của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Tập II |
Rất đổi là Thầy còn phải dùng tiếng nói dễ-dàng, rẻ-rúng mà làm thi dạy Đạo… Từ đây theo ý muốn của Thầy, dầu gặp phải vấn-đề khó-khăn cũng gắn chí luận-bàn cho giản-dị.
Trích phương-tu Đại-Đạo.
Hộ-Pháp thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quý hay chăng là ở chỗ đó…
Bần-Đạo mỗi phen lên giảng… thì đều cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cho sáng-suốt, mà biết vẫn còn thiếu kém, không thể gì tả bằêng con mắt thần của mình đã ngó thấy đặng một bài. Bần-Đạo thú thật rằng mười phần có lẽ Bần-Đạo tả được năm bảy phần là nhiều, sợ còn kém hơn thế nưã…
Nếu thảng như Đức Chí-Tôn ban ân riêng trong nền chánh-giáo của Ngài, có cả Thánh-thể của Ngài đoạt pháp đặng , thấy đặng, có lẽ cũng chỉnh thêm dùm giúp tay với Bần-Đạo mới toàn-thiện toàn-mỹ đặng.
Trích Con-đường Thiêng-Liêng Hằøng-Sốâng
Đây là những Lời Giáo-huấn của Đức Hộ-Pháp đã dạy Con-Cái Đức Chí-Tôn trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ, được trích ra trong những Trước-tác, Lời Thuyết Đạo và Bút-phê các Phúc-sự ø... trong suốt thời-gian hành-đạo của Đức Ngài.
Đây là một tài-liệu tổng-hợp bao gồm cả các lãnh-vực Triết-học và Đạo-lý, huyền-linh lẫn khoa-học. Tất cả các chi-tiết về Vũ-trụ và Nhân-sinh và các lãnh-vực Thiên-Đạo và Thế-Đạo, cho đến những chi-tiết điều-hành cơ-cấu guồng-máy hành-chánh Đạo để phổ-tế chúng-sanh... đều được Đức Hộ-Pháp chỉ-vẻ giảng-giải rõ-ràng khúc-chiếc, hướng-dẫn từ đường đi nước bước … với những ẩn-dụ, những tiên-tri vô cùng chính-xác cho hôm nay và cho mãi tận đến nghìn sau… lại được Đức Ngài chỉ-giáo bằng những ngôn-từ quen thuộc đơn-sơ thường dùng trong cửa Đạo, không cao-xa cầu-kỳ khó hiểu.
Chúng tôi nhận thấy đây là ánh đuốc soi đường cho người tầm Đao, là một tài-liệu tham-khảo vô-cùng quý-giá cho những nhà soạn Giáo-lý và khai-triển Tạng Luận để hoằêng-dương chánh-pháp, phổ-truyền chơn-đạo trên khắp thế-gian cho hiện-tại và tương-lai...
Đây cũng là khuôn vàng thước ngọc cho kẻ tu-hành, nên chúng tôi đã sưu-tập trích-lục, thành nhiều tập, lấy tên là “Lời giáo-huấn của Đức Hộ-Pháp” với nội-dung gồm những câu giản-dị, mỗi câu một ý, súc-tích ngắn-gọn, gần như dưới dạng những câu danh-ngôn... chúng tôi chọn những chủ-đề dễ hiểu dễ thực-hành, để trích-dẫn cống-hiến cho tín-hửu, nhất là ở bậc phổ-thông như con em chúng ta, để làm tài-liệu tu-học.
Mỗi câu trích-dẫn đều có ghi xuất-xứ, vậy vị nào muốn tìm hiểu thêm các chi-tiếc tỷ-mỉ, hoặc các ẩn-ý cao-siêu khác, thì căn-cứ theo đó mà sưu-tầm trong các tài-liệâu gốc, để sự hiểu biết được phong-phú hơn.
Hơn nữa có một số đồâng-đạo cho rằng ngày nay Đức Hộ-Pháp đã về Thiêng-Liêng vị, nhiều người đã lạm-dụng, nên nhiều lời nói không phải của Đức Ngài nói ra, nhưng họ cũng gán cho là lời nói của Đức Hộ-Pháp. Để tránh sự nghi-ngờ này, chúng tôi xin đề-nghị với các tác-giả, mỗi khi dẫn-chứng Lời của Đức Hộ-Pháp, thì phải kèm theo lời chú-thích : Lời Đức Hộ-Pháp nói khi nào, có thể ghi rõ thêm ngày giờ năm tháng, nói tại đâu, nói với ai... nếu trích trong tác-phẩm, thì ghi rõ tác-phẩm nào, do nhà xuất-bản nào, năm nào... như vậy để đồng-đạo khỏi nghi-ngờ mức-độ chính-xác của lời nói Đức Hộ-Pháp đã trích-dẫn, hầu đủ đức-tin để thực-hiện những lời giáo-huấn của Đức Ngài được đến nơi đến chốn.
Ban Biên-tập không giữ bản-quyền, xin hoan-nghênh mọi sự chú-thích phổ-biến lại, dưới bất kỳ hình-thức nào, để sự truyền-bá đạo-lý được sâu rộng đến tận cơ-sở Đạo, hầu giáo-hóa chúng-sanh biết ăn ở hiền-lương đạo-hạnh, để có được một gia-đình hạnh-phúc, góp phần xây-dựng một xã-hội an-lạc, một thế-giới đại-đồng.
Đây chỉ mới là những tập phát-hành đầu tiên, chắùc-chắn là việc làm nầy còn rất nhiều thiếu sót. Kính xin quý Bậc cao-minh và đồng-đạo vui lòng góp ý bổ-túc để các lần tái-bản kế tiếp được súc-tích hơn.
Dã Trung Tử
Cẩn bút
CÁC TÔN-GIÁO LUÔN TÌM HIỂU CÁI Ý-VỊ CỦA SỰ SỐNG
Bây giờ Bần-Đạo xin thuyết :
"Ý-vị và ý-nghĩa lý sống của con người".
Vả chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý-vị gì ? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế-gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý-vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng-Cổ đến giờ tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên mới có các hình-tướng tượng-trưng các nền Đạo, các Tôn-Giáo.
Chúng ta quan-sát cả triết-lý của cái sống phải có lý-do nào ? Sống đương- nhiên của chúng ta có hai cái sống.
1.- Sống về vật-chất, mà nói rõ ra sống về phương-pháp thú-chất.
2.- Sống về tinh-thần, tức nhiên sống về phương-pháp hiển-hách, anh-linh của nó, chúng ta thấy có hai cái quyền-năng ấy, nó tương-tranh với nhau mãi mà thôi.
Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy-tâm và duy-vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch-sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải "Connais-toi, toi-mème" Nghĩa là : "Ngươi biết ngươi hơn hết". Mình muốn biết mình đặng chi ? đặng tìm-hiểu cho thấu-đáo cái nghĩa lý sống cuả mình.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Tại Đền-Thánh Đêm 30 tháng 10 năm Kỷ-Sửu (1949) Về “Ý nghĩa sự sống của con người”.
Chúng ta ngó thấy Thượng-Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Âu-Châu thì có Socrate cũng trong thời-đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy Đấng Chí-Linh trong Càn-Khôn Vũ-trụ, cái thuyết ấy làm cho các phản-động-lực coi Ngài như kẻ thù-nghịch, đến nước cái quyền-năng buổi nọ họ mạnh-mẽ, đã xử tử-hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử …
Ngài nói : "Tôi biết rằng : Ngoài cơ thể Tạo-Đoan của đời nầy nó còn có cơ-quan vô-hình tối-trọng kia, tôi đã quả-quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội-hiệp với các vị hiền-triết được làm bạn với họ thì có gì hơn" Nói rồi : Ngài bưng chén thuốc độc Ngài uống.
Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Tại Đền-Thánh Đêm 30 tháng 10 năm Kỷ-Sửu (1949) Về “Ý nghĩa sự sống của con người”.
Đức Lão-Tử khi đạt được bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi, Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn-Lôn-Sơn mà an nghỉ, môn-đệ của Ngài hỏi : Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì ? có hạnh-phúc hay không ? Ngài trả lời : "Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái thú vị sống đặc-biệt riêng, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào ? nhưng ta chỉ nói rằng : cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú-vị an-ủi của cái sống ấy".
Đức Khổng-Phu-Tử từ giả quan-trường về giáo Đạo cho các môn-đệ của Ngài, thiên-hạ gọi là vô-phước, mà cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu-lưu trong lục-quốc.
Bây giờ Ngài về sống với thất-thập nhị hiền, tam thiên đồ-đệ của Ngài, là Ngài hạnh-phúc hơn hết, vì Ngài biết thú-vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi.
Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần-Thủy-Hoàng, sống như Sở-Bá-Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh-thần dân-chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh-sát tàn-ác không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn- ác lắm.
Nả-Phá-Luân đã được cơ-hội làm nên nghiệp Đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Aâu-Châu, các nước Chư-hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint-Hélène.
Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis XIV thiên-hạ hồi thế-kỷ đó cho Ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên-hạ đều tùng phục kính trọng kiêng-nể, Âu-Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá-Chủ của thiên-hạ, không có cái gì mà anh ta không có, "Phú Hữu Tứ Hải" sang-trọng vô-biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng-Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng-Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi". Ngài than rằng : Hại thay ! Hoàng-Thành của ta mấy vòng canh nghiêm-nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.
Chức-vị sang-trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ, mà sanh-chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc-biệt ấy là cái sống duy-vật và duy-tâm. Bần-Đạo tả ra cho can-cái Đức Chí-Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm.
Tại Đền-Thánh Đêm 30 tháng 10 năm Kỷ-Sửu (1949) Về “Ý nghĩa sự sống của con người”.
Hội-Thánh, mấy em nam, nữ lưỡng phái còn trong hàng Tín-Đồ nghe Qua nói rõ: Thánh-thể Đức Chí-Tôn không phải Chức-Sắc Thiên-Phong mà thôi, các phần trong nền Chánh-Giáo của Ngài, các phần tử trong thánh-thể của Đức Chí-Tôn, Qua nói rõ chẳng phải Chức-Sắc Thiên-Phong mà trọng yếu, chính mình bản-đồ của Đức Chí-Tôn đã vẽ rõ : Trên Đại-Từ-Phụ dưới là mấy em đó nghe ! chớ chẳng phải thánh-thể Đức Chí-Tôn là Chức-Sắc Thiên-Phong mà thôi, mấy em phải biết trong thân thể của mấy em thế nào chẳng phải đầu óc mặt mũi tay chân là cơ-quan trọng hệ gọi là trọng yếu, dầu cho một sợi tóc móng tay cũng trọng yếu vậy.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Rằm tháng giêng năm Canh-Dần (1950) Về: “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”.
Bây giờ Qua thuyết đêm nay cho mấy em Tín-Đồ nam, nữ với mấy đứa nhỏ hậu-tấn nghe đó vậy, phải để ý hơn hết nghe ! Phàm chúng ta đã sanh trưởng làm người đứng giữa xã-hội nhơn-quần chúng ta đương-nhiên phải tìm phương lập-vị mình, ai ai cũng như ai, nhưng sở-dụng của mỗi người đều muốn làm thế nào cho giá-trị mình trên thiên-hạ lẽ hẳn nó vẫn vậy, khi lập thân-danh của mình rồi dầu muốn dầu không trí-não mình vẫn so-sánh cân-lường định giá-trị của nó coi vào hạng nhơn-sanh nào, mình đứng vào hàng phẩm nào, và thân-danh của mình giá-trị bực nào, lẽ tự-nhiên trí-óc ai cũng vẫn vậy. Chúng ta ngó thấy một vị quan chẳng cần nói cao-kỳ cho đến Vương-Đế công-thần chỉ lấy bực thường theo quan-viên có sứ-mạng cầm quyền trị dân, có cái sở-hướng định-chí của họ làm thế nào để lưu lại miệng đời cái danh-tiết yếu-trọng, danh để cho thiên-hạ tôn-sùng kính nễ, vì thế cho nên trường quan-lại không luận để lại một phương sống là Tam-Cang Ngũ-Thường còn hạng nữa, trước khi xuất-sĩ buộc mình phải cho có đủ là liêm, khiết, để lại trong trí-não thiên-hạ một cái giá-trị.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Rằm tháng giêng năm Canh-Dần (1950) Về: “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”.
Nhà giàu làm lụng cực nhọc cốt-yếu làm cho có của tô-điểm danh-giá của mình ; tôi không được sang mà đều tôi có của tôi làm oai cũng được vậy, lẽ tự-nhiên thời-đại nó vẫn vậy, lấy giá-trị nó cân-lường giá-trị, coi nó lập cho mình năng-lực bao nhiêu, khinh-trọng quí-hèn dường bao, chúng ta ngày nay cũng vậy, mấy em cũng vậy, phàm mấy em cũng nghe một lời huyền-bí thiêng-liêng của Đại-Từ-Phụ đến cùng chúng ta, với một phương-pháp phi-thường là ngòi-bút, đến đặng tương-thân, tương-ái với chúng ta và cả thảy đều nghe đều ngó thấy đều xu-hướng chạy theo Ngài, chịu biết bao-nhiêu khổ-não truân-chuyên cùng Đạo, ít nữa mình phải kiếm coi cái hy-sinh của mình ở đâu, chạy theo Ngài giá-trị thế nào là lẽ tự-nhiên phải vậy, ta phải làm cho được đặng định giá-trị của mình.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Rằm tháng giêng năm Canh-Dần (1950) Về: “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”.
Bần-Đạo nói dầu cho bực Công-Khanh Vương-Hầu Khanh-Tể, giá như phú hữu tứ hải thế nào đi nữa, nội trong một kiếp sanh là hết, chúng ta ngó thấy trường đời nào là Đài Tần Đảnh Hớn, ngày nay danh-thể có còn tồn-tại chăng ? Chúng ta đặng ngó thấy trên mặt địa-cầu nầy đã có một quyền-hạn trị-thế biết bao-nhiêu danh-giá cao-trọng, nhơn-loại đã lập vị nơi mặt thế nầy, chúng ta chỉ đọc lại mấy trang sử không có chi lạ, là sự giàu-sang của họ tạo để nơi mặt địa-cầu này, đời này qua đời kia biết bao nhiêu là giai-đoạn. Sự tồn-tại của nó chẳng khác như cái bông sớm nở tối tàn không giá-trị chi hết. Chúng ta để trí-não so-sánh bao nhiêu đi nữa, chúng ta chỉ ngó thấy hình bóng bất quá như ánh-sáng hào-quang của mặt Trời đi ngang qua cửa sổ mà thôi, không có chi trọng-hệ. Đương-nhiên bây giờ chúng ta đã ngó thấy con đường trước mắt giục-thúc nhơn-loại tranh-đấu vì danh-lợi, quyền-thế, thế nào chúng ta móc cân tinh-thần để định giá-trị coi, thấy rằng không có giá-trị chi hết, như giấc chiêm bao, giấc huỳnh-lương mộng mà thôi.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Rằm tháng giêng năm Canh-Dần (1950) Về: “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”.
Chúng ta mang danh ra trước thời-kỳ ngộ Đạo, đứng giữa con đường Đức Chí-Tôn đi ngang qua đầu chớ không thấy hình-ảnh của Ngài, vì chưng chúng ta cũng hưởng được mùi vị sống, mùi vị thiêng-liêng của Ngài, chỉ biết được điều mượn mảnh hình hài xác thịt nay làm con thuyền Bát-Nhã độ thế cứu đời, lấy cả khối trí-óc tinh-thần loài người đến tiến-triển trên mặt nhơn-đạo của họ, đặng bảo-thủ cái sống còn trên mặt thế-gian này, đem mảnh thân nầy đưa trong tay Đức Chí-Tôn cho Ngài lập phương cứu khổ, chẳng phải sống của đời mà thôi, chúng ta còn đảm-nhiệm cái sứ-mạng thiêng-liêng quí-hóa hơn trước, chúng ta còn lấy linh-hồn chúng ta làm mực thước đặng cứu vớt các linh-hồn sa-đọa làm cho họ có danh-giá cao-trọng. Bần-Đạo nói sơ qua bao nhiêu đó cho cả thảy con-cái Đức Chí-Tôn để ý tìm coi thể nào rồi tự định giá-trị lấy mình.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Rằm tháng giêng năm Canh-Dần (1950) Về: “Làm người đứng giữa xã hội phải tìm phương lập vị mình”.
Sưu-tầm sự sống của nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy, kiếp sống của họ, chúng ta thử hỏi họ có tìm hạnh-phúc đặng chăng ? Không thế gì đặng ... có tìm đặng chăng chỉ tìm với cái bóng dáng mà thôi chớ không khi nào tìm đặng.
Nơi thế gian nầy có hai lẽ :
1.- Tìm hạnh-phúc với bóng
dáng thì sẽ đưa đẩy đến con đường tận diệt.
2.- Tìm hạnh-phúc chân-thật đi đến đại-đồng thế-giới.
Chúng ta thử nghĩ theo triết-lý nhà Phật có nói rằng : khi chúng ta mang xác phàm đến thế-gian này, chúng ta chịu trong vòng thúc-phược của tứ-khổ, vì mình khổ cần tìm giải-pháp nào đặng trừ cái khổ.
Khi chúng ta khổ chúng ta mong-mỏi tìm hạnh-phúc, nhưng hạnh-phúc đâu mà kiếm.
Bần-Đạo nói thật hạnh-phúc của nhơn-loại tìm bây giờ chỉ là mơ-mộng, tìm chẳng khác nào tìm cá trên ngọn cây.
Bần-Đạo không chối là do sự cố-gắng miệt-mài tìm phương giải khổ, loài người họ đã đến được bước đường tấn-hóa, họ đạt đến thời đại văn-minh, thời-kỳ nguyên-tử-lực, họ có thể tiêu-diệt trái địa-cầu này được, muốn có được các điều ấy phải có tiền, mà muốn cho có tiền thì phải làm mới có đặng, khi có tiền muốn lên trời hay xuống nước cũng được, có tiền thì dễ như không.
Như vậy muốn tìm hạnh-phúc phải làm cho có tiền, nhưng tiền là mồ-hôi nước mắt của nhơn-loại, thì nó lại xô đẩy nhơn-loại vào trường tranh-đấu náo-nhiệt, tranh-đấu cho sự sống còn của họ.
Như vậy chúng ta thử nghĩ, rồi can-đảm nhìn nhận kiếp sống của chúng ta từ khi mẹ đẻ tới giờ chúng ta đã có hạnh-phúc buổi nào chưa ?
Bởi vậy trường đấu-tranh giành hạnh-phúc náo-nhiệt ấy là tranh sống; tranh sống vì hạnh-phúc giả, họ phải đổi giọt mồ-hôi nước mắt của họ, trường náo-nhiệt đương-nhiên giờ này là trường tranh-đấu,
Tranh-đấu đặng tìm cái hạnh-phúc giả ấy mà tạo ra chiến-tranh. Nhưng vì sợ chiến-tranh nên họ mới kêu gọi hòa-bình, tìm kiếm hòa-bình với đường tên mũi đạn của họ, họ sống mâu-thuẫn làm sao ... Họ sợ chiến-tranh mà tự-nhiên họ tạo chiến-tranh.
Tấn tuồng xảo-trá mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất nầy vẫn còn diễn mãi, sự chơn- thật đâu thấy, mà có hòa-bình thế-giới, nếu các nước yếu-ớt toàn mặt địa-cầu này đừng bị cái ách thâu chiếm thì hoạ-may mới có thể hòa-bình trở lại.
Duy có phương-pháp vô đối là : Giờ phút nào nhơn-loại biết yêu-ái, biết lấy thân mình giúp thân nhơn-loại, lấy thân mình giúp lẫn nhau, hòa-bình hạnh-phúc mới có thiệt tướng.
Vì giả-dối với nhau thì không thể nào tìm hạnh-phúc cho ra đặng.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm mùng 1 tháng 2 năm Canh-Dần (1950) Về “Ngày nào nhân loại biết yêu ái nhau là ngày hòa bình hạnh phúc”
Hôm nay chúng ta luận một việc cần phải luận cùng nhau, nếu chúng ta tin chắc chắn rằng : Đức Phật-Mẫu là Mẹ sanh chúng ta, chúng ta phải để đức-tin nơi Người, theo ý Bần-Đạo tưởng thì cái gì thuộc về xác thịt này đều do Phật-Mẫu đào-tạo cả, Đức Đại Từ-Phụ duy làm cha của chơn-linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm này Ông cha cho duy-nhứt điểm tinh, còn huyết-khí do nơi bà mẹ đào-tạo mà có, Đức Chí-Tôn duy cho có nhứt điểm linh còn tạo nên trí-não và xác thịt hình- tướng của ta là do tay Phật-Mẫu.
Hai chủ-quyền của Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu ấy rất cao-trọng, hễ khôn-ngoan muốn cầu cho được siêu-thoát thì không ai hơn Đức Chí-Tôn, còn phần xác-thịt nếu đau-đớn khổ-sở mỗi cái gì đều xin Mẹ thì chắc hơn hết, có nhiều điều ta đến xin với Mẹ thì Mẹ cho chớ xin Cha thì không đặng phải vậy không ?
Nhứt là phái nữ, tâm-hồn phải nương theo Phật-Mẫu một cách mạnh-mẽ, hơn nữa hoặc sanh con không đặng tráng-kiện hoặc đức-tin còn yếu-ớt sao không đến xin mẹ ; chính mẹ có đủ quyền-năng ban ơn ấy cho con, như mấy em nhớ đã có vợ có chồng thì nên phụng-sự Đức Me,ï cầu xin cho đặng sanh con tốt, cho đứa nào đến với mình sẽ là một chơn-linh cao-siêu, ấy là thiệt khôn đó, nhớ nếu mà chúng ta tin quả-quyết có điều ấy, thì tự-nhiên có như vậy, Bần-Đạo thấy nữ phái lãnh-đạm điều ấy lắm.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Bảo-Aân-Từ Ngày rằm tháng 2 năm Canh-Dần (1950) Về: “Đức Chí-Tôn là cha của chơn linh, còn trí não và xác thịt là do Đức Phật Mẫu đào tạo”.
Bần-Đạo ngày hôm nay chỉ thuyết ảnh-hưởng triết-lý Đạo-Giáo của Ngài đã để lại thế nào.
Thời buổi hổn loạn, nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy, Bần-Đạo nói họ đương dung-ruổi trên con đường quyền-lợi, của triết-lý cao-siêu mà Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ để lại, giờ phút này nhơn-loại chịu ảnh-hưởng triết-lý ấy thế nào Bần-Đạo xin luận thử cho cả con-cái của Đức Chí-Tôn tìm hiểu hơn nữa.
Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ lấy căn-bản tinh-thần vi-chủ của Ngài trong mỗi kiếp sanh con người có thể tấn-triển mãi thôi, tấn-triển về trí-thức tinh-thần, thật ra nhơn-loại đã hưởng được sự cao-siêu của triết-lý ấy, nhứt là các nhà học-thức đã tìm đã đạt huyền-vi bí-mật của cái năng-lực cơ-thể tạo-đoan mà đào-luyện kiếp-sanh hôm nay, có lẽ chúng ta đã tưởng đi đến một đặc-điểm khá cao. Bần-Đạo nói thờâi- kỳ nguyên-tử này, nhơn-loại do sự xu-hướng đặc-biệt huyền-vi bí-mật đã đạt đặng quyền-năng tạo-đoan cũng khá nhiều.
Nhưng chỉ có một điều là đạt được cái năng-lực của cơ-thể tạo-đoan ấy thay vì để phục-vụ nhơn-loại với đạo-đức nhơn-nghĩa. Trái ngược lại cả tài-tình của họ đào-luyện thâu-hoạch quyền-lực, cơ tạo-đoan của nhơn-loại nắm trong tay là để làm một cái lợi khí tiêu-diệt nhơn-loại.
Thật nguyên-tử-lực của các nhà học-thức Bác-sĩ , Bác-Vật đã đạt đặng. Đức Thái-Thượng Nguơn-Thỉ đã biết nó trước, duy có một điều vi-chủ của Ngài là hướng bảo-tồn sanh-mạng con người chớ Ngài không tiêu-diệt loài người như ngày nay.
Bí-truyền của Ngài để nơi tinh-thần luyện-khí cốt-yếu là đạt đặng nguyên-tử-lực vào con người vậy, bí-mật của sự luyện-khí là do đó, điều Ngài biết đã chính mình Ngài thâu-hoạch được trước 2.500 năm. Ngài tưởng năng-lực ấy để bảo-vệ nguyên-linh ta thắng được phản-lực của hình thể ta, tinh-thần ta vi-chủ kiếp sống của chúng ta.
Hại thay ! những nhà truyền-giáo tưởng đã đủ năng-lực bảo-vệ sanh-mạng loài người bằng triết-lý cao siêu ấy.
Trái ngược lại, ta thấy những nhà hành đạo truyền-giáo họ thúc-giục tương-tranh, tương-đấu nhau vào đường chiến-trận mà thôi, ta thấy lịch-sử lưu lại triết-lý Tiên-Gia chỉ giục loạn chớ không trị bình đặng.
Ngày giờ nào nhơn-loại biết chỗ chơn-thật của triết-lý ấy thấu-triệt đặng phụng-sự nhơn-loại với cái trí-hóa khôn-ngoan trong năng-lực của Ngài, thì ngày giờ ấy nhơn-loại mới hưởng được đặc-ân của Ngài đã để nơi mặt thế nầy.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh thời Tý Đêm rằm tháng 2 Canh-Dần (1950) Về “ Ảnh-hưởng triết lý đạo giáo của Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ”.
Bần-Đạo xin nói qua về tôn-chỉ của Cao-Đài. Phải cần nhắc tới lập-trường và tôn-chỉ của Cao-Đài lúc này vì tôn-chỉ của Cao-Đài có liên-quan mật-thiết với sự tồn-vong của lãnh-thổ, sự suy-thịnh của Quốc-Gia.
Về một phần xác một tín-đồ Cao-Đài là một tượng-trưng của sự quả-cảm, sự hy-sinh, sự tận-tụy với tổ-quốc, vì tin rằng một dân-tộc vô tổ-quốc thì dân-tộc không làm nên một việc gì ; cũng như dân-tộc có tổ-quốc mà không có đạo thì dân-tộc ấy cũng là cái xác phàm-phu của Trời ban cho không có tâm-hồn để điều khiển.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm. Ngày 2 tháng 5 năm Canh-Dần (1950).
Về phần siêu-hình, Bần-Đạo đã nhiều lần giải rõ bởi Linh-hồn của người vô-đạo luôn-luôn bị điều-khiển chế-ngự bởi cái xác, sa-ngã vào cái vòng dục-vọng cạnh-tranh phù-hoa hãnh-diện ; kẻ đó còn đâu cái bản-năng cao-cả, cái lý-trí sáng suốt để nghĩ đến chủng-tộc giống-nòi ; trái lại cái linh-hồn của kẻ có đạo là linh-hồn của Đấng Chí-Tôn tạo thành luôn luôn lựa đường quang đi, nẻo rậm tránh, dám hy-sinh tất cả cho quyền lợi Quốc-Gia, vì kẻ đó nghĩ rằng Quốc-Gia có chủ-quyền thì nước mới có Đạo ; mỗi nước có Quốc-Đạo thì dân-tộc ở trong nước mới tìm thấy lẽ sinh tồn.
Trích Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm. Ngày 2 tháng 5 năm Canh-Dần (1950).
Hai mươi bốn năm qua Bần-Đạo không hề tưởng-tượng được một cái hồng-ân vô-đối cuả Đức Chí-Tôn đã chan-rưới cho giống-nòi Việt-Thường nầy giữa hồi nhơn-tâm điên-đão, quyền-hành tinh-thần đạo-đức điêu-linh, tâm-hồn loài người thống-khổ vì thiếu phương an-ủi, ta đã ngó thấy nhiều lẽ bất-công của xã-hội diễn ra trước mắt nhiều tấn-tuồng đau thảm không thể tả ra bằng ngôn-ngữ đặng; Bần-Đạo chỉ nói rằng trong thời buổi hổn-độn cả nhân-luân của nhơn-loại sập đổ; Đức Chí-Tôn đến, Ngài đến với một phương-pháp đơn-giản tạo nền Chơn-Giáo của Ngài. Bần-Đạo nhớ lại buổi Ngài mới đến, Ngài xin với mấy vị Tông-Đồ ba món báu gọi là Tam-Bửu.
1)- Là xác thịt.
2)- Là trí não.
3)- Là linh-hồn.
Của mọi người hiến dưng cho Ngài, đặng Ngài làm cơ-quan cứu-thế độ-đời. Hồi buổi nọ chúng ta chưa hiểu nghĩa lý là gì ? biết bao nhiêu kẻ, biết bao Tín-Đồ đã để dấu hỏi Đức Chí-Tôn đến xin ba món báu đặng tạo quyền gì kia chớ ?
Thưa cùng toàn-thể con-cái của Đức Chí-Tôn, ba món báu ấy không có giá-trị chi hết. Ngài lấy trong một số ít của Thánh-Đức Ngài tạo cho thành tướng một khối thương-yêu vô-tận, có một điều làm cho chúng ta ngạc-nhiên hơn hết là từ thử đến giờ nhơn-sanh đã hiểu quyền-năng vô-đối của quyền-lực thương-yêu, nhưng họ chưa hiểu biết thống-nhứt cả khối thương-yêu ấy đặng làm phương cứu-thế độ-đời, hay là làm phương-châm tạo hạnh-phúc cho kiếp-sanh của họ trái ngược lại họ chỉ thống-hiệp tinh-thần thù-hận, oán-ghét làm cho mặt địa-cầu nầy biết mấy phen đẩm máu, nhơn-loại tương-tàn tương-sát với nhau là vì sự bội-tín của họ, biết thù-hận hơn là thống-hiệp thương-yêu.
Trích Đáp từ của Đức Hộ-Pháp trong lễ "Chúc Thọ" Ngài tại Đại Đồng Xã. Ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh-Dần (1950).
Mấy em là Qua, Qua là mấy em, nam, nữ cũng vậy, cả thảy mặt địa-cầu này ngày giờ nào nhơn-loại biết hiệp với nhau làm cho thành-tựu cái gia-tộc tại mặt thế này là đại gia-đình thiêng-liêng đó vậy. Giờ ấy cần-yếu cho nhơn-loại phải có và hiện-tượng cho thành-tựu mới đặng, nếu không làm thiệt hiện ra đặng thì cái hòa-bình hạnh-phúc trong đại-đồng thế-giới chẳng hề khi nào kết-liễu đặng.
Cây cờ cứu-thế Đức Chí-Tôn, nó đã hiện-tượng một cái quyền thiêng-liêng vĩ-đại giờ phút này và còn tới nữa, thật quyền-năng vô-đối của nó là quyền-năng thương-yêu vô-tận của mình đó vậy.
Ngày giờ nào toàn thể nhơn-loại biết thương-yêu với nhau như lời Đức Chí-Tôn đã dạy, thì giờ ấy là hạnh-phúc cho nhơn-loại đã đoạt đặng. Chúng ta đã ngó thấy những điều Đức Chí-Tôn đến nói không phải là mới, vì trước kia có hai Đấng đã làm :
Đấng thứ nhứt : là Đấng mỗi bữa mang Bình Bác-du đi hành-khất xin ăn, đem về "Cấp Cô-Độc-Viên" nuôi những kẻ đói khổ là Đức Thích-Ca Mâu-Ni- Phật đó vậy.
Đấng thứ nhì : là Đấng bẻ từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá, cho đến mảnh áo "Tam-Tinh" của Ngài cũng lột cho kẻ rách, Đấng ấy là Đấng Jésus-Christ.
Bần-Đạo nói quả quyết hai vị Giáo-Chủ đã làm nền-tảng tinh-thần đạo-đức ở cõi Á-Đông và Âu-Châu là hai nền Gia-Tô-Giáo và Phâït-Giáo. Nếu đã được thi-thố như thế ấy lưu lại cho đời một khối vĩ-đại là do năng-lực thương-yêu của Đấng ấy. Ấy vậy không chi mới-mẽ hết.
Cây cờ cứu khổ của Đạo Cao-Đài là thương-yêu mà thôi, sau nữa là quyền công-chánh. Nếu thi-hành hai điều ấy được thì mới đem hòa-bình thực-hiện nơi mặt địa-cầu này được.
Trích Đáp từ của Đức Hộ-Pháp trong lễ "Chúc Thọ" Ngài tại Đại Đồng Xã. Ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh-Dần (1950).
Rồi đây e cái án nhơn-loại bất-công của xã-hội nhơn-quần, đã gây loạn từ trước đến giờ, nay quả-báo ấy tới nữa.
Trận chiến-tranh 1914-1918 đã qua, Đức Chí-Tôn đến cho biết là để khảo-đảo nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này cho trả quả-kiếp, chúng ta thấy nhiều bằng-cớ hiển-nhiên trước sự tàn-ác bất-công của xã-hội nhơn-quần nơi mặt địa-cầu này, cái án ấy không có miệng lưỡi nào chối cải đặng, có nhơn dữ thì có quả-báo.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Thời Tý đêm mùng 1 tháng 6 năm Canh-Dần (1950) Về: “Lửa oan nghiệt muôn xe, một giọt cam lồ khôn tưới tắt”.
Cái sống chết, nơi cửa Đạo coi không có giá-trị gì cả, chúng ta tưởng sống cốt-yếu trả nợ cho xác thịt vậy thôi, đến khi thác tất-nhiên là cơ-quan giải-thoát, nên Bần-Đạo nói quả-quýết, nếu chúng ta biết thì sẽ mong-mỏi cái chết hơn cái sống, nhưng xét vì Thánh-đức của Chí-Tôn, chết vì nhơn-loại, chết vì đạo-đức tinh-thần; chết ấy mới vui, còn chết có hại chăng, là chết đặng trả quả-báo, chết ấy không có ý-vị gì.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Thời Tý đêm mùng 1 tháng 6 năm Canh-Dần (1950) Về: “Lửa oan nghiệt muôn xe, một giọt cam lồ khôn tưới tắt”.
Qua trận giặc 1914-1918 Đức Chí-Tôn Ngài nói, nếu Đạo trễ một ngày là hại cho nhơn-loại, nên Ngài mới thúc-dục Thánh-thể của Ngài đặng đem cơ cứu-khổ độ-rổi cho nhơn-loại, mà thử hỏi nhơn-loại, hầu có nghe lời từ-bi bác-ái của Ngài chăng? Bần-Đạo tưởng Chí-Tôn cốt-yếu Ngài lập Đạo và Ngài giục-thúc Thánh-Thể của Ngài thọ mạng-lịnh nơi Ngài, đến trước gom cả con-cái của Ngài lại đặng đợi Ngài, bất quá là tiếng nói của Ngài thúc-giục cả thánh-thể Ngài, đến nơi mặt địa-cầu để làm theo ý muốn của Ngài là cứu toàn nhơn-loại, nhưng ngọn lửa tàn-ác của nhơn-loại, vẫn muôn xe, mà một giọt nước Cam-lồ của Ngài tưới sao tắt đặng ?
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Thời Tý đêm mùng 1 tháng 6 năm Canh-Dần (1950) Về: “Lửa oan nghiệt muôn xe, một giọt cam lồ khôn tưới tắt”.
Đây qua trận giặc 1939-1945 muốn rạp, có thể tới trận đại-chiến thứ ba này nữa, tuy vẫn trước mặt thấy một trường thảm-khổ vô-luạân, chúng ta đã thấy một kỳ đại-chiến là nhơn-loại đều phải trả quả-kiếp, nếu biến-tướng cái quả-kiếp được, để giảm bớt tội-tình, thì oai-linh của Đạo Cao-Đài lại tấn-triển thêm một bước nữa.
Ấy vậy cả toàn thể thánh-thể nên bình tâm đừng ỷ lại, một điều cần-yếu Bần-Đạo dặn-dò cả thánh-thể Chí-Tôn nên hợp lại làm một khối thương-yêu vô-tận, thì ngày khốn-khổ vẫn được tự nhiên xa-rời , còn những kẻ không biết, chia-lìa rời-rạc nhau, thì sự khốn-khổ lại càng đeo đuổi, lời ấy là lời Bần-Đạo dặn cho đám thanh-niên nên nhớ. Bần-Đạo nói cái đại-nghiệp này có tồn-taị hay chăng là do tinh-thần nơi đó phải khôn-ngoan, phải minh-mẫn sáng suốt, phải có đạo-đức hơn nữa, đặng cầm cho vững tương lai sau này, đó là hạng thanh-niên.
Còn một điều nữa là : Phụ-nữ, đám con ở trong lòng mấy người. Bần-Đạo quả-quyết nó sẽ nối truyền nơi cửa Đạo, thì phải lấy giọt sữa từ-bi, bác-ái của Chí-Tôn mà nuôi lấy nó, ngày kia sẽ còn nối hương-hỏa của Đạo.
Bần-Đạo gởi-gấm sắp nhỏ.
Cái trạng-huống đời bao-giờ cũng vậy, mảnh xác-thịt này của chúng ta chung sống với nhau trong một thời-gian thôi, dầu cho ngắn-ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu lại một thâm-tình thương-mến nồng-nàn ; nếu không có luật thiên-nhiên ấy, chắc cả kiếp sống ta vô-vị không có chi hết.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Báo-Aân-Từ Ngày 19 tháng 6 năm Canh-Dần (1950) Trong cuộc lễ an táng ông Phối Sư Thượng Sách Thanh.
Cả thảy nên nhớ lời Bần-Đạo nói : cửa thiêng-liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em đặng hưởng tình-yêu vô-tận trên cảnh thiêng-liêng hằng-sống, cảnh đó mới là cảnh hạnh-phúc, còn cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy-sinh mạng sống tạo-nghiệp, mà không phải tạo-nghiệp đời cho mấy em, bởi nghiệp đời vinh-hiển bao nhiêu đi nữa cũng không giá-trị gì hết, bao nhiêu xã-tắc, sơn-hà, vương-đế từ trước đến giờ đã tạo-dựng mà ngày nay còn tồn-tại cái chi không? Trái lại ông cha của mấy em, đã tìm một con đường vinh-hiển cho mấy em là "đạo-nghiệp" nghiệp-đạo còn thì giọt mồ-hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn, mấy em biết giữ nó cho tồn-tại là cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông cha đã thương con, lo cho con, nhưng thương có nhiều cách khác nhau, cha mấy em đã tạo-dựng cơ-nghiệp cho mấy em đây, mấy em không còn trách-cứ được nữa, cha mấy em đã làm xứng-đáng một ông cha. Bần-Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được người cha xứng-đáng.
Tại Báo-Aân-Từ Ngày 19 tháng 6 năm Canh-Dần (1950) Trong cuộc lễ an táng ông Phối Sư Thượng Sách Thanh.
Chúng ta đã hiểu rằng : Dầu cho con người có tinh-thần chiến-thắng nơi mặt thế này dường nào đi nữa, thì phàm vẫn là phàm. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn đã nói nơi mặt địa-cầu này không có ai đặng trọn lành và cả toàn thiên-hạ cũng không trọn lành, tức nhiên mặt thế này nhơn-loại chẳng hề khi nào lành đặng.
Khi Đức Chí-Tôn đến tạo Đạo. Ngài đã ký hòa-ước với chúng ta buộc chúng ta phải thiệt-hiện cho đặng cơ-quan cứu khổ của Ngài, trong hai chữ bác-ái và công-bình. Ngài đem ngôi vị thiêng-liêng Thần. Thánh, Tiên, Phật đổi lại cho chúng ta, mong lấy có bao nhiêu đó thôi.
Hại thay ! Khi Ngài đến nước Việt-Nam đã chịu dưới ách lệ-thuộc quyền-hành sở-hữu các Tôn-Giáo, nên họ không vui khi thấy cây phướn cứu-khổ của Ngài thiệt-hiện ra đặng, mà quyền-hành trị-thế cũng không vui khi thấy cái triết-lý cứu-khổ của Ngài.
Hại thay ! Ngài lựa sắc-dân nô-lệ này làm thánh-thể của Ngài dĩ-nhiên cái khổ-hạnh thánh-thể của Ngài là cả toàn con-cái của Ngài trong cửa Đạo không thế gì chối-cãi đặng. Đạo đã chịu cái khổ-hạnh thế nào thì toàn con-cái của Đức Chí-Tôn tức là thánh-thể của Ngài đều chung chịu như thế ấy.
Ôi ! biết bao nhiêu khổ, nếu chúng ta không phải mang danh thánh-thể của Ngài thì chúng ta viết một quyển sách kể cái khổ-hạnh mà chúng ta đã chịu từ-thử đến giờ, dám chắc rằng : Không có một người nào xem mà không đổ lụy đặng.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm mùng 1 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Cái khổ của thánh-thể Đức Chí-Tôn”.
Cái triết-lý đương tranh-đấu của loài người vẫn vậy, mà chúng ta đem cái triết-lý cứu-khổ với nhơn-nghĩa của Tổ-Phụ Việt-Nam đã để lại, thiệt-hiện nó ra là khó-khăn không thể nói được.
Nếu phải đi với cây phướn cứu-khổ với hai chữ nhơn-nghĩa của Đức Chí-Tôn đã định thì ngoài con đường phụng-sự quốc-Gia ra không thể đi con đường nào khác nữa được. Nếu chúng ta có chiến-đấu thì cũng khó mà định-phận được cho nó. Chiến-đấu không lẽ chúng ta đem cái oán mà đổi oán, đem thù mà đổi thù, nếu đem lẽ ấy chiến-đấu thì còn gì thánh-thể Đức Chí-Tôn phải ra phàm, trái ngược lại chúng ta phải dĩ ân báo oán.
Cái triết-lý tối cao tối thượng: dĩ ân báo oán, từ-bi bác-ái và công-bằng vô tận trong cửa Đạo Cao-Đài chúng ta đã bị biếm-trách, điều ấy chúng ta đủ hiểu, chúng ta làm thì nhứt định chịu, bởi chúng ta biết rằng biếm-trách ấy giờ phút này nó sẽ làm đại vinh-dự cho chủng-tộc Việt-Nam ở tương lai.
Vậy Bần-Đạo xin khuyên hãy vui đi, lấy đó làm danh-dự giá-trị của nó thì bao nhiêu cái khổ-hạnh kia sẽ được cao-thượng, Đức Chúa Jésus-Christ đã chết trên cây Thánh-Giá làm con tế-vật cho Ngài buổi nọ. Buổi hôm nay chúng ta đem cả tinh-thần đạo-đức làm con tế-vật cho Ngài đó vậy.
Từ thử đến giờ chưa có ai làm được, mà mình làm được và đã làm được. Có như vậy mới đáng an vui và hy-sinh như thế thì mình mới có giá-trị cao thượng.
Tại Đền-Thánh Đêm mùng 1 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Cái khổ của thánh-thể Đức Chí-Tôn”.
Hôm nay là ngày rằm Trung-Nguơn có một điều từ thử đến giờ bên Phật-Giáo lạc-lầm về chổ các đẳng linh-hồn mà người ta gọi cô-hồn đó, không có cô-hồn đâu.
Hoặc may ra, có lẽ mấy vị khi trước đã đạt-pháp gặp đám ngạ-quỉ súc-sanh phần nhiều là con nít, các đẳng chơn-hồn về súc-sanh, cho nên các chơn-hồn trẻ mãi thôi, vì cớ cho nên người ta làm áo thí cô-hồn nhỏ-nhỏ vậy.
Không có cô-hồn đâu … Các phẩm chơn-hồn đạt phẩm-vị nhơn-phẩm không có cô-quả bao giờ. Nơi cảnh Hư-Linh hằng-sống kia người ta còn có gia-đình, thân-tộc bạn-tác anh em của người ta, không có một chơn-hồn nào đã đạt nhơn-phẩm mà gọi là cô-hồn đặng. Có hay chăng là thiên-hạ tưởng-tượng vậy thôi. Tưởng người chết không con nối hậu, không ai phụng sự, xiêu mồ lạc mã, người ta cho là cô-hồn, sự thật là không phải.
Bần-Đạo lập lại lần nữa, không có cô-hồn, chỉ có đám ngạ-quỉ súc-sanh mà thôi, như các đẳng chơn-hồn mà chúng ta cầu nguyện trong Trung-Nguơn đây là cốt-yếu để cho họ giải-quả thoát-kiếp, có lẽ trước kia người ta biết một điều bí-mật là các ngạ-quỉ súc-sanh hay ăn uống thường phá khuấy thiên-hạ đặng kiếm ăn.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Không có cô hồn, có chăng là ngạ quỉ”.
Còn chúng ta ngày Trung-Nguơn hay là Thượng-Nguơn chúng ta cúng-kiến là cúng Ông Bà Tổ-Phụ, Ông Bà và bạn-tác đồng sống với chúng ta mới qui-liễu.
Ngày cúng ấy là ngày chúng ta nhắc lại sự đau-thảm chia-ly với nhau trong kiếp sống. Còn kiếp chết của chúng ta sẽ được tương-ngộ trên cảnh hư-linh hằng-sống kia, cái cảm-tình của chúng ta ngày đó dầu cho dưa muối mà chúng ta nhớ cái thâm-tình ấy là quí-trọng. Quí-trọng hay chăng là cái lòng yêu-ái của chúng ta dưng cho họ, nhớ tưởng đến họ mà thôi, sanh như hà, tử như thị, ấy là Đạo nhơn-luân của chúng ta, nhứt là tạo phong-hóa của nhà Nam.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Không có cô hồn, có chăng là ngạ quỉ”.
Bần-Đạo lập lại lần nữa không có đám cô-hồn đâu, nếu vị nào đạt được nhơn-phẩm ở thế-gian này dầu cho cô-quạnh thế nào, nơi cảnh thiêng-liêng hằng-sống kia họ cũng có anh em bạn-tác gia-đình của họ, chúng ta không có người nào cô quả hết chỉ sợ có một điều là bạn-tác, anh em chị em đồng sống với chúng ta mà họ không tu, khi về cảnh thiêng-liêng hằng-sống không thế gì mà gặp nhau được, cái đó mới vô phước và đáng sợ hơn hết, ngoài ra không có cô-hồn, chỉ có đám ngạï-quỉ súc-sanh mà thôi.
...
Giờ phút này đừng cầu-nguyện cho cô-hồn nữa, mà chúng ta cầu-nguyện cho con-cái Đức Chí-Tôn cho họ đủ năng-lực để minh-tâm kiến-tánh, bảo trọng sanh-mạng của họ mà thôi.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Không có cô hồn, có chăng là ngạ quỉ”.
Bần-Đạo thuyết tiếp về tam-nguơn, tại sao trong Càn-Khôn Võ-trụ chia làm tam-nguơn, là khi Càn-Khôn Võ-trụ chưa lập ra, ban đầu cả tính khối sanh-lực của Càn-Khôn bao trùm hết, khi biến-thiên mới tạo ra vạn-vật, hồi lúc Đức Chí-Tôn giáng-linh gọi là Thượng-Nguơn. Người giáng-linh nắm cả nguyên-khí ấy luyện trong Càn-Khôn Võ-trụ biết hoạt-động nương theo cái sanh-lực là chữ khí đó (Đức Hộ-Pháp chỉ ra Liên-Đài Hộ-Pháp có chữ khí) tượng hình của mình.
Kế tiếp nữa là Trung-Nguơn Đức Chí-Tôn tạo vạn-vật dầu cho loài người cũng ở trong vạn-vật ấy. Giờ phút Đức Chí-Tôn đến cho loài người được cái linh, tức nhiên cho họ cái khôn-ngoan hiển-hách khác hơn vạn-loại kia, gọi là giáng khí vì cớ Đức Hô-Pháp bắt ấn Trung-Nguơn hai bàn tay phải hiệp lại với nhau là âm dương tương-hiệp, theo cái thiên-linh của Đức Chí-Tôn đến cái nhơn-linh của loài người.
Đến Hạ-Nguơn Đức Chí-Tôn giáng Thần, tức nhiên là cái thiên-vị Đức Chí-Tôn mở ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật cho Vạn-Linh đặng cho các chơn-hồn đạt vị của mình, chuyển-luân trong quả kiếp sanh sanh tử tử mà đạt pháp lập thiên-vị; Đức Chí-Tôn giáng trần Hạ-Nguơn là cốt-yếu như vậy. Vì cớ nên Hộ-Pháp bắt ấn hạ-nguơn là tới tuần trà : hai bàn tay úp nhau, tả là Dương trên, Hữu là âm dưới ; chụp lên đầu Kim-Tiên đưa xuống giáng thần cho thiên hạ ba cái Bí-Pháp đó là vậy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Canh-Dần (1950) Về: “Không có cô hồn, có chăng là ngạ quỉ”.