Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn gồm có 2 phần : Phần hữu hình và Phần vô hình.
* PHẦN HỮU HÌNH, tức là phần nhìn thấy được bằng mắt phàm gồm :
- Tam thiên Thế giới, tức là 3000 quả tinh cầu nhìn thấy như những ngôi sao trên bầu Trời, được vẽ tượng trưng bằng 3000 ngôi sao trên Quả Càn Khôn.
- Thất thập nhị Địa, tức là 72 quả Địa cầu, cũng được nhìn thấy như những vì sao trên bầu Trời, nên cũng được vẽ tượng trưng bằng 72 ngôi sao trên Quả Càn Khôn.
Tổng cộng tất cả là 3072 ngôi sao, phải vẽ cho đủ số trên Quả Càn Khôn.
Trong số 3072 ngôi sao nầy có chòm sao Bắc Đẩu với Đại Hùng Tinh (Chòm sao Gấu lớn) và Tiểu Hùng Tinh (Chòm sao Gấu nhỏ), mỗi chòm có 7 ngôi sao (Thất Tinh), có hình giống như cái bánh lái thuyền, nên cũng gọi là Chòm sao Bánh lái. Đức Chí Tôn bảo vẽ Con Mắt Thầy ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu, tức nhiên Đức Chí Tôn ngự tại sao Bắc Đẩu, nên sao Bắc Đẩu chính là Trung tâm của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn. Các vì sao khác đều chuyển động chung quanh ngôi sao Bắc Đẩu nầy, giống như Địa cầu của chúng ta, tuy chuyển động chung quanh Mặt Trời, nhưng trục tự quay của Địa cầu luôn luôn hướng về ngôi sao Bắc Đẩu.
Như vậy, Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm 3072 ngôi sao chỉ là một phần tử nhỏ trong một khoảng không gian bao la vô cùng tận có đến hàng tỷ ngôi sao mà các nhà Thiên văn học hiện nay đã khám phá và nhìn thấy được trên bầu Trời. Do đó, chúng ta có thể suy đoán rằng, bên ngoài Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn, còn có rất nhiều Càn khôn Vũ trụ khác của các Đấng Thượng Đế khác.
* PHẦN VÔ HÌNH : Ngoài phần Vũ trụ Hữu hình mà mắt phàm nhìn thấy được, CKVT của Đức Chí Tôn còn có phần Vô hình mà mắt phàm không thấy được, chỉ có Huệ nhãn thì mới có thể thấy được.
Theo bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn vừa nêu trên, và những bài Thánh giáo khác của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được Phần Càn khôn Vũ trụ Vô hình gồm có :
- Tam thập lục Thiên : 36 từng Trời.
- Thập nhị Thiên : 12 từng Trời nối tiếp ở bên dưới Tam thập lục Thiên, chia ra :
+ Phần trên 3 từng là : Hỗn Nguơn Thiên,
Hội Nguơn Thiên,
Hư Vô Thiên.
+ Phần kế dướilà 9 từng gọi là Cửu Trùng Thiên
- Tứ Đại Bộ Châu : 4 Bộ Châu lớn.
Còn ngọn đèn đặt tại Tâm của Quả Càn Khôn tượng trưng ngôi Thái Cực của Đức Chí Tôn.
Quả Càn Khôn nầy đáng lẽ phải được làm bằng thủy tinh trong suốt, nhưng vì thời gian làm chỉ non 2 tháng nên không thể đúc bằng thủy tinh được, vì nó quá lớn, đường kính tới 3 thước 3 tấc. Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh phải làm Quả Càn Khôn bằng nan tre, bọc vải và sơn màu xanh da Trời, trên đó vẽ các ngôi sao đúng số như Đức Chí Tôn đã dạy, làm gấp rút cho kịp ngày 15-10-Bính Dần để tổ chức Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Gò Kén Tây Ninh.
Chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới được làm Quả Càn Khôn để thờ nơi Bát Quái Đài, còn tại các Thánh Thất địa phương thì không được phép làm Quả Càn Khôn, chỉ được đắp Thiên Nhãn lớn để thờ mà thôi.
Tóm lại, Quả Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Đài Tòa Thánh là hình ảnh của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, nó có hình như một quả cầu tròn, trong đó có 3072 ngôi sao, mà tâm điểm là Thái Cực.
Quả Địa Cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Địa cầu số 68 trong nhómThất thập nhị Địa (72 Địa cầu), nên cũng được tượng trưng bằng một ngôi sao trên Quả Càn Khôn nầy.
" Tại sao Thầy lại biểu các con tạo hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các tôn giáo khác ?
Thầy vốn là Hư Vô chi Khí, không giống cái chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ.
Trời là Lý, thì Lý ấy rất thông linh bao quát Càn khôn Thế giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy."
Thờ Thiên Nhãn bao gồm nhiều ý nghĩa siêu việt, xin nêu ra sau đây :
a) Ý nghĩa về hình thể :
1. Tiên Nho thường nói : Hoàng Thiên hữu Nhãn, hay trong dân gian cũng thường nói : Trời cao có mắt, để chỉ rằng Ông Trời, tức là Đấng Thượng Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của khắp chúng sanh, dầu bộc lộ ra ngoài hay giấu giếm kín đáo bên trong, Mắt Trời đều thấy rõ hết thảy, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình.
Do đó, trong Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế có câu :
Nghĩa là :
Thờ Thiên Nhãn với con mắt mở, để chúng ta luôn luôn nhớ rằng, bất cứ ta làm việc gì, Trời đều thấy rõ, không thể giấu giếm, cũng không thể sau nầy chối cãi được.
2. Vẽ MỘT con Mắt để thờ, mà không vẽ 2 con Mắt (một cặp) là bởi vì 1 là số khởi thủy của Càn khôn Vũ trụ và vạn vật (theo Dịch học) : 1 sanh 2, 2 sanh 3, 3 sanh vạn vật.
Tức là Nhứt bổn tán Vạn thù, Vạn thù qui Nhứt bổn.
Cho nên, số 1 là gốc, lại là số Dương, mà Đức Chí Tôn làm Chủ Dương quang, thì rất hợp lẽ. Số 1 cũng chỉ ngôi Thái Cực, là ngôi độc nhứt trong Càn Khôn Vũ trụ.
3. Vẽ Con Mắt bên TRÁI để thờ, chớ không phải vẽ Con Mắt bên Mặt, bởi vì bên Trái thuộc về Dương, bên Mặt thuộc về Âm, nên khi vào Thánh Thất quì cúng Đức Chí Tôn, phái Nam quì bên Trái của Đức Chí Tôn; phái Nữ quì bên Mặt của Đức Chí Tôn (Nam tả Nữ hữu).
Do đó, Con Mắt Trái tượng trưng Đức Chí Tôn và Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương quang.
4. Thờ Thiên Nhãn có ý nghĩa Đại đồng. Bất cứ sắc dân nào, dân tộc nào cũng biết vẽ Con Mắt để thờ, và vẽ hình Con Mắt không có tánh cách phân biệt chủng tộc, nên có tính chất chung hết, tức là Đại đồng.
Như chúng ta thấy, Phật giáo vẽ hình Đức Phật Thích Ca với hình dáng là người Ấn Độ; Thiên Chúa giáo vẽ hình Đức Chúa Jésus với hình dáng là một người Do Thái; do đó có tánh cách phân biệt về dân tộc, về quốc gia, là thờ người ngoại quốc, . . . . Vẽ hình Con Mắt mà thờ thì tránh được các sự phân biệt vừa nêu trên.
Vả lại, Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ của toàn nhơn loại, chớ đâu phải của riêng một sắc dân nào. Khi thờ Con Mắt là Đức Chí Tôn muốn cho nhơn loại không còn phân biệt nhau về quốc gia hay dân tộc, nhìn nhau đều là anh em một nhà, con chung của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc lãnh sứ mạng của Thượng Đế để thực hiện sự Đại đồng trên toàn thế giới.
b) Ý nghĩa theo Thiên Chúa Giáo :
Thiên Chúa giáo có một quyển sách tựa là : "Catéchisme Album " (Giáo lý Cương yếu) do nhà xuất bản Saint Joseph ở Paris phát hành, nơi trang đầu tiên có in hình Thiên Nhãn (L'Oeil de Dieu) và chú thích như vầy :
" Dieu est esprit, il ne peut être vu de nos yeux, ni, par conséquent, représenté sur une image.
C'est OEIL, vous rappelle que Dieu est le souveraine intelligence, qu'il sait tout et voit tout.
On l'encadre le Soleil, car Dieu est le Vrai Soleil qui éclaire et réchauffe tout et porte la vie partout. Dieu est la Lumière Éternelle."
Tạm dịch :
Thượng Đế là Đấng thiêng liêng, đôi mắt trần của chúng ta không thể thấy được Ngài, vì thế, không thể mô tả Ngài bằng một hình ảnh.
Thiên Nhãn nầy nhắc cho chúng ta nhớ rằng : Thượng Đế là Đấng Toàn Tri, Ngài biết tất cả và thấy tất cả.
Người ta vẽ chung quanh Thiên Nhãn những tia sáng của Mặt Trời, bởi vì Thượng Đế là ngôi Dương chơn thật, soi sáng và sưởi ấm vạn vật và mang đến sự sống khắp nơi. Thượng Đế là Ánh sáng vĩnh cửu.
c) Ý nghĩa thiêng liêng :
Về ý nghĩa thiêng liêng của Thiên Nhãn, Đức Chí Tôn có dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển như sau :
TNHT. I. 12 : " Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng CON MẮT mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh :
Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đại bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Các con nhớ nói vì cớ nào thờ CON MẮT Thầy cho chư Đạo hữu nghe. . . . . . .
Phẩm vị Thần Thánh Tiên Phật từ ngày Đạo bị bế, thì Luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN, không cho hiệp cùng TINH, KHÍ. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo.
Con hiểu "Thần cư tại nhãn". Bố trí cho chư Đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên, Phật do yếu nhiệm là tại đó."
a) Giải nghĩa từng chữ :
Câu 1 : Nhãn thị chủ tâm.
Nhãn : Con mắt. Thị : Ấy là. Chủ : Làm chủ.
Tâm : Cái Tâm. - Cái Tâm của con người là Linh hồn, cũng gọi là Tiểu hồn, Tiểu Linh quang, và con người là Tiểu Thiên Địa hay Tiểu Thượng Đế. - Cái Tâm của Trời là Đại hồn, là Đại Linh quang, và Trời là Đại Thiên Địa, thường gọi là Thượng Đế.
Câu 2 : Lưỡng quang chủ tể. Lưỡng : Hai. Quang : Ánh sáng. - Đối với Trời, Lưỡng quang là Âm quang và Dương quang, đó cũng gọi là Lưỡng Nghi. - Đối với con người, Lưỡng quang là 2 Khí : Khí Âm và Khí Dương trong cơ thể con người. Chủ : Làm chủ. Tể : Đứng đầu. Chủ tể, cũng đọc là Chúa tể là đứng đầu cai trị tất cả.
Câu 3 : Quang thị Thần. Quang : Ánh sáng. Thị : Ấy là. Thần : Chơn linh, một trong Tam bửu (Tinh, Khí, Thần). - Đối với Thượng Đế, Thần là Đại hồn. - Đối với con người, Thần là Tiểu hồn.
Câu 4 : Thần thị Thiên. Thần : Chơn linh. Thị : Ấy là. Thiên : Trời. - Đối với Trời, Thiên là Thượng Đế, Đại Vũ trụ. - Đối với con người, Thiên là Tiểu Thượng Đế, Tiểu Vũ trụ.
Câu 5 : Thiên giả Ngã giã.
Thiên : (đã giải nơi câu 4). Giả : Ấy là. Ngã : Ta. Giã : Vậy. Thường viết là Dã, dùng đặt ở cuối câu, nghĩa là : Vậy.
Câu "Thiên giã Ngã dã" giống như câu " Nhân giả Nhơn dã" ( ), nghĩa là: Lòng Nhân ấy là đạo làm Người vậy.
Năm câu chữ Nho mà Đức Chí Tôn dạy về THIÊN NHÃN, có thể được giải thích theo 2 trường hợp :
- Giải thích theo Đại Thiên Địa (Đại Vũ trụ, Đại Linh quang, Đại hồn, Thượng Đế). [Trời]
- Giải thích theo Tiểu Thiên Địa (Tiểu Vũ trụ, Tiểu Linh quang, Tiểu hồn, Tiểu Thượng Đế). [Người]
a) Giải thích theo Đại Thiên Địa (Trời) :
Câu 1 : Nhãn thị chủ Tâm : Nhãn ở đây là Thiên Nhãn tượng trưng Thượng Đế. Tâm ở đây là Tâm của Thượng Đế, tức là Đại Linh quang, Đại hồn.
Nhãn thị chủ Tâm : Thượng Đế là chủ của Đại Linh quang.
Câu 2 : Lưỡng quang chủ tể : Lưỡng quang là Âm quang và Dương quang. Chủ tể là Chúa tể, cai trị tất cả.
Lưỡng quang chủ tể : Dương quang và Âm quang làm chúa tể, cai trị tất cả. Bởi vì Dương quang và Âm quang ấy chính là của Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, phối hợp để sanh hóa Càn khôn Vũ trụ và vạn vật.
Câu 3 : Quang thị Thần : Quang nầy là Đại Linh quang, Thần nầy là Đại hồn.
Quang thị Thần : Đại Linh quang ấy là Đại hồn của Thượng Đế.
Câu 4 : Thần thị Thiên : Đại hồn ấy là Trời,Thượng Đế
Câu 5 : Thiên giả Ngã giã : Thượng Đế ấy là TA vậy. (TA là tiếng tự xưng của Đức Chí Tôn).
Do đó, thờ Thiên Nhãn chính là thờ Trời, thờ Đấng Thượng Đế, thờ Đấng Đại Từ Phụ đã sanh hóa CKVT và toàn cả chúng sanh.
b) Giải thích theo Tiểu Thiên Địa (Người) :
Con người do Thượng Đế tạo ra, hễ Trời có gì thì con người có nấy, cho nên mới gọi con người là Tiểu Thiên Địa, Tiểu Thượng Đế, Tiểu hồn, Tiểu Linh quang.
Câu 1 : Nhãn thị chủ Tâm : Nhãn ở đây là Nhơn nhãn, con mắt của Người, tượng trưng con người. Tâm ở đây là lương tâm của con người, tức là Tiểu hồn, Tiểu Linh quang.
Nhãn thị chủ Tâm : Con người làm chủ cái Tâm của mình, tức là làm chủ Tiểu Linh quang (Chơn linh) của mình.
Câu 2 : Lưỡng quang chủ tể :
Lưỡng quang ở đây là 2 Khí Dương và Âm trong cơ thể con người. Nếu 2 Khí nầy điều hòa thì thân thể con người khỏe mạnh; nếu 2 khí không điều hòa, hoặc là Dương thạnh Âm suy hay Âm thạnh Dương suy thì con người bị đau ốm, bịnh hoạn; nếu khí Dương tuyệt thì cơ thể phải chết.
Lưỡng quang chủ tể : 2 Khí Âm Dương trong con người là chúa tể, vì nó định được sự sống chết, sự khỏe mạnh hay đau yếu của thân thể con người.
Câu 3 : Quang thị Thần : Quang ở đây là Tiểu Linh quang, Thần là Linh hồn của con người, tức là Tiểu hồn.
Quang thị Thần : Tiểu Linh quang ấy là Tiểu hồn của con người.
Câu 4 : Thần thị Thiên : Thần là Tiểu hồn, Thiên ở đây là Tiểu Thiên Địa, Tiểu Thượng Đế.
Thần thị Thiên : Tiểu hồn ấy là Tiểu Thượng Đế.
Câu 5 : Thiên giả Ngã giã : Thiên là Tiểu Thượng Đế, Ngã là ta, là con người.
Thiên giả Ngã giã : Tiểu Thượng Đế ấy là ta vậy.
Như vậy, chữ THẦN có 2 nghĩa : Linh hồn hay Chơn thần tùy theo trường hợp.
Cho nên, thờ Thiên Nhãn cũng còn là thờ Chơn thần : "Thần cư tại Nhãn". Nên Đức Chí Tôn dạy rằng : Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp cùng TINH, KHÍ, đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ siêu phàm nhập Thánh. Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc đạo."
Mục Lục
Lịch Sử Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh
Tam Thánh Ký Hòa Ước
Quả Càn Khôn & Thiên Nhãn
Các Đấng Giáo Chủ
Tam Trấn Oai Nghiêm
Giải Thích Các Chi Tiết & Điển Tích