỹ là Chí-Tôn mới tránh khỏi chuyển kiếp luân hồi mà thôi. Ngoài ra không vị Phật nào tránh khỏi luân hồi cả.
Chí-Tôn muốn cho con cái của Ngài nên Thánh, thì phải làm sao? Phải đem cả thảy vô Đạo, tắm rửa cho sạch-sẽ, làm cho thiên-hạ thích gần nhau, phải vì thương mến, kỉnh khen mà gần, vì tôn sùng yêu ái mà gần. Hình luật Tam Giáo là nước Cam-Lồ tắm rửa linh-hồn vậy...
Tội có quá nặng, nếu mình biết ăn năn tự hối, tự tu thân, tự giác tấm thân đặng rửa tội, mình tu một mình (tu chơn) dẫu Hội-Thánh không biết tới, mình cũng vẫn tu có Đức Chí-Tôn chứng giám, ngày kia về cõi Thiêng-Liêng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đẹp dạ, hả lòng tiếp rước trọng thể hơn nhiều. Danh vị lập được của kẻ bình thường đâu bằng của người biết ăn năn sám hối". (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 106 - 108 )
Đêm 23.11 năm Mậu-Tý (1948), Đức Hộ-Pháp thuyết giảng về bác-ái công-bình:
Luật Pháp của Đạo Cao-Đài, ngoài luật Bác-ái và pháp Công-bình, tất cả luật điều khác đều là phương pháp giả tạo thành chơn mà thôi." (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 162 )
Chúng ta tin nơi Đức Chí-Tôn. Ngài đến tạo nền tân giáo cốt yếu là ký hòa-ước với nhơn-sanh tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại và làm cho Thiên-hạ hưởng đặng thái-bình. Chúng ta dám quả quyết và tin chắc rằng thế nào cũng thành tựu ...
Chí-Tôn đến ký hòa-ước với nhơn-sanh có hai khoản thôi:
Từ thuở ta chưa thấy cái hòa-ước nào đơn-giản như thế mà nó oai quyền làm sao? Khó thể thực hiện đặng, nhưng với thời gian, Đạo Cao-Đài làm thế nào (tìm cách) đem hạnh-phúc đến cho nhơn-loại, tạo hòa-bình cho thiên-hạ Đại-Đồng Thế-Giới. ...
Đạo Cao-Đài được hình tướng thương yêu vô tận. Nó có nét đẹp thiên nhiên là nhờ câu viết Thương-Yêu ... Quyền Đạo ngày nay do thương yêu mà thành tướng. Vậy Đạo đã do luật thương-yêu thành tướng thì không có quyền năng nào tàn phá cho đặng ...
Nó nên hình bởi sự thương yêu, nó trưởng thành trong sự thương-yêu, bởi hình chất của sự thương yêu, hễ càng lớn lên càng tráng kiện. Nó sẽ làm Chúa cả thù hận và quyền lực thù-hằn không thể xâm lấn nó được." (Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp , quyểnI I, Tây Ninh 1973, trang 168 - 170 )
Đầu năm 1949, chánh quyền Pháp mời Đức Ngài và một số nhơn-sĩ để trao trả độc-lập cho Việt-Nam. Đức Ngài thuyết giảng về vấn đề nầy vào đêm 23.01 Kỷ-Sửu như sau:
"Chánh-quyền Pháp lập ra một hội-nghị để bàn thảo về việc trao trả độc lập cho Việt-Nam. Hội-nghị ấy gồm có người Pháp và 48 nhơn-viên Việt-Nam."
Đức Ngài đánh giá về lời trao trả độc lập của chánh quyền Pháp cho Việt-Nam như sau:
Thánh-lịnh số 535 ngày 4 tháng 6 năm Kỷ-Sửu (29.06.1949) chấp thuận phái Tiên-Thiên do ông Nguyễn Bửu Tài lãnh-đạo đưa về Tòa-Thánh Tây-Ninh. Tất cả chức-sắc đều tạm chức Hiền-Tài (Ban Thế-Đạo) để đợi quyền Thiêng-Liêng định đoạt: như vẫn giữ các Thánh-Thất và được tạm dùng cơ bút tại tư gia để học hỏi riêng, chớ không được phổ-biến.
Theo Thánh-lịnh số 302 ngày 27.05 năm Canh-Dần (11.07.1950), thì các chức-sắc phái Tiên-Thiên có danh-sách trong thông-qui ngày 30 tháng 10 năm Kỷ-Sửu được dâng lên Đức Lý Giáo-Tông xem xét vào ngày mùng 3 tháng Giêng Canh-Dần, được tạm phong vào hàng chức-sắc Tòa-Thánh Tây-Ninh như sau:
Giáo-hữu gồm đủ ba phái tất cả 26 vị, Lễ-Sanh 35 vị. Đức Hộ-Pháp lại ký Thánh-Lịnh số 13/TL phong thêm 5 vị Giáo-Sư, 3 vị Giáo-Hữu và 17 Lễ-Sanh. Còn Trung-Hòa Học-Phái, lãnh đạo Trương Kế-An được phong làm Bảo Y Quân. Xem thế lúc nào Tòa-Thánh Tây-Ninh cũng mở rộng cửa để đón nhận các Chi Phái trở về gốc Đạo. Xem danh sách ân phong trên, toàn chức sắc cao cấp, người tín-hữu Thánh-Địa sống giữa lòng Đạo còn chưa được vậy. Nhưng tại sao họ bỏ đi, không ở lại hành đạo tại Tây-Ninh? Với họ thì không thể trả lời tại "Bát Đạo Nghị-Định", vì họ đã nhìn nhận Tòa-Thánh Tây-Ninh và đã được thọ phong chức sắc rồi. Bát Đạo Nghị-Định không hề ngăn trở sự trở về của bất cứ ai. Người ta trích điểm Đạo Nghị-Định thứ tám và thứ năm. Đạo Nghị-Định thứ tám, điều thứ nhứt có ghi như vầy:
Đàn cơ tại Cung-Đạo Đền Thánh đêm 17 tháng 10 năm Đinh-Dậu (8.12.1957), Đức Lý-Bạch có dạy:
Thêm vào đó, đàn cơ tại Giáo-Tông Đường đêm mồng 10 tháng 04 năm Giáp-Thìn (1964, vía Đức Phạm Hộ-Pháp), có Đức Thượng-Sanh, chư chức sắc Hiệp-Thiên-Đài , Cửu Trùng Đài hầu đàn, Đức Hộ-Pháp giáng dạy có khoản như vầy:
Theo lời dạy của Đức Lý và Đức Hộ-Pháp thì Đạo Nghị-Định thứ tám chỉ "là phương pháp lúc trước" có tính cách giai-đoạn mà thôi.
Bình tâm mà xét, ai trong chúng ta cũng đều tin tưởng là Đạo chỉ có một, cũng có nghĩa là Đạo chỉ có một Cung Đạo tại Tòa-Thánh Tây-Ninh mà thôi. Một Cung Đạo là nơi duy nhứt cầu các Đấng giảng dạy Đạo, phải do các Đồng-tử phò-loan mà Đạo ta gọi là Thập Nhị Thời-Quân và ba vị cầm đầu của ba Chi của Hiệp-Thiên-Đài, Tòa-Thánh Tây-Ninh vậy. Chính từ sự tự-chuyên sửa đổi mới thêm nhiều Giáo-Tông, nhiều Hộ-Pháp. Từ đó đẻ ra nhiều Hội-Thánh, chức sắc thì nhiều mà đạo-hữu thì không có. Cái quan trọng của một Hội-Thánh là có thực lực về tín-đồ hay không. Mang danh Hội-Thánh mà chẳng nơi làm việc, gặp biến-cố thì tan rã ngay, ai lo giữ thân nấy, làm tuồng đàm tiếu cho thiên-hạ. Chưa kể làm sai luật Thiên-Điều. Đức Chí-Tôn dạy: "Sau đời Giáo-Tông thứ nhứt đến đời Giáo-Tông thứ hai, thì Tịch-Đạo đổi ra Đạo Tâm". Thế mà Phối-Sư Nguyễn Bửu Tài rời khỏi Tòa-Thánh Tây-Ninh đi lập Chi-phái cũng tự tôn-xưng Giáo-Tông? Xin nhắc lại Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ chỉ mới có duy nhứt Đức Lý Giáo-Tông, sau khi Đức Ngô Minh Chiêu tu vô-vi. Còn Ngài Lê văn Trung chỉ là Quyền Giáo-Tông về mặt hữu hình thế cho Đức Lý Giáo-Tông vô-vi mà thôi. Ngài Lê văn Trung chưa hề mặc đại-phục Giáo-Tông, Có điều làm các tín-hữu ở Thánh-địa thắc mắc: Tại sao các Chi Phái sau khi được ân-phong rồi không ở lại tu hành mà lại ra đi? Đi tu tham thiền nhập định, tự nhiên cô tịch phải buồn. Thêm vào đó xa nhà, xa người thân lòng cảm thấy cô quạnh. Ngày hai buổi đi hành đạo, đi cúng-kiếng ... Việc hành đạo chao ôi! không quyền thế sinh lợi lộc như quyền đời. Còn tình người nữa, các chức sắc Tây-Ninh đều có gia-đình ở đây. Đức Cao Thượng-Phẩm đã dạy: "Đường tu được bền vững là nhờ đám khuê môn vẹn gót hài". Nghĩa là việc hành đạo được bền vững là nhờ vợ con lo vẹn vẽ ở gia-đình, còn giúp lương thực cho chồng đi tu. Thầy buộc phải lo cho Nhơn-Đạo là vì thế, nếu Nhơn-Đạo chưa tròn thì khó thành Thiên-Đạo.
Đạo Nghị-Định thứ năm, điều thứ nhứt ghi như vầy: "Buộc cả chức sắc đã thọ phong phải phế đời hành đạo." Đó là đương nhiên thôi, Thiên-phong mà còn đi làm ăn riêng tư coi sao được. Hãy nhìn vị Linh-Mục (đối phẩm Giáo-Hữu) bên đạo Ki-tô, người ta bám chặc với giáo dân, lo cho giáo dân. Đạo Nghị-Định thứ năm phải có. Không thể nào về Tòa-Thánh thọ phong Thiên-phẩm rồi về gia-đình sống với vợ con được. Đó là thực tế cuộc sống. Đó là chủ Tánh-hạnh người tu. Nếu đi tu mà còn ham muốn, chen lấn bụi hồng, vô tình làm Thiên-tước bị rẻ rúng. Vào Đạo là tự nguyện. Nhận lãnh Thiên phong là tự nguyện. Ta tự nguyện làm con vật hy-sinh cho vạn linh, thì phải nhận lấy khảo đảo để lột bỏ chất phàm. Nếu nhận Thiên-phong vì mũ cao áo rộng, có mưu lược ẩn bên trong, khi không thực-hiện được thì thối chí ngã lòng là điều đương nhiên không tránh khỏi.
Tóm lại, Đạo Nghị-Định thứ năm ràng buộc cá nhơn chức-sắc phải có hạnh người tu. Người tín-hữu Cao-Đài nào cũng mong ước hàng lãnh đạo tôn-giáo mình xứng đáng và vinh diệu.
Ngày 18.10.1950, Đức Ngài đi Hà-Nội để kêu gọi các Tôn-giáo, các Đảng-phái ngoài Bắc thống nhứt để làm sức mạnh đòi chánh-phủ Pháp trao trả độc-lập cho Việt-Nam. Đức Ngài đã tiếp-xúc về phía Công-giáo có Giám-mục Lê Hữu Từ, về phía Phật-Giáo có Thượng-Tọa Thích Tâm Châu ... Trong dịp nầy Đức Ngài có làm bài thơ hàm súc nhiều ý như sau:
Sau đó, Đức Ngài đến đảnh lễ Đức Chí-Tôn tại Thánh-Thất Thăng Long do bà Giáo-Hữu Hương-Dư làm Đầu Tỉnh Đạo. Bà đã trình lên Đức Hộ-Pháp về buổi thuyết đạo tại nhà hát lớn ở Hà-Nội do Giáo-sư Khâm-Mạng Tòa-Thánh Trần văn Quế tổ-chức. Lúc đó, Giáo-sư Quế đang dạy Đại-học tại Hà-Nội, nên ông vận-động sinh-viên các khoa đến tham dự rất đông. Diễn-giả là Giáo-Hữu Tý. Ông nầy học-lực có hạn, khi bước lên diễn đàn, đứng trước các cử-tọa có học thức, mặt ông tái nhạt, đầu xây xẩm. Giáo-Hữu Tý định thần, niệm danh Thầy, một lần, hai lần, rồi ba lần, ông mới lấy lại bình tĩnh và diễn thuyết Đạo một cách trầm tĩnh và tự nhiên. Ông được thính giả hoan-nghinh nhiệt-liệt. Giáo-sư Quế đến bắt tay ông và khen ngợi: "Nhờ Thầy hổ-trợ, ông diễn thuyết Đạo thật hay ngoài sức tưởng tượng của người nghe". Thế mới biết mọi việc chi chi cũng có Thầy. "Nơi lòng Thầy ngự, động Thầy hay".
Sau chuyến viếng thăm Hà-Nội của Đức Hộ-Pháp, số tín đồ tăng lên nhanh, nhưng từ sau năm 1954, cơ Đạo ở đây gặp nhiều ngăn trở.
Nhắc lại việc truyền Đạo ra Bắc là do Đức Chí-Tôn định từ ngày 21.10.1926:
Đầu năm Quý-Dậu (1933), Hội-Thánh bổ Giáo-Hữu Thượng Tuất Thanh, Thượng Chữ Thanh lập Thánh-Thất đầu tiên ở Ga Hàng-Cỏ, Lê-Lợi. Đầu năm 1934, Hội-Thánh bổ Giáo-Hữu Thượng Ngoạn Thanh, Lễ-Sanh Thượng Điểm Thanh liên lạc với hội Nam-Kỳ Tương-Tế ở Hà-Nội để mở mang việc truyền-giáo. Đêm mồng 1 tháng 3 năm Giáp-Tuất (14.04.1934), lễ Khai Đạo tại Bắc Việt ở Thánh-Thất phố Harmand, sau dời về Quỳnh-Lôi, vốn là nhà của Đạo-Hữu Phạm Đăng Chữ. Cơ Đạo ngày càng phát triển là chỗ dựa cho nhơn-sanh, nên đầu năm 1935, Hội-Thánh bổ Tiếp-Thế Lê Thế Vĩnh và bà Lễ-Sanh Hương Thân (phối ngẫu của ông Vĩnh) coi Tông-Đạo Bắc-Việt. Năm sau, Đạo truyền tới Hải-Phòng. Thánh-thất lần lượt lập ở Tam-Giang, Cẩm-Phả, Tây-Tựu (Hà-Đông), Chùa Vua ... Năm 1936, Giáo-Sư Thượng Bảy Thanh (Lê văn Bảy) về Nam, Thánh-Thất Lê-Lợi phải dời về phố Hàng Than (rue du Charbon). Năm 1941, ảnh hưởng tình hình ở Tòa-Thánh, cơ đạo ở Bắc Việt gặp nhiều khó khăn.
Tịnh-thất của nam-phái là Vạn-Pháp-Cung trong có Nhơn-Hòa-Động tọa-lạc ở Sơn-Đình, Núi Bà. Đức Hộ-Pháp giảng về Trí-Huệ-Cung như sau:
"Bần-Đạo cả tiếng kêu gọi con cái Đức Chí-Tôn, nhứt là Cửu Nhị Ức Nguyên-Nhơn hãy tỉnh mộng, ngó lại Trí-Huệ-Cung, phải vào nơi cửa nầy (Tịnh-Thất) mới đạt Đạo đặng mà thôi. Đạt cơ giải thoát mới nhập vào cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống, mà Đức Chí-Tôn đã dựng riêng dành cho mỗi người."
Rõ ràng, Đức Hộ-Pháp chánh thức mở cơ vô-vi tịnh-luyện từ đó. Ngài khẳng định "phải vào cửa tịnh-luyện mới đạt Đạo đặng". Tại ta thiếu trí, không theo được hành tàng của Đức Ngài mà thôi. Chớ đừng trách sư-phụ chưa truyền phép tu chơn cho ta.
Câu liễn tại Trí-Huệ-Cung thể hiện lời giảng-đạo đó của Đức Ngài:
Đến ngày 16 tháng Giêng năm Tân-Mão (1951), Đức Hộ-Pháp vào Trí-Huệ-Cung tịnh luyện theo Tân-Pháp Nội-Giáo Tu Thiền mà Đức Chí-Tôn đã chỉ dạy ngay từ đêm 14.01.1926 (Xem lại chương II, Mục 3 ). Khi nhập Tịnh-Thất, Đức Ngài nói: "giải chức Hộ-Pháp, chỉ còn là bạn tu mà thôi"(Trí Huệ Cung, Tây Ninh 1973, trang 13 ). Chính Đức Ngài đã đặt nền tảng luyện kỷ tu đơn cho mọi chúng ta đó.
Khi nhập tịnh-thất Trí-Huệ-Cung, Đức Hộ-Pháp nói: "giải chức Hộ-Pháp, chỉ còn là bạn tu mà thôi", có nghĩa là muốn vào tịnh-thất, nếu là chức-sắc phải gởi chức cho Hội-Thánh trở thành đạo-hữu.
Sau khi được chơn Sư-phụ chỉ dẫn, rồi hành pháp tịnh luyện, tự tu, tự thành, biết được tánh-giác hằng hữu là sắp có ấn-chứng thiêng-liêng.
Năm Tân-Mão (1951), Đức Hộ-Pháp vào Trí-Huệ-Cung, vì Vạn-Pháp Cung chưa xây. Sau khi ra khỏi nhà tịnh, Đức Ngài đã thuyết-đạo tại Đền-Thánh như vầy:
Khi Đức Ngài đến Trí-Huệ-Cung để nhập Tịnh-Thất có nhiều người gởi thơ đến xin nhập tịnh một luợt với Đức Ngài, Đức Ngài trả lời:
"Tam Lập là: Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn. Con ngưòi khi sanh ra nơi mặt địa cầu nầy, không có Tam Lập, thì không có chi hết. Tam Lập quyết-định cho ra, ta mới sống chung với xã-hội nhơn-quần được."
Đức Ngài còn thuyết thêm về phương-pháp tịnh-luyện như vầy:
Năm 1929, Đức Phạm Hộ-Pháp lập Khổ-Hiền-Trang, mở Phạm-Môn tu luyện không áo mão với "Phương Luyện Kỷ" để đạt cơ giải-thoát. Thánh-Ngôn của Đức Chí-Tôn đã dạy: "Hộ-Pháp hằng đứng (nơi Vi-Hộ) (Cửa Mỏ Ác tức Thượng Đơn Điền ) mà gìn giữ chơn-linh các con khi luyện đạo, đặng hiệp Tinh với Khí, rồi Khí với Thần, đến Chơn-Thần hiệp làm một mà siêu phàm nhập Thánh".
Năm 1951, tại Trí-Huệ-Cung, Đức Phật-Mẫu cũng ban cho Đức Ngài "vẹn toàn pháp môn":
Khi sinh-tiền, ai đến xin luyện đạo, Đức Ngài CÂN THẦN, đo mức độ khí trược trong người đó coi có đủ sức chịu nổi điển-lực thiêng-liêng không, nếu kém sức sẽ biến tướng thành Tả Đạo, thì không cho luyện đạo. Các vị Thời-Quân Chi Pháp cũng có truyền bí-pháp cho chức-sắc, nhưng khả năng cân thần không bằng Đức Ngài.
Năm 1936, các vị Phạm-Môn chuyển qua Phước-Thiện, nhận lãnh Đầu Họ-Đạo Phước-Thiện tại các Tỉnh, Đức Hộ-Pháp đã truyền các phép Bí-Tích: Giải-Oan, Tắm Thánh, Phép-Xá và Hôn-Phối cho các vị tân Đầu-Họ tại Hộ-Pháp-Đường. Đức Ngài còn hành pháp trục Thần, khai khiếu và ban pháp Bạch-Đăng (cây đèn trắng) để khi hành đạo tha phương gặp khó khăn, thắp đèn lên vào giờ Tý rồi thành tâm cầu-nguyện Đức Ngài hiển-linh chỉ giáo. Nhiều chức-sắc như Chí-Thiện Võ văn Đợi, Giáo-hữu Thượng Tý Thanh ... đã được dạy đạo qua phương-pháp nầy. Huyền diệu nhứt là việc Đầu-Sư Thái Thơ Thanh được Đức Ngài trợ Thần khi tịnh luyện. Ngài Thái Đầu-Sư rất kính phục và hủy bỏ sơ đồ xây dựng nội-ô Tòa-Thánh theo ý phàm và giao việc xây cất Tòa-Thánh lại cho Đức Hộ-Pháp làm theo thiên-khải, mà trong chuyến xuất thần vân du Ngài thấy được.
Xem thế, ngay buổi đầu, Đức Chí-Tôn dạy người theo Đạo tu thân là: công-quả và tịnh-luyện. Tân Luật cũng xác nhận: Đạo gồm các Thánh-Thất (thể-pháp) và Tịnh-Thất (bí-pháp thiền định). Thể-pháp là hình-tướng của Đạo, biểu tượng là Hội-Thánh. Bí-pháp là quyền năng của điển-lực để người Đạo giải thoát. Thế nên, lúc mới khai đạo, nặng về phổ-độ để đưa người vào cửa Đạo, sinh hoạt đạo-lý mà lập công, lập ngôn, rồi lập đức mà tiêu trừ nghiệp chướng. Hai phần phổ-độ và vô-vi nằm chung trong chánh-thể Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ. Hội-Thánh Cao-Đài thực-hành trọn vẹn cả hai. Bởi lẽ, trong chơn-truyền của Đức Chí-Tôn không hề có sự phân-chia hai phần:
- 1. Phổ-độ là ngoại giáo công-truyền do Tòa-Thánh Tây-Ninh đảm trách,
- 2. Vô-vi tịnh luyện là nội-giáo bí-truyền do Chi Phái thực thi, như một ít người lầm tưởng.
Thể-pháp và bí-pháp tương liên khắn khít với nhau như hình với bóng. Hễ có hình thì có bóng, có bóng tức có hình. Nói cách khác, cầu Kinh tứ Thời là thể hình để người đạo, mỗi ngày một ít, gom Thần định Trí và lý thanh cao tưởng đến Phật Trời. Còn cái bóng của Kinh-kệ là trạng thái sống tinh-thần của người đạo đạt được khi vọng niệm. Các âm-ba hòa nhập vào điển-lực của Trời Phật làm thức tỉnh Chơn-Thần. Âm-ba Kinh-kệ là cái bóng, chữ nghĩa Kinh-kệ là cái hình. Hình với bóng không thể xa nhau.
"Vào mùa Xuân Canh Dần (1950), từ Biên-Hòa về Đất Thánh viếng Sư-Phụ (chỉ Đức Hộ-Pháp). Trong cuộc hội-kiến Đức Hộ-Pháp dạy:
"Các con nên lưu ý: Đền-Thánh và các kiến-trúc trong hay ngoài đều tiềm-ẩn Dịch-lý. Các con đã thấy, Thầy lập ba Tịnh-Thất: Thiên-Hỉ Động (Trí-Huệ-Cung), Địa-Linh Động (Trí-Giác-Cung) và Nhơn-Hòa-Động (Vạn-Pháp-Cung) hàm ý Tam Tài".
"Ở ngoài miền Trung, chi Minh-Sư của Đạo-sĩ Trần Cao Vân (1866 - 1916), trong Kinh Nhựt-Tụng có hai câu:
Vì đó, ông nghiên-cứu Trung Thiên dịch và viết bài "Vịnh Tam Tài" như sau:
Xem thứ tự các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, thì giống thứ tự các quẻ Hậu-Thiên Bát-Quái, như cách sắp xếp phương-vị của Bát-Quái và phương địa-lý khác nhau vì bát-Quái Cao-Đài vận-hành theo chìu ngược kim đồng-hồ (chìu Dương của Dịch-Lý), còn Bát-Quái Hậu-Thiên bắt đầu bằng cung Chấn và vận-hành ngược lại. Sở-dĩ như vậy là vì:
1. Hậu-Thiên làm cho Càn, Khôn thất vị nhiễm Trần,
2. Đạo Cao-Đài thờ Con Mắt Trái mở rộng, nên phải đưa quẻ Ly ( là con mắt) về hướng Bắc để vẽ con mắt lên cung Bắc-Đẩu, trong khẩu truyền của chi Minh-Sư:
Trong khi đó, quẻ Ly của Hậu-Thiên Bát-Quái nằm ở phương Nam để quẻ Càn nằm ở Tây-Bắc, chỉ vùng Kỳ-Sơn, đất của Văn-Vương, nơi ông dấy nghiệp vua (Càn).
Việc thờ Quả Càn Khôn được lý-giải như vầy: Càn (. . .) là Trời, nhẹ nhàng nên ở trên, biểu tượng bằng Thiên-Cầu. Khôn (. . . ) là Đất, trọng trược nên nằm dưới, biểu tượng bằng Địa-Cầu, lồng bên trong, tức Âm trong Dương. Đó là quẻ Bỉ ( . . ), biểu-tượng thời Hạ-Ngươn mạt Pháp, tương ứng với ý chưa sinh, chưa biến-hóa. Song Đạo lập ra để cứu đời, nếu đối diện với Quả Càn-Khôn là chữ KHÍ nơi Hiệp-Thiên-Đài (tức hiệp nhứt Thiên Nhơn trong Kinh Dịch), biểu-tượng Âm Dương phải khí hóa. Trong mỗi quẻ đều biểu tượng Tam Tài: Trời, Đất, Người; luôn luôn biến-thiên khí Âm, khí Dương, đổi chỗ nhau, nhưng con người luôn nằm giữa. Nói cách khác con người ở trạng thái quay của trái đất, lúc sáng (Dương), lúc tối (Âm). Điều đó giải thích tại sao Âm nặng-nề, nằm dưới, mà có thể biến-hóa chiếm chỗ chánh-vị Dương. Nhờ đó, quẻ Bỉ .... khí-hóa mới trở thành quẻ Thái ........ (Âm lên trên Dương), là thông suốt an lạc mà tạo đời Thánh Đức. Nhờ Âm Dương hợp nhứt sinh ra người (Âm Dương hợp nhứt vị nhân). Theo từ nguyên, chữ Nhân được hợp thành do nét trái chỉ Dương và nét phải chỉ Âm, nên trong mổi con người đều có hai khí Âm Dương.
Cụ thể hơn, ta lấy Càn Khôn, tức quẻ Bỉ để vẽ sơ-đồ Bát-Quái đã có trong Vũ-Trụ:
Khi quẻ Càn di chuyển chồng lên quẻ Khôn thì Tốn cũng di chuyển chồng lêm quẻ Cấn mà sinh ra quẻ Tiệm.
Theo Dịch-Lý, Càn cầu ở Khôn thì sinh Nữ, Khôn cầu ở Càn thì sinh Nam. Càn Khôn sinh ra Tiệm, tức con người đứng giữa Trời Đất, giữ đạo trung chánh. Đức Chí-Tôn đã dạy: "Đạo khai vào Rằm tháng 10 năm Bính-Dần, vì Nhơn sanh ư Dần, lấy Bính-Dần (1926) làm năm đầu lịch Đại-Đạo (Võ Vương đã lấy Bính Dần [1134 trước Tây Lịch] làm năm đầu lịch can chi nhà Châu ). Thế nên, Đạo Cao-Đài lấy Nhơn-Đạo làm nền tảng giáo-lý. Nói cách khác, Đạo Cao-Đài đồng nghĩa với chủ-nghĩa Nhơn-Đạo (Humanitarisme), với chủ thuyết Tâm Vật bình hành, không nghiêng Duy Tâm hay Duy Vật mà DUY NHÂN, vì tâm và vật đều do Âm Dương khí hóa mà thành, chỉ có con người tối quan trọng.
Nhắc lại việc Đức Phạm Hộ-Pháp cho xây dựng ba Tịnh-thất như sau:
Trí-Huệ-Cung trong Thiên-Hỉ Động, ở về phía Nam cách Đền Thánh độ 5 Km. Thiên-Hỉ Động là tòa nhà vuông (tứ tượng) có hai lầu, phía dưới đất có làm phòng ngầm, xây cầu thang đi xuống đó là nơi nhập đại-tịnh của Đức Phạm Hộ-Pháp.
Sau khi ra tịnh, trấn pháp Long Tu Phiến và Kim-Tiên trên Thiên-Hỉ Động, Đức Ngài thuyết rằng:
"Trước Bần-Đạo đã gánh vác về Thể-pháp Cửu-Trùng Đài ... Ngày nay vui mừng là Bần-Đạo có sức khỏe đầy đủ, cầm bí-pháp của Đức Chí-Tôn đã giao phó, ấy là phận sự đặc biệt của Bần-Đạo vậy".
Trí-Giác-Cung trong Địa-Linh Động, nằm trên đường đi Qui-Thiện, cách Đền-Thánh độ 3 Km. Đây là nơi đầu tiên xây dựng đền thờ Đức Phật-Mẫu.
Vạn-Pháp-Cung trong Nhơn-Hòa-Động, định xây ở Sơn-Đình, chân Núi Bà Đen, sau dời về Phận-Đạo Thập-Tam, cuối đường Bình-Dương-Đạo.
Chương nầy cho ta thấy vai trò của Đức Phạm Hộ-Pháp trong Thể-Pháp và Bí-Pháp. Thể-Pháp và Bí-Pháp là hai mặt mà bất cứ Tôn-giáo nào cũng phải có. Thể pháp của Đạo ai cũng thấy được. Đức Phạm Hộ-Pháp lập ra những kiến-trúc hình tượng rất đặc thù của tôn-giáo Cao-Đài: Thánh-Thất, Tòa-Thánh, Đền-Thờ Phật-Mẫu, y phục toàn trắng. Bất cứ ai, bất cứ ở đâu, nhìn thấy những biểu tượng đó đều biết ngay là Đạo Cao-Đài.
Từ lúc "giáng-linh Hộ-Pháp Vi-Đà" thì Đức Phạm Hộ-Pháp nắm cả quyền về Bí-Pháp. Trong Pháp Chánh-Truyền, Đức Chí-Tôn đã dạy: "Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng-Liêng mối Đạo". "Quyền Thiêng-Liêng" đó là bí-pháp, là điển-lực giải thoát Chơn-Thần con người thoát khỏi vòng tục lụy. Bí-pháp thuộc trách-nhiệm nơi Hiệp-Thiên-Đài mà vị Chưởng-Quản là Hộ-Pháp.
Hãy nghe Đức Ngài giảng việc này như sau:
"Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở Huệ-Quang Khiếu, nên mới về được hội-kiến cùng Đức Chí-Tôn và học hỏi được nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí yếu bí trọng". (Lời Thuyết Đạo, đêm 13-8-Mậu Tý tức 16-9-1948 tại Đền Thánh )
Nhờ đó mà Đức Ngài truyền lại cho các chức-sắc hành pháp giải-oan, phép xác, hôn-phối, v.v. ... và luyện Cam-Lồ-Thủy, Ma-Ha-Thủy, v.v. ... Những thể-pháp và những bí-pháp mà Đức Ngài xây dựng và truyền giảng, các chức-sắc thừa-hành cố giữ y nguyên-trạng.