Unicode font
GIẢI THÍCH
NỘI TÂM VÀ NGOẠI TÂM ĐỀN THÁNH
GIẢI THÍCH:
Hiệp Thiên Đài Là Chơn Thần
Tám Khuôn Hình Trước bao Lơn Đền Thánh
Ông Thiên và Ông Ác
Hình Tam Thánh
Cân Công Bình
Bó Hoa Trước Mặt Lầu Chuông và Lầu Trống
Ngôi Hiệp Thiên Đài
Thất Đầu Xà
Rồng Há Miệng
Thiên Nhãn Chung Quanh Đền Thánh
Khung Cửa Sổ Chạm Hình Bông Sen và Thiên Nhãn
Dây Nho
Phần Bát Quái Đài
Tam Giáo Ngủ Chi Phục Nhứt
Tam Trấn
Đức Hồng Quân Lão Tổ Nơi Cung Thượng Thiên
Hai Cái Đài Thuyết Đạo
Kim Mao Hẩu
Đức Di Lạc Cởi Cọp
Con Long Mã Đứng Trên Quả Địa Cầu
Chữ Vạn Trên Nóc Lầu Chuông Trống
Bầu Gậy và Giỏ Hoa Lam
Ba Vị Phật Trên Nóc Bát Quái Đài
Nếu như con người thiếu linh hồn là phải chết, thiếu chơn thần phải điên, thiếu hình thể thì không thành người; ấy vậy vật bất ly tâm.
Toà Thánh cất là thay thế hình thể Chí Tôn tại thế cho chúng sanh, nhìn Thầy, tức là Chí Tôn đến cứu vớt chúng sanh kỳ trong thứ ba. Theo lời tiên tri của Đức Chúa Giêsu đã nói trong hai ngàn năm thì có Chúa xuống thế. Nhưng ngài đến như kẻ trộm đi đêm. Ngài sẽ huyền diệu hơn ta, nhiều người kính mến hơn ta và không chịu đổ máu như ta; khi Ngài đến có nhiều tiếng còi kêu inh ỏi trên thin không, ấy là cơ bút ngày nay đó vậy.
2/ Vua Nghiêu tầm hiền : Lúc Ngài đi du sơn gặp ông Thuấn đang cày voi chim lượm cỏ thì Ngài biết ông nầy là người hiền nên Ngài rước về nhường ngôi và gả con.
3/ Thoại Hữu và Hữu Sào : Là hai vị Tổ Công nghệ đầu tiên, Đức Hữu Sào dạy dân cất nhà làm tổ , Đức Thoại Hữu tầm cách làm ra lửa mà dạy dân nấu nướng và tạo ra các đồ kim khí.
4/ Phạm Lãi và Tây Thi : Là hai nhân vật đời Chiến quốc, đây là lúc Tây Thi làm xong sứ mạng rồi gặp Phạm Lãi. Vợ chồng giữ lời hứa hẹn trong buổi sơ giao, hôm nay được toại chí đi du hồ.
5/ Khương Thượng và Võ Khiết : Lúc Khương Thượng ngồi câu nơi sông vị thì Võ Khiết gánh củi đến nghỉ nơi Bàn Khê ,thấy Khương Thượng câu không mồi và lưỡi câu ngay đót thì nói rằng ông câu không có mồi làm sao được cá. Khương Thượng trả lời : Ta câu đây là câu thời vận chớ phải câu cá đâu. Võ Khiết cười và nói : Ông đến tuổi đó mà nói câu thời vận tôi bắt nực cười. Khương Thượng nói : ngươi chớ cười ta, hôm nay ngươi gánh củi xuống chợ đụng nhầm người ta mà thường mạng. Thật như lời, Võ Khiết gánh củi xuống chợ đụng nhầm người ta té chết,lính bắt giải đến Vua Văn Vương. Võ Khiết khóc nói còn mẹ già xin được tha về nuôi mẹ, ba năm sau sẽ xuống mà thọ tội. Vua thấy người có hiếu bèn cho về nuôi mẹ. Đó là lúc, Khương Thượng gần nên công hầu.
6/ Bá Nha và Tử Kỳ : là bạn tri âm. Bá Nha làm quan nước Tần, lúc đi sứ nước Sở về đến cửa sông Hán Dương nhằm tiết trung thu trăng sáng. Ngài bèn ra lịnh cắm thuyền lại nghỉ. Ngài bèn lấy cây Dao cầm mà đàn một khúc, bỗng đứt dây. Ngài biết có người nghe lén. Ngài sai kẻ tả hữu lên bờ xem, thấy Tử Kỳ ngồi dưới chân núi Mã Yên. Hai người đối đáp vừa tai hiệp ý bèn xin kết nghĩa anh em, hẹn năm sau ngày này tháng này sẽ hội ngộ nơi đây. Đúng như lời hứa hẹn, năm sau Bá Nha đến cắm thuyền dưới bến, chờ hoài không thấy Tử Kỳ, Ngài buồn quá bèn lấy cây Dao cầm ra mà đàn. Tiếng đàn kêu ai oán nên Ngài biết Tử Kỳ gặp nạn. Ngài và tuỳ tùng lên núi Mã Yên mà tìm, mới hay Tử Kỳ đã chết. Ngài đến mộ và tế lễ xong, Ngài lấy cây Dao cầm ra mà đàn khúc đoản ca để tế người tri âm mạng yểu, rồi Ngài đập cây đàn vào đá tan tành.
7/ Sào Phủ và Hứa Do : đây là lúc Hứa Do gặp vua Nghiêu đi tầm hiền, nghe Hứa Do là người hiền triết có tiếng, bèn kêu mà nhường ngôi. Hứa Do trả lời : tôi không ham phú quí không thích công danh, chỉ muốn thong thả ngao du. Nhưng tiếng nói của Vua Nghiêu vẫn còn văng vảng trong tai nên xuống suối mà rửa. Sào Phủ dẫn trâu cho uống nước, thấy vậy hỏi rằng : anh Hứa Do làm gì mà anh rửa lổ tai vậy ? Hứa Do trả lời tôi đi gặp Vua Nghiêu. Ngài kêu tôi mà nhường ngôi, vì tôi không thích công danh mà nghe tiếng nói ấy vẫn còn văng vẳng trong tai, sợ nhơ lỗ tai và ô nhiễm nên tôi phải rửa, Sào Phủ nói : tôi không hỏi anh thì trâu của tôi nó cũng uống nhằm nước của anh rửa lổ tai cũng nhơ bụng nó. Nói xong bèn dẫn trâu lên phía trước dòng nước cho uống.
8/ Châu Mải Thần : là ngươi nho sĩ nước Lỗ. Ngài có vợ mà vẫn còn ham học, lúc gánh củi lúc chăn trâu, không giờ phút nào Ngài quên học, cứ lo đọc sách ngâm thi, khônglo việc giàu nghèo. Người vợ thấy vậy khuyên Ngài lo làm ăn, nhưng ngài cố chí học hành. Người vợ khuyên không được bèn trốn bỏ nhà đi. Sau ngày thi đỗ ra làm quan. Người vợ xin về ở lại, Ngài múc tô nước đầy đổ xuống đất bảo vợ hốt lại cho đầy thì ở lại. Người vợ thất chí bèn tự tử mà chết. Ngài chôn vựa bên đường và dựng mộ bia đề như vậy :
Vua Tuỳ Kheo có lòng mộ Đạo nên muốn truyền ngôi cho Tuỳ Vân đặng đi tu nhưng sợ Tuỳ Vũ chiếm đoạt. Nên Vua Tuỳ Kheo mới sai Tuỳ Vũ qua nước Hàng Châu mà chiêu mộ anh tài. Khi Tuỳ Vũ đi rồi, Vua Tuỳ Kheo mới truyền ngôi lại cho Tuỳ Vân sửa trị trong nước. Rồi vua Tuỳ Kheo đến Am Vân lo tu niệm. Khi Tuỳ Vũ chiêu mộ anh tài xong trở về vào bái yết, thấy anh mình đã lên ngôi kế vị, mới hỏi tự sự. Tuỳ Vân thuật lại vì cha muốn xuất gia tu niệm mới truyền ngôi lại cho anh. Tuỳ Vũ nói anh hiền đức trị dân không sợ, vậy anh đưa ngọc ấn lại cho tôi, sửa trị thiên hạ mới sợ. Tuỳ Vân không chịu bèn ôm Ngọc Ấn Thuỷ Phù chạy lên Am Vân tầm cha phân định. Tuỳ Kheo thấy con hiếu để bèn rước về Tây Phương thành Phật. Khi Tuỳ Vũ theo đến, thấy anh mình đã thành Phật, thì ăn năn, tỉnh ngộ, bỏ hết giang san không màng danh lợi, bèn trục thất tình gát bỏ ngoài tai, rồi đi tu cũng cũng đắc đạo ( ấy là tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời).
Trước khi chưa khai Đại Đạo làm lắm tội tình, nên thiên điều đem ra mà trị tội. Nhơn sanh kêu nài mãi mà không chịu thọ hình, nói rằng : các nền Tôn Giáo ngày trước, Chí Tôn đã bế còn Phật giả vô ngôn, ,không có lời dạy bảo, mà Chí Tôn không khai mối Đạo nào thì nhơn sanh biết đâu làm lành lánh dữ, cho khỏi phạm tội với Thiên điều. Nên ba ông mới ra đứng trước Chí Tôn khai Đại Đạo. Ba ông ký tờ hoà ước đến năm Bính Dần, Chí Tôn khai Đại Đạo. Ba ông đắc lịnh làm hướng đạo dìu dắt chúnh sanh đem bác ái công bình làm nền tảng mà độ rỗi chúng sanh từ Á chí Aâu.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hygo) cầm bút lông (biểu tượng vũ hịch) cần kíp lắm để truyền bá Đệ Tam Hoà ước cứu đời.
Sáng ra Đức Vua đem chuyện chiêm bao thuật lại cho vị quân sư nghe và bảo đoán xem lành dữ. Vị Quân sư đoán rằng : Bệ hạ thấy biểu ấy là nước của Bệ hạ. Thấy mặt trời mọc ấy là mối Đạo, thấy bó hoa là sự tinh tuý. Ấy vậy trong nước của Bệ hạ ba ngày nữa sẽ có một mối Đạo mới. Quả nhiên trong ba ngày có Đức Phật Thích Ca đến mở đạo Phật.
Hiệp Thiên Đài có ba chi là chi Đạo, chi Pháp, chi Thế, Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài để thông công cùng các đấng thiêng liêng và Chưởng quản chi Pháp tức là năm giữ chơn truyền luật Pháp của Đạo. Dưới quyền của Hộ Pháp có bốn vị Thời quân là Bảo Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp.
Thượng Phẩm : Chưởng quản chi Đạo. Chi Đạo có phận hoá nhơn sanh về mặt Đạo và độ rỗi phần hồn nơi cõi hư vô. Đức Thượng Phẩm là Ông Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng trần, đã làm xong phận sự đắc đạo thành Tiên. Ông cầm cây quạt Long Tu Phiến để quạt đưa chơn hồn vào Bạch Ngọc Kinh. Đây là hình kỷ niệm vị môn đệ đầu tiên đã khai sáng nền Đạo độ dẫn chúng sanh khỏi luân hồi chuyển kiếp. Dưới quyền của Thượng Phẩm có bốn vị Thời quân là Bảo Đạo, Hiến Đạo , Khai Đạo và Tiếp Đạo.
Thượng Sanh : Chưởng quản chi Thế. Chi Thế có trách nhiệm giao thiệp với Đời, dìu dắt nhơn sanh vào cửa Đạo. Dưới quyền của Thượng Sanh có bốn vị Thời quân là Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế, Tiếp Thế, ba chi hiệp lại là Thập Nhị Thời Quân, cầm giềng mối Đạo để thông công cùng các đấng thiêng liêng truyền dạy, tức là phò cơ thỉnh Tiên.
Người tu phải cũng diệt thất tình mới mong đắc Đạo.
Lưỡng nghi sanh tứ tượng ấy là bốn cái trái, khi có Trời Đất mới phân định bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.
Tứ tượng biến thành Bát Quái ấy là tám cái lá. Khi định bốn phương rồi mới chia ra tám hướng Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Mười hai ngó sen ấy là Thập Nhị khai Thiên, là số 12 của Trời tức 12 con giáp : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Mười cái bông ấy là Thập phương chư Phật. Vì nơi Niết Bàn mới có Toà sen,ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần Thánh trước kia cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần mà không nhiễm trần, lại tìm chơn lý mà độ rỗi chúng sanh nên họ đắc vào bậc Thần Thánh, Tiên Phật. Tuy sen ở dưới bùn mà không nhiễm bùn, lại "có cái thanh danh là Tiên Hoa hay là Toà sen" nên gọi là cõi Phật.
Giải thích hình tam giác và 16 cái tia trong khuông Thiên nhãn
Thiên nhãn là Trời, hình tam giác là Tam Giáo, Tôn giáo nào cũng do nơi Trời mà có, Tôn giáo nào cũng có qui cũ chuẩn thằng.
Mười sáu cái tia bao quanh Thiên nhãn. Chín tia trên là Cửu thiên khai hoá. Bảy tia dưới là thất tình, cho con người nương theo Cửu thiên khai hoá mà về hiệp với Trời rời bỏ thất tình phàm tục.
Quả càn khôn tức là vũ trụ, trong quả Càn Khôn có ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao (3.072) thay thế cho Tam Thiên thế giới và Thất thập nhị địa.
Thiên nhãn là sự soi xét thấy cả mọi việc trong càn khôn vũ trụ tức là Trời. Trời huyền diệu biến hoá vô cùng bao quát cả thế gian chớ Trời không hình ảnh nhưngngười đời lầm tưởng.
Bát Quái biến ra Càn Khôn, nên trái Càn khôn để trên Đài Bát Quái, Càn Khôn sanh vạn vật ấy là Đấng tạo hoá.
Thời kỳ hạ ngươn nầy Đức Thượng Đế gom các vị giáo chủ hiệp lại đến mà kêu các vị môn đệ nhìn Thầy lần thứ ba, xuống cứu thế rước đệ tử đem về cõi thiêng liêng. Nếu đệ tử nào không chịu nhìn Thầy thì sau nầy không mong gì gặp lại. Kế dưới các Long vị các vị Giáo chủ các thời kỳ phổ độ trước.
Thần đạo : Đức Khương Thái Tông (Khương Thượng) là giáo chủ. Ngài vâng mạng lịnh Ngọc Hư để lập bản phong thần vào đời nhà Châu. Bên trái Khương Thượng có Thần vị NOURN DINH, người Hồi giáo Vua Thổ Nhĩ Kỳ (1146-1173). Vùa là địch thủ đáng kinh sợ của quân Thập Tự Chinh. Vua đại diện cho Hồi giáo trong kỳ ba phổ độ.
Thánh đạo : Đức Jésu Christ là giáo chủ, Ngài vâng mạng lịnh Đức Chúa Trời xuống thế chuộc tội cho nhơn loại kỳ thứ nhì Ngài mở Đạo Thánh xứ Aâu Châu.
Tiên đạo : Đức Lão Tử là giáo chủ, Ngài lập đạo Tiên tại nước Trung Hoa, để độ rỗi chúng sanh đời nhà Thương.
Phật đạo : Đức Thích Ca là giáo chủ, Ngài lập Đạo Phật tại nước Ấn Độ để độ rỗi chúng sanh .
Ấy vậy năm mối đạo hiệp lại là ngũ chi hiệp nhứt.
Bên hữu là nhị trấn oai nghiêm là bà Công chúa Diệu Thiện con vua Sở Trang Vương. Bà là người hiền đức và trinh liệt tu đắc đạo thành Phật Quan Âm Như Lai . Bà hay thương người mến vật cứu vớt chúng sanh. Nên Đức Chí Tôn chọn thế cho Phật giáo và làm gương mẫu cho bên Nữ phái.
Bên tả là tam trấn oai nghiêm là ông Quan Công sanh đời nhà Hớn. Ông là người trung cang nghĩa khí được đắc Thánh nên Chí Tôn chọn thế cho Thánh giáo và làm gương mẫu cho Nam phái.
Đức Hồng Quân là đấng phân định âm dương, khai nên trời đất, tức là Trời biến thân, làm thầy Tân giáo. Ngài lập ra ba nền tôn giáo là Nho, Thích, Đạo tạo cổ pháp và bí pháp tức là biểu hiện của Tôn giáo.
1/ Mắt ta không muốn trông thấy Khổng Phu Tử.
2/ Tai tai không thèm nghe những lời của Khổng Phu Tử bày
3/ Mũi ta không chịu hơi hôi tanh của Khổng Phu Tử.
4/ Lưỡi ta không nói chuyện với Khổng Phu Tử.
5/ Thân ta không muốn gần gũi thân mật với Khổng Phu Tử.
6/ Ý ta không muốn cho Khổng Phu Tử qua nước ta lần thứ hai. Nếu cãi lịnh sẽ gia hình không thứ. Ấy là sáu cái chia trong miệng rồng phun ra tức là lục căn : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý.
Bởi vua Phò Dư vô Đạo bạo tàn, nên Trời phạt trong nước phải bị thiên tai hạn hán. Vua thấy trong nước nguy biến bèn ra giữa Trời lập cái bàn mà cầu nguyện (tướng tinh Vua Phò Dư là con thanh long : Rồng xanh).
Vua Phò Dư quì dưới đài mà cầu nguyện thấu đến Ngọc Hư Cung. Đức Thượng Đế sai ông Hứa Chơn quân xuống đứng trên đài cho rằng ấy là tại nhà vua vô đạo không kể thánh hiền, nên Trời phạt như vậy. Nếu nhà vua muốn trong nước mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp thì qua nước Lỗ tìm Đức Khổng Phu Tử rước về mở Đạo dạy dân thì trong nước hết tai nạn. Ngài nói rồi đằng vân bay mất.
Vua nghe theo lời qua nước Lỗ cầu Đức Khổng Phu Tử đến mở trường Đạo dạy dân. Không bao lâu trong nước được mưa thuận gió hoà, dân lạc nghiệp âu ca. vua thấy vậy truyền lĩnh trong nước ai không theo Đạo của Đức Khổng Phu Tử sẽ bị gia hình trọng trị.
Kim Mao Hẩu là linh vật cưỡi của Văn Thù Bồ Tát (Marjusri) để hỗ trợ cho đạo pháp. Theo dân gian, Thần Tử Vi trấn môn tay cầm bùa bát quái, thân cưỡi Kim Mao Hẩu để trừ quỉ quái bảo hộ gia đình; chung quanh Đền Thánh có tạc 8 con Kim Mao Hẩu để xua đuổi bọn Tả đạo Bàng môn (cửa hông).
Tượng trưng hình Ngài cưỡi cọp là ám chỉ nền Đại Đạo TKPĐ khai năm Bính Dần (1926) tại Tây Ninh.
Long mã là vật đem tin truyền đạo, nên từ hướng Đông chạy sang hướng Tây rồi quay đầu lại hướng Đông. Ấy là Thiên Địa tuần huờn châu nhi phục thỉ thì Đạo trở lại hướng Đông lập đời Thánh Đức.
Đời Đường, thời Võ Tắc Thiên có thời chữ Vạn đọc là chữ NHẬT tượng trưng cho mặt trời, chữ đó ngoặc sang bên trái . Ngoài việc coi chữ Vạn là Trời, Đạo Cao Đài còn ý nghĩa thứ hai cầu mong "Thánh Vương giáng thế chuyển luân cai trị thế giới"
Trong cuốn " Học Phật quần nghi" do NXB Đông Sơ Đài Loan 1987, Hoà Thượng Thích Thánh Nghiêm đã viết : "Gần đây thỉnh thoảng có sự tranh luận về chữ Vạn ngoặc sang phải hay ngoặc sang trái…Vì trong những năm 40 của thế kỷ XX, Hitler Châu Aâu cũng dùng chữ Vạn để làm phù hiệu cho chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Có người nói Hitler dùng chữ Vạn ngoặc sang trái, Phật giáo dùng chữ Vạn ngoặc sang phải" (trang 144).
Hoà Thượng Thích Thánh Nghiêm cho biết thêm : "Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là Thánh Vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cang Bát Nhã, chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo Kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật".
Trong Bách Khoa toàn thư The World Book 1999 của Hoa Kỳ đã vẽ hình hai chữ Vạn như hình vẽ. Joseph Ward Swain đã viết : "Chữ Vạn có dạng dấu thập mà phần cuối các cánh tay đòn của nó được bẻ gãy vuông góc theo một chiều xác định, thường là chiều kim đồng hồ. Năm 1920, chữ Vạn theo chiều kim đồng hồ đã được Đức Quốc Xã chọn làm biểu tượng". Như vậy theo J.W. Swain chữ Vạn có thể quay theo cả hai chiều. Một trong hai chiều đó trùng với chữ thập ngoặc của Đức Quốc Xã.
Như vậy, sự trùng lặp biểu tượng chữ Vạn của tôn giáo và chữ thập ngoặc của Đức Quốc Xã là có thật.
Thật vậy, trong Ấn Độ giáo lấy chữ Vạn ngoặc bên phải biểu thị thần nam giới và ngoặc bên trái biểu thị thần nữ giới. Đạo Lạt Ma ở Tây Tạng dùng chữ Vạn ngoặc sang bên phải. Còn Đạo Bonpa dùng chữ Vạn ngoặc sang trái.
Chính vì sự hiểu lầm chữ Vạn mà Toà Thánh Tây Ninh bị đóng cửa (1941), Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc bị Pháp bắt tù đày. Thật ra Đạo Cao Đài chẳng hề có quan hệ gì với Đức Quốc Xã.
Giỏ hoa lam là món bửu pháp của bà Long Nữ, đệ tử của Phật Quan Âm Như Lai. Hôm nay đã giáng trần dìu dắt nhơn sanh làm đầu bên Nữ phái,ấy là chơn linh của bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Hai Đấng nói trên là hai vị môn đệ của Chí Tôn trong buổi ban sơ Khai Đại Đạo. Hai vị này là ân nhân của nhơn loại và Đại công với Đạo trong thời kỳ thứ ba.
Civa Phật (day mặt về hướng Bắc) ông ra trị đời nhằm thời kỳ trung ngươn là ngươn tranh đấu tức là ngươn tự diệt. Ông đứng trên con thất đầu xà ấy là diệt thất tình. Ông thổi ống sáo để dục tỉnh nhơn sanh trở về ngôi vị.
Christna Phật (day mặt về hướng Nam), Ông ra trị đời nhằm thời kỳ hạ ngươn là ngươn tận diệt tức là bất đầu ngươn tái tạo. Ông cưỡi con Giao long đi khắp cùng chơn trời gốc biển mà rước các chơn hồn đem về Bạch Ngọc Kinh dâng lên Chí Tôn định vị.
Tóm lại, các kiến trúc mang các điển tích của Đền Thánh là do nơi Đức Giáo Tông thiêng liêng (Đức Lý Thái Bạch giáng cơ) và sự chỉ đạo của Đức Hộ Pháp. Lễ an vị ngày 8 tháng giêng năm Định Hợi (1947).