CHƯƠNG V

THÁNH GIÁO
CỦA ĐỨC NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN




1. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ban kinh

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đã giáng cơ ban cho Đạo sáu bài kinh Thiên Đạo và Thế Đạo như sau

    Kinh Tam Thánh
    Kinh cầu hồn khi hấp hối
    Kinh khi đã chết rồi
    Kinh tẩm liệm
    Kinh đưa linh cửu
    Kinh hôn phối

Xin xem nguyên văn trong Kinh Thiên Đạo- Thế Đạo

Top of Page


2. Văn thơ Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

    Thánh Thất Kiêm Biên, ngày 14 tháng 2 Nhâm Thân

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

Bần Đạo chào Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Tiếp Đạo và Hội Thánh Ngoại Giáo.

Nam nữ Thiên phong xin nghe : nước Thiên Đường thì ít kẻ, cửa Địa ngục vẫn nhiều người, chưa từng thấy hạng nhơn sanh nào mà tự trong thân hình, chẳng hữu ích chi cho cả cơ Tạo mà đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngôi vị Thiêng liêng chẳng phải do nơi sự cầu may mà đoạt đặng.

Bần Đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương, thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị, Bần Đạo chẳng kể là nguyên nhân, hoá nhân hay quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Đạo, Bần Đạo để cho mỗi người tự do định phận lại tuỳ thế khó khăn mà gầy thành công quả; ấy vậy, nếu lấy phép công bình thì tự nhiên, nên thì thâu, hư thì bỏ. Bần Đạo đã chấn thấy kẻ bất lực rất nhiều. Vậy Bần Đạo để lịnh cho mỗi vị Thiên phong xét mình khai tội cùng Giáo Tông và Hộ Pháp, rồi sau mới định rõ đều thưởng phạt. - THĂNG


    Giáo Tông Đường, đêm 13-4-Đinh Hợi (1948)

Bạch Vân Động Chưởng Đạo

Chào chư chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng
Bần Đạo kính lời cảm tạ Hộ Pháp cùng Hội Thánh có lòng nhớ đến mà tổ chức lễ kỷ niệm của Bần Đạo long trọng. nơi Kiêm Biên cơ Đạo phải chịu một thời điêu tàn rồi sẽ đến giờ chấn hưng lại. Bởi dân Tần còn lắm nỗi tai ương, điều ấy đã tiên tri không thể nào tránh đặng. Phận sự của Bần Đạo lãnh lịnh ngoại giáo là trong chư quốc, chẳng phải một nước Tần mà thôi.

H.T. mọi hành động của con có các Đấng vô hình tiên liệu, dầu đi đến nước nào cũng có đệ tử Bạch Vân ở nước ấy, nói chi nước Pháp hay là Trung Hoa. Con cứ tiến hành thì đắc thẳng.

Bần Đạo tỏ lời cảm tạ cuộc lễ và tỏ sự vui vẻ của nước Việt Nam đã được nổi danh cùng lân bang. Nhất là Cao Đài được lừng tiếng tung hô từ năm 1946, đến nay các nước đều để ý đến.

Hiện giờ sự tín nhiệm Đạo Cao Đài đối với các Đảng phái được phần chú ý hơn. Vậy mọi hành trình chỉ dùng sự chân thật là thắng hết.

Bần đạo cám ơn chư vị có đủ lòng bác ái kết chặt mối tương thân cùng bạn đồng chủng của Bần đạo. Ấy cũng là lòng từ bi của Chí Tôn muốn vậy mới tròn câu phổ độ toàn nhân loại mà lập thành một mối Đại Đồng Tôn Giáo. - THĂNG .


    Hội Thánh Ngoại Giáo tại Toà Thánh
    Đêm 23-6-Kỷ Sửu (14-10-1949)

Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

Chào chư chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng .

Mấy lúc qua, Hội Thánh Ngoại Giáo ngưng trệ vì thiên thơ tiền định. Các vị lãnh lịnh Hội Thánh đã thi hành nguyện vọng, xét ra cũng theo lối xưa là bất đồng tâm, bất tựu lý cùng nhau nên kẻ vầy người khác, cuộc tiến hành không căn bản, giảm quyền Hội Thánh Ngoại Giáo. Đức Hộ Pháp đã tiên liệu có ngày, Ngài sẽ đến phục hưng nơi ấy. Hiện tình khó khăn là bởi thời cuộc biến chuyển, cần gìn cho còn danh thế là đủ, để các Đấng sắp đặt phương châm định thành vẻ vang hậu cận. Xin khuyên vị Tân Chủ Trưởng cần phải bền lòng sẽ thấy nhiều kết quả từ từ đến.

Việc làm có khó mới có công, hành Đạo có chuyển biến mới tiến triển tinh thần đạo đức là một bài học hay cho các bậc bền chí đạt nguyện, có chi mà lo ngại. Cứ an tâm.

Nhớ về trước các Đấng đã tiên tri rồi “Thương thảm cho nòi giống nhà Tần”. Vì vậy mà các hành tàng của Đạo phải chịu định phận thuận với thiên thơ. Nói ít chư hiền khá để tâm suy gẫm mà tuỳ phương lo lắng trọn bổn phận mình.

Bần đạo căn dặn chư hiền gắng thêm công quả, lập đức cho dày chẳng vì lẻ mọn của đời người mà phế vong đại sự. - THĂNG .


    Giáo Tông Đường, Đêm 13-4-Đinh Hợi (1948)

Bạch Vân Động Chưởng Đạo

Chào chư vị Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng.
Bần đạo kính lời cảm tạ Hộ Pháp cùng Hội Thánh có lòng nhớ đến tổ chức cuộc lễ kỷ niệm của Bần đạo long trọng. Nơi địa phận Kiêm Biên có Đạo phải chịu một thời điêu tàn rồi sẽ đến giờ chấn hưng lại. Bởi dân Tần còn lắm nỗi tai ương, điều ấy đã tiên tri không thế nào tránh đặng. Phận sự của Bần đạo lãnh lịnh ngoại giáo nay đã đến lớp tuồngnên phải lo ám trợ.

H.T mọi hành trình của con có các Đấng vô hình tiên liệu dầu đi đến nước nào cũng có đệ tử Bạch Vân ở nước ấy, nói chi nước Pháp hay là Trung Hoa, con cứ tiến hành thì đắc thắng

Bần đạo tỏ lời cảm tạ cuộc lễ và tổ sự vui vẻ của nước Việt Nam đã được nổi danh cùng lân bang. Nhứt là Cao Đài được lừng tiếng tung hô từ năm 1946 đến nay các nước đều để ý đến.

Hiện giờ sự tín nhiệm Cao Đài đối với các Đảng phái được phần chú ý hơn. Vậy mọi hành trình dùng sự chân thật là thắng hết. Họ thất bại là vì thiếu sự thật, nên nhớ một điều ấy là đủ thắng giặc tinh thần.

Bần đạo cám ơn chư vị có đủ lòng bác ái kết chặt mối tương thân cùng bạn đồng chủng của Bần đạo ấy cũng là lòng từ bi của Chí Tôn muốn vậy mới tròn câu phổ độ toàn nhơn loại mà lập thành một mối Đại Đồng tôn giáo. - THĂNG .


    Saint- Siège de Tay Ninh (Hộ Pháp Đường) le 23-7-1937
    (16 è jour du 6è mois de l’année Đinh Sửu)

    Médiums :
    Hộ Pháp & Tiếp Đạo

    Présents à la séance :
    G.S Thượng Chữ Thanh
    Et quelques dignitaires
    De la Mission Etrangère

NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN OU VICTOR HUGO
Bonjour Hộ Pháp et mes chers amis
Cao Tiếp Đạo j’ai à vous parler personnel- lement au sujet de Charles

(Il s’agit du Giáo sư Thượng Chữ Thanh ou Charles Hugo)

Vous êtes idéaliste. Il suffit de vous dire que toute autorité qui mérite son nom doit être respectée de gré ou de force. L’avenir de la mission Etrangère nous réserve encore beaucoup de surprises au poin de vue sacrifices. Sachez bien que Charles a été désigné par moi pour réaliser un plan très complexe. L’honneur de tous les Missionnaires est placé au premier plan. Il dépend d’une réelle énergie dans les paroles et dans les actes pour mettre chacun à la hauteur de sa tâche. Le Corps entier est imbu de toutes sortes se corrup-tions, aussi bien chez les hommes que chez les femmes, par d’effroyables procédés. Or, un assainissement radical est absolument nécessaire. Donc, la désignation de Charles est murement con-cue, je reconnais qu’il n’a pas tout fait pour réussir. Il y a vraiment des défaillances, mais les résultats obtenus sont aussi assez élogieux.

Je vous serais donc infiniment reconnaissant de l’ai-der puissament dans sa tâche pour aplanir les difficultés qui peuvent se produire dans l’accomplissement du dessein de Dieu.

Cao Tiếp Đạo répond : Je vous obéis. Je m’entendrai avec Sa Sainteté pour aider Charles

Merci . - A DIEU .


    THƠ CỦA NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN

      1

    Đã ở nước Tần xứ sở xa
    Phải coi thời thế liệu phương nhà
    Trí cao hằng giữ đường gay trở
    Mưu khéo toan lo lẽ thuận hoà
    Níu mối kinh luân đâu cũng phận
    Gìn lòng đạo đức há than già
    Trên đầu đã sẵn Thầy nâng đỡ
    Bơn bớt đừng lời hỏi thiết tha

    NTCN, 25-7-1927


      2

    Lễ là hạnh mến của Thần Tiên
    Khá giữ lễ nghi cứ vậy bền
    Trước mặt phàm xem tuy chẳng thấy
    Chín tầng lộng lộng phép Bề Trên.

    Dặn Phong Chí đêm 9-8-1927


      3

    Phải biết nhứt tâm đối với Trời
    Dầu cho kín mặt khó trông nơi
    Dẫu quyền Tạo Hoá đời chưa thấy
    Lộng lộng tâm kia níu chất đời

    Dạy Đông Y Võ Văn Sự đàn 18-8-1927

      4

    Mộc tặc, phòng phong tuyết bạch đầu
    Trần bì, thục địa ám minh châu
    Đào căn, chỉ thiệt hồng hoa kiến
    Nhãn nhục, xuyên tâm hoả lựu sầu
    Quân tử, mạch môn, cam thảo thuận
    Kỳ nam, viễn chí, khổ qua mâu
    Hồ giao, lộc giác, y căn thủ
    Trạch tả, càn cương thiếu khách hầu

    Trách Ông Sự đàn 20-8-1927


      5

    Hữu tài vô đạo bất vi nhân
    Tạo thị xuyên âm thị mịch thần
    Hám lợi vô mưu hà kế đắc
    Chỉ tri nhứt nhựt độ vinh thân

    NTCN báo tin Chí Tôn xá tội Ô. Sự
    Đàn 28-8-1927


      6

    Phụng đến bờ dương trổi tiếng kêu
    Gió mê vừa lạc lạnh phòng tiêu
    Đỡ nâng vạc cả nhờ Chung Thị
    Gánh nỗi ngôi thiên tưởng Tiểu Kiều
    Mở mắt hồng nhan hờn đức kém
    Rạng mày thục nữ giận tài nhiều
    Bóng trăng khuất núi trời hầu tối
    Liệu thử phương hay trở bóng thiều.

    Đàn 22-9-1927


      7

    Trần thế luôn gây náo nhiệt trường
    Lánh nguy nguồn Đạo vẹn tìm phương
    Vùi sầu nay gắng chung vai gánh
    Hưởng phước sau may hiệp bước đường
    Cay đắng lần soi gương trí tuệ
    Chia phôi chờ trãi lối tang thương
    Dặn mình tua chặt trong gang tấc
    Sau trước lòng son giữ đặng thường

    Đàn 9-4-1928

      8

    Vinh hiển tuy chưa toại thửa nguyền
    Phép nhà vẹn giữ cũng nên duyên
    Thảo ngay lòng nhớ lâu truyền hiếu
    Chánh trực xa nghe giỏi tấc thiền
    Dặn gió chờ ngay đài các đến
    Trường danh có lúc đề nêu tên
    Coi mình khá giữ mình cho vẹn
    Cái đạo trượng phu thế mới bền

    Ban cho Hiển Trung tháng 6-28
    Và câu đối làm Đạo Hiệu :

      HIỂN tổ vinh tông khả dĩ trượng phu chi Đạo
      TRUNG quân ái quốc thị tri thần tử chi tâm

      9

    Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch
    Cõi trần nay nhờ khách đức dày
    Mùi thơm sen Phật cao bay
    Từ bên Đông Á phô bày Tây Aâu
    Nước hằng sống nửa đầu thế sự
    Chuyển chơn linh đối dữ ra lành
    Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh
    Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài
    Kể vì mị đoái hoài giả đạo
    Kẻ hay tin quái giáo gây trò
    Nguyên nhân lỡ bước ai lo
    Dẫn đường Cực Lạc đưa đò mê tân
    Khách mở ngõ thiền lâm cho chóng
    Các ngươn linh trông ngóng bấy lâu
    Biết thân lại đợi ai cầu
    Lục Nương tiếp :Cầm gươm thần huệ xây lầu tuyệt oan
    (Lục Nương DTC tức bà Jeanne d’Arc )
    Giục thế sự an nhàn lấy phận
    Lửa thiên cơ khỏi vấn vương oan
    Để chân vào chốn Niết Bàn
    Thoát vòng luân chuyển mong đàng thiện duyên…

    Đàn 16-2-Tân Vị (1-1932)


Vào ngày 20 tháng 4 năm 1930, Đức Hộ Pháp chấp bút, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng cơ dạy về quyền lực của Đấng tạo ra Càn Khôn và Vạn vật.

Nguyên văn tiếng Pháp trong HISTOIRE ET PHILOSOPHIE DU CAODAISME dưới đây là bản dịch của Đức Hộ Pháp.

Đức Hộ Pháp hỏi :
Nhờ Ngài cho biết về do lai Đức Chí Tôn và quyền hành Người tạo ra Càn Khôn cùng vạn vật.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đáp :

    Hiểu cho đặng huyền vi khó nổi
    Tra khuông hồng tỏ mối không minh
    Theo tôi nghĩ thế giới mình
    Ngoài ra còn có lắm hình Càn Khôn
    Nhiều thế khác biệt phân lớn nhỏ
    Sinh tồn loài vật nhỏ y nhau
    Một ngôi nào đó lên cao
    Về thần hồn với về loài chúng sinh
    Cũng có lúc giống mình y hệt
    Tiến hoá nâng khí phách nên hiền
    Mây trời đẹp vẻ thiên nhiên
    Vật loài đều hưởng trọn quyền Chí Linh
    Các quả cầu thái bình yên tịnh
    Cả chúng sanh dốt tánh can qua
    Tương đối dứt, tuyệt đối ra
    Chơn hồn tranh đấu về khoa tánh lành
    Sanh chi cũng quang minh cách trí
    Quyền linh hồn chủ quỉ phàm tâm
    Thế hèn luật cũng không cần
    Tương thân chỉ cậy nhờ phần đức tin
    Cái chết bị tâm linh đánh bại
    Sống chết dường trái phải không phân
    Thương sanh truyền khắp xa gần
    Hồn và người vốn Thánh Thần hiển nhiên
    Như thế giới Càn Khôn ta có
    Sanh hoạt này quả có nên nhiều
    Địa cầu chừng đặng cao siêu
    Các Ngài rõ giá những điều phân phô

    Đức Hộ Pháp :
    Chừng nào địa cầu nầy hưởng đặng điều ấy ?

    Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn :
    Thần linh dụng tiếng giúp Ngài hiểu
    Cho tỏ tường phẩm hiệu dường bao
    Qua luyện tôi, Thánh chất vào
    Còn lâu nữa mới lâm trào Phật Tiên
    Muốn biết đặng căn nguyên từ pháp
    Ở cùng người hoặc đạt hiểu người
    Chẳng hồn nào quyết định bồi
    Thích Ca thì cũng để lời phỏng ngôn
    Chớ coi trọng lời tôn bày tỏ
    Tôi thuật lời tưởng ngỡ chơn linh
    Tỉ như lúc trước chí linh
    Có sanh ở một cành hình Càn Khôn
    Người cũng đấng phẩm hồn hậu bổ
    Vật nên người, người trở nên hiền
    Lần hồi lên phẩm thiêng liêng
    Khai thiên người mới đạt quyền chí linh
    Đã chịu lắm sinh sinh tử tử
    Đủ quyền linh làm chủ trí khôn
    Lại thay thâu phục chơn hồn
    Đặng làm thần độ vĩnh tồn triều nghi
    Đài thiên cảnh vừa khi đặng lớn
    Dắt triều đình vào chốn không trung

    Đức Hộ Pháp :
    Vậy khi ấy Người đã có Thiên cung riêng của Người rồi hay sao ?

    Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn :
    Phải, mỗi đứa riêng trong cảnh giái
    Cửa chúng ta tạo lại linh hồn
    Hồn người do bởi giác hồn
    Tạo nên cảnh giới cộng làm chánh cung
    Trong các Đấng lòng trung vẫn ít
    Phần đông do kẻ nghịch oan khiên
    Tu chơn bỏ máy diệu huyền
    Thì ta mở lối cảnh thiên quỉ vào
    Quỉ vương hỏi nơi nào mà đến
    Cứ tầm chân dừng tiến giả truyền
    Chắc do trong đám triều thiên
    Chí linh khó sửa chờ truyền chánh tâm
    Ta hằng bị tình thân phản nghịch
    Đố kị cùng vui thích hại ta
    Hộ Pháp tay Ngài tê quá thay là
    Đêm mai tôi tiếp nói qua chuyện này

    10 giờ đêm 21-11-1930
    Lại tiếp chuyện khai thiên tôi nhận
    Cùng kính phương học vấn của Ngài
    Chí Tôn tới chốn Dạ đài
    Bình an phẳng lặng không loài động sanh
    Trong thứ không danh mây nước
    Vật chất sinh ngũ ước vô chừng
    Hào quang bao phủ mây vàng
    Vật không biến hoá, thú ngừng không sanh

    Đức Hộ Pháp :
    Thưa có phải là hình nước trong Sấm truyền Đạo Thánh đã nói đó không ?

    Đức Nguyệt Tâm :
    Phải, thứ khí kêu tên thuỷ khí
    Đông đặc nhiều xem kỹ đứng đầu
    Rằng trời, mặt nước ngự chầu
    Thì nên phải hiểu cao sâu thế này
    Chơn thần người dẫy đầy áng sáng
    Lấy dương quang ấp đảng vô năng
    Sinh làn hoả khí bao giăng
    Âm dương tương khắc nổ làn thiên thanh
    Thái cực nổ với hình nguyên thuỷ
    Hai quyền năng dục khí hoá cơ
    Vật tiêu hoá khí, khí nhơ
    Tiêu thành nguyên khí đến giờ sanh quang
    Khí sanh quang ấy toàn linh cảm
    Định linh hồn sống chết nơi tay
    Dị thường sanh hoá rất hay
    Sau nầy tôi cũng thấy hoài huyền linh
    Vật chi do tài tình sư phụ
    Ta không phương hiểu thấu cho cùng
    Lửa Thái cực lớn vô cùng
    Dẫy cùng thế giới muôn trùng hoả tinh
    Phân phát hoá nên hình phải tuyệt,
    Cùng Càn Khôn rải riết không ngằn
    Hoả tinh lớn hoá nhựt quang.
    Nhựt tinh nguội lạnh cả tràng thế gian
    Nơi nào ánh dương quang chiếu diệu
    Vạn vật gồm đại tiểu đều thông
    Chí linh tánh đức bao trùm
    Hữu sanh ai cũng dự cùng nhứt linh
    Các ngươn khí ánh linh chiếu thấu
    Khí trược ngưng, thứ xấu trạch hình
    Thổ mộc, thú,nhơn, vạn linh
    Bán thanh sanh khí, thanh thành hạo nhiên
    Khối linh cảm ban truyền vạn loại
    Tuỳ theo hàng phẩm lại vừa chừng
    Hồn linh sang hưởng hồng ân
    Còn bên thể phách về phần sanh quang
    Ngài đã rõ hành tàng sót lại
    Tới đây tôi đành phải ngưng văn

    Đức Hộ Pháp :
    Sự hung ác và sự vô ích của loài người, loài vật và thảo mộc, các đức tánh của vật loại khó lấy trí khôn người là mức khen cho đặng.

    Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
    Không vô ích dữ hiền mặt thế
    Sống phải toan tìm kế nuôi thân
    Chí Tôn con cái đều cân,
    Lòng thương kia phải dành phần lợi sanh
    Cho tấn hoá Người hành đau thảm
    Người phải cho mô phạm bảo thân
    Dưới đời mấy mặt hiền nhân
    Với ta gọi dữ họ cần ích riêng
    Sao đăng tiếng Thánh Hiền các Đấng
    Sử nhơn gian bằng chứng chép ghi
    Đấu tranh mạnh yếu thường khi
    Xem ra thấy mạnh cũng thì phần hơn
    Lẽ mạnh yếu thiệt hơn chiến đấu
    Năng trí mưu cơ xảo nên hay
    Cảnh phàm tương đối là đây
    Dữ vô dụng ấy là lời bia danh
    Nơi hoàn vũ cá sanh có chỗ
    Các trời kia lớp ngõ học đường
    Càn khôn thế giới là trường
    Chư hồn đến học cho thường mới hay
    Kẻ nào những bỏ bài trốn mãi
    Không đặng lên học lại bài xưa
    Các hồn ai cũng mến ưa
    Sách thiêng liêng đọc mấy tờ vĩnh sanh
    Ai cũng ước công thành danh toại
    Phải nhiều thời, nhiều phép, nhiều kinh
    Vật hèn tối phẩm, tối linh
    Con đường đi biết mấy nghìn thời gian
    Chung cuộc hiểu hành tàng ta đã
    Sau mới tường căn quả Chí Linh
    Biệt phân đẳng cấp tánh tình
    Là phương dành để cho mình sánh cân
    Trong học thức Ngài cần quãng đại
    Phân tánh người nơi cái tài ba
    Đem người phàm tách cho ra
    Ngoài vòng Thánh chất chánh tà phân minh,
    Lấy gương tốt để dành Hội Thánh ,
    Năng dạy khuyên các cánh bất trung.
    Đừng nên ghét kẻ gian hùng,
    Coi phần hồn trọng độ giùm là hay
    Cứ thương mãi giúp cho nhân loại
    Chơn lý kia cạn giải đôi lời
    Từ bi, bác ái, và Trời.

    Đức Hộ Pháp :
    Hễ làm cha thì làm cha, còn làm thầy thì làm thầy cớ sao Đại Từ Phụ lại xưng Thầy rất ư khó hiểu ?

    Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn :
    Người cũng vốn cha Thầy luôn Một
    Cả chơn linh hài cốt nơi Người .
    Nuôi mình dùng vật xanh tươi
    Tạo hồn lấy phép tột rồi Chí Linh
    Nơi người vốn quang minh cách trí
    Tấn hoá hồn phép quí không ngưng.
    Vật hèn trước mặt thành trần,
    Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên
    Luật thương yêu quyền là công chánh
    Gần thiện căn xa lánh phàm tâm
    Làm cha nuôi sống âm thầm,
    Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên.

Top of Page


3. Thơ của Victor Hugo

      STELLA

      Je m’étais endormi la nuit près de la grève
      Un vent fraism’eveilla, je sortis de mon rêve,
      J’ouvris les yeux, je vis l’étoile du matin
      Elle resplendissait au fond du ciel loitain
      Dans une blancheur molle, infinie et charmante
      A quilon s’enfuyait emportant la tourmente
      L’astre éclatant changeait la nuée en duvet
      C’était une clarté qui pensait, qui vivait;
      Elle apaisait l’écueil où la vague déferle;
      On croyait voir une âme à travers une perle
      Il faisait nuit encor, l’ombre régnait en vain,

      Le ciel s’illuminait d’un sourire divin
      La lueur argentait le haut du mât qui penche;
      Le navire était noir, mais la voile était blanche;
      Des goelands debout sur un escarpement ,
      Attentifs, contemplaient l’étoile gravement
      Comme un oiseau céleste et fait d’une étincelle.
      L’océan qui ressemnle au peuple allait vers elle,
      Et, rugissant tout bas, la regardait briller.
      Et semblait avoir peur de la faire envoler.
      Un ineffable amour emplissait l’étendue.
      L’herbe verte à mes pieds frissonnait éperdue,
      Les oiseaux se parlaient dans les nids; une fleur
      Qui s’éveillait me dit : c’est l’étoile ma soeur.
      Et pendant qu’à longs plis l’ombre levait son voile
      J’entendis une voix qui venait de I’étoile
      Et qui disait : - Je suis l’astre qui vient d’abord
      Je suis celle qu’on croit dans la tombe et qui sort
      J’ai lui sur le Sina, j ai lui sur le Taygète
      Je suis le caillou d’ or et de feu que Dieu jette
      Comme avec une fronde, au front noir de la nuit
      Je suis ce qui renait quand un monde est détruit
      O nations ! je suis la Poésie ardente
      J’ai brillé sur Moise et j’ ai brillé sur Dante
      Le lion océan est amoureux de moi
      J’arrive , Levez-vous, vertu, courage, foi !
      Penseurs, esprits, montez sur la tour, sentinelles
      Paupìeres, ouvreg-vous, allumeg-vou, prunelles
      Terre, émeus le sillon, vie, éveille le bruit ,
      Debout, vous qui dormez !-car celui qui me suit ,
      Car celui qui m’envoie en avant la première,
      C’est l’ange Liberté, c’est le géant Lumière.
      Jersey, 31 aout 1853


      VÌ SAO SÁNG

      Đêm qua ta ngủ bên ghềnh
      Một cơn gió thoảng làm tan giấc nồng
      Ngẩng nhìn trong khoảng mênh mông,
      Sao Mai lấp lánh hiện trong sương mơ,
      Gió bấc thổi cơ hồ bão tố.
      Aùnh sao ngời rạng rỡ mây tuông,
      Aùnh sao linh động vô cùng.
      Đánh tan hiểm hoạ chận ngừng phong ba
      Ngọc trong suốt hồn hoa một điểm
      Trời còn đêm mà tối dường tan
      Nụ cười nở nét cao sang
      Bạc như dội ánh ngọn buồm nghiêng nghiêng
      Thuyền đen thẫm buồm lên trắng xoá,
      Đàn chim khuya lặng ngắm bên triền.
      Ngắm nhìn trong khoảng vô biên,
      Sao như thần điểu trong đêm sáng ngời.
      Trùng dương từ khắp nơi viễn xứ.
      Đều tiến về coi tỏ bóng sao.
      Nhẹ gầm sợ tiếng sóng trào,
      Sao kia vụt biến khôn nào lại trông.
      Đức bác ái khắp trong muôn vật
      Từ cỏ xanh chuyển gót chân ta.
      Tổ êm chim cũng thiết tha.
      Thầm thì to nhỏ chan hoà niềm vui
      Đoá hoa tỉnh giấc mai kể le,å
      Và tâm tình “sao ấy chị ta”.
      Khi đêm cuốn bức rèm hoa
      Tai nghe vọng tự phương xa đưa về
      Sao nhắn nhủ : Ta muôn thu trước
      Mà loài người tưởng thác đã lâu
      Hiện về từ đáy mồ sâu,
      Đã từng soi sáng thuở nào Si-na.
      Về Thánh địa giữa đêm tăm tối,
      Lúc suy vi ta lại hiện ra.
      Lửa thần, vàng rắc chói loà,
      Ta : thơ hùng tráng, hỡi này Thế nhân !
      Từng soi bóng Môi (Moise) Đăng (Dante) muôn thuở
      Biển oai hùng cũng phải nể vì
      Ta đã tới ! Hãy đứng lên !
      Hãy đem dũng cảm , lòng tin đặt vào
      Hỡi bao những bậc vĩ nhân
      Thapo Đời hãy thử nghiêng mình mà coi
      Mở bừng sáng chiếu ngời nhãn lực
      Lòng đất rung chuyển mạnh nhịp đời
      Đứng lên ! tỉnh dậy đi thôi
      Ta đây sứ giả vâng lời hiện ra
      Báo tin trước gần xa Chúa ngự
      Đức Chí Tôn, nguồn sáng bao la
      Là nguồn hạnh phúc tự do

      ĐĐNS


      UNITÉ

      Par-dessus l’horizon aux collines brunies,
      Le soleil, cette fleur des splendeurs infinies ,
      Se penchait sur la terre à l’heure du couchant;
      Une humble marguerite, éclose au bord d’un cham,
      Sur un mur gris, croulant parmi l’avoine folle
      Blanche, épanouissait sa candide auréole;
      Et la petite fleur , par-dessus le vieux mur,
      Regardait fixement dans l’éternel azur
      Le grand astre épanchant sa lumière immortelle
      Et moi, j’ai des rayous aussi ! lui disait-elle.

      Granville, juillet 1830


      Dịch bài UNITÉ

      CHỈ MỘT

      Chân trời xa lộng bóng triền đồi
      Bất tận chói chang hoa mặt trời
      Nghiêng chiếu trần gian giờ cúi lặn
      Ven đồng cúc dại nở gương soi

      Tường lam đỗ giữa lúa hoang điên
      Nở trắng trinh nguyên ánh hiển vinh
      Hoa nhỏ vươn cao trên vách cũ
      Ngắm nhìn bầu vĩnh cửu thiên thanh
      Mặt trời luôn toả hào quang xuống
      “Hoa nhủ trong tôi có ánh linh”

      Vân Đằng dịch

Ý thơ : Trời và hoa “Vạn vật đồng nhất thể”, thể và dụng : “nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”. Thế nên bất cứ đâu cũng có đạo, bất cứ giờ nào cũng có thơ, chỉ cần cái tâm hoà vào vũ trụ.


Top of Page

      HOME