của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Tập II |
Đức Chí-Tôn đã để trong lòng dạ của Ngài, nên Ngài đem đến Thánh-Giáo đến lập Chơn-Truyền của Ngài, cốt yếu Ngài đến đặng lập thiệt-vị cho con cái của Ngài. Cái thiệt-vị con cái của Ngài từ thượng-cổ đến giờ, nhơn-loại đã hiểu mảy may chút ít. Nhứt là văn-minh Á-Đông của chúng ta đã để một tiếng rất nên hữu-duyên và hữu-vị, đã nói toàn-thể nhơn-loại trên mặt địa cầu này, gọi là Thiên-hạ, nói rõ ra cái tên ấy là “Ông Trời dưới”, Thiên là Trời, Hạ là dưới, Ông Trời dưới nghĩa là kết với Ông Trời trên, Thiên-hạ ấy nó đã tỏ ra cho thấy cái đặc-phận của loài người trên mặt địa-cầu này.
Đức Chí-Tôn muốn dành để cho loài người phẩm vị gì ? Và phận-sự của họ phải làm gì ? Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn-loại tiềm-tàng khảo-cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh-thần của con người, dầu ai có muốn chối cãi tinh-thần ấy chủ-quyền của cái sống họ cũng không được. Tại sao ? Tại họ đã thọ-lãnh cái điểm linh về tinh-thần của họ nơi Đấng Tối-linh ấy ban cho họ, muốn cho nhơn-loại từ từ đi từ phẩm-vị con người đạt cho đến quyền-năng, đạt cho tới cái địa-vị làm Trời hữu-hình tại thế này đó vậy.
Chúng ta đã gọi Đức Chí-Tôn dành để phận-sự họ làm Trời hữu-hình tại thế này, cái phận-sự ấy thế nào Bần Đạo không cần minh-tả cả thảy con cái của Ngài tầm hiểu, mình đã gọi Đấng tạo Thiên lập Địa làm Chúa cả Càn-khôn Vũ-trụ là Chủ, là Trời, là Chúa-tể của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vinh-quang cao-trọng quyền-năng vô-đối ấy, nó ra thế nào thì Bần Đạo nói quả-quyết rằng Ông Trời con, tức nhiên Ông Trời Tạo-Hoá Càn-Khôn Vũ-Trụ muốn cho họ thế ấy, và ban quyền cho họ đoạt đặng địa-vị thế ấy, nói rõ cái giá-trị của toàn-thể Nhơn-loại là Ông Trời hữu-hiønh tại thế này đó vậy.
Khi chúng ta đã nhìn quyền của họ, nhìn tước của họ, là Ông Trời hữu-hiønh tại thế này, chúng ta tự biết phận của chúng ta, chúng ta chỉ biết làm tôi, chỉ biết phụng-sự cho Đấng ấy mà thôi, chớ không mong-mỏi gì làm chúa của họ đặng, biết bao nhiêu kẻ mon-men muốn làm chúa toàn thể Nhơn-loại trên mặt địa-cầu này với võ-khí, với phương-pháp hung-bạo tàn-ác, chiếm thâu những kẻ yếu-hèn bạc- nhược để họ sai làm tôi-mọi cho họ bất quá là một phần thiểu số kia mà thôi, nếu toàn thể Nhơn-loại mà họ muốn làm chúa thế ấy, thì người Chúa của họ (Thiên-thượng) có thể định sống chết của họ mà chớ !.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ Thượng Nguơn Về: “ Thiệt phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa”.
Chúng ta đã ngó thấy ở nơi mặt địa-cầu này tuy khác màu da nước tóc, nhưng không người nào khác nhau, trong hàng-phẩm nhơn-loại kia là anh em đồng-sinh của ta, cả thảy nhơn-loại trên mặt địa-cầu này là Đại Gia-đình, là anh em cốt nhục của ta, chúng ta không có quyền làm chúa, chỉ biết làm tôi làm tớ họ theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn muốn mà thôi.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ Thượng Nguơn Về: “ Thiệt phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa”.
Ngày giờ nào không lấy Luật Thương-yêu, thiên-nhiên của Đức Chí-Tôn để trong tâm-não, thì con người chưa hề có can-cảm làm phận-sự tôi-tớ của họ mà phụng-sự Nhơn- loại một cách đắc-lực, một cách vui-vẻ, một cách hữu-hạnh, hữu-phước, một cách làm cho mình có thể chung lại với nhau đặng hưởng hoà-bình yêu-ái của toàn nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này.
Muốn làm Chúa thời phải thiệt-hiện hoà-bình tinh-thần trước đã và hoà-bình hình-chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương-yêu của Đức Chí-Tôn để nơi tâm-khảm của chúng ta làm khí-cụ, làm môi-giới dìu-dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh-phúc ấy mà thôi.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ Thượng Nguơn Về: “ Thiệt phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa”.
Hôm nay là ngày Lễ của Đức Thái Thượng, tức là ngày Kỷ Niệm của Đạo Giáo. Bần Đạo nhơn dịp ngày Vía của Ngài, Bần Đạo tiếp giảng chữ Tu mà Ông Truyền Trạng Trấn đã giảng bửa hôm trước. Đề mục còn sơ sót song đến cái đích đề-mục ấy nói lại trúng, khi nói kết-luận ông đã nói rằng :
“Duy có Tu mới có thể dìu-dắt Nhơn Loại đi đến mục-đích Đại Đồng Thế Giới, đem hoà bình toàn thiên ha”ï, đây là trúng.
Bần Đạo giải rõû chữ Tu và tầm chủ-hướng của nhơn-loại, phải để trong mục-đích nào, ấy là một cái đề chúng ta có thể nói từ thượng-cổ đến giờ, tiền nhân chư Hiền, chư Thánh, chư Tiên, chư Phật đã lập Giáo và đã viết ra không biết bao nhiêu Điển Luật Kinh Sách, mà nói không hết, giải không cùng, huống chi đứng trên giảng đài này, lấy đề mục ấy mà nói không bao giờ đủ đặng.
Duy luận-định nguyên-lý của nó, bổn-căn của loài người nó có tánh vật của nó sanh trong vạn vật, cũng như con vật kia vậy, duy trong tánh vật của nó, có Đức Chí-Tôn đến định Thiên-mạng của nó, nó có hai phần, hai đặc tánh. Tánh thú và tánh Trời.
Bây giờ luận về tánh thú của nó thì nó cũng như con thú kia vậy. Tánh của nó buộc nó đói phải cần kiếm ăn, lạnh rách phải kiếm mặc, nó khổ nó phải kiếm phương làm cho nó hạnh-phúc, nó có khó-khăn nó phải làm cho nó sung-sướng cái phàm-nghiệp của nó, thích cái gì phải kiếm phương-thế nào làm cho nó thoả-thích, thoả-thích ấy là cái tánh thú dục nó vậy.
Huống chi nó sanh nơi thế-gian này chịu trong luật-định của nó là tứ khổ, thì bây giờ nó phải tìm phương kiếm thế thoát khổ cho đặng; thoát khổ và tìm hạnh-phúc với hình-thể thì chẳng hề buổi nào tìm đặng, chẳng khi nào thấy hưởng được hạnh-phúc do nơi hình-thể mà nó chịu khổ, tức-nhiên tánh thú của nó cốt-yếu đến đặng chịu khổ, mà nó muốn thoát-khổ, ấy là nó nghịch lại tánh-đức luật định Thiêng-liêng của nó.
Ấy vậy, khi nó còn tánh thú, nó muốn làm sao thoả-mãn, hể thoả-mãn thú-tánh của nó, thì nhân-cách của nó bị huỷ-diệt, nhân-cách không thể bảo-thủ được cho lâu, thiên-mạng nó không có phương bảo-thủ, tâm-linh của nó không có phương làm chủ nó đặng, thì nó phải trở nên con vật mà thôi. Vì cớ cho nên các Đạo-Giáo, các Triết-lý cốt-yếu tìm phương nào dung-hoà tánh thú của nó, cho phù-hạp với chơn-mạng của nó, tức-nhiên làm phương nào bảo-trọng sống thú của nó, phù-hạp với nhân-cách đó vậy.
Ấy vậy làm chủ cái tánh thú đặng bảo-trọng thiên-mạng, tức-nhiên phải dồi-mài sửa-đổi luyện cả tinh-thần và hình-chất của mình thoát khỏi tánh thú, đặng bảo-tồn nhân-cách, tức-nhiên bảo tồn Thiên-mạng của mình gọi là “Tu”. Chữ Tu cốt yếu là để trau-dồi cho đặng thoát cái tánh thú, bảo-vệ nhân-cách của mình đó vậy.
Trích giảng bổ-túc về Chữ Tu của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ vía Đức Thái Thượng Kỷ niệm của Đạo giáo.
Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế-gian này có hai phương- pháp, siêu-hình cũng trong đây, mà siêu-vật cũng trong cửa Đạo này. Tại sao? Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác-thịt, trí-não, dâng cả tâm-hồn tức-nhiên dâng cả sanh-mạng của nó cho Ngài để làm chữ Khí, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức-nhiên cái sống của nhơn-loại đi đến mục-đích “chữ Tu”, Ngài biểu cả toàn-thể dâng xác-thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn-Khôn Vũ-Trụ, trong mình nó sống vậy mà làm Thánh-thể của Ngài. Chúng ta tưởng-tượng một ngày kia, toàn-thể nhơn-sanh đứng làm phần-tử Thánh-Thể của Ngài phụng- sự cho vạn-linh, tức-nhiên phụng-sự cho nhơn-loại, hiệp trí-não tâm-hồn dâng cho Ngài hết, còn trở-lực nào ngăn-cản nữa, nhơn-loại sẽ đến một cái tối-trọng và thiên-hạ nhứt gia như Đức Chí-Tôn đã muốn.
Trích giảng bổ-túc về Chữ Tu của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ vía Đức Thái Thượng Kỷ niệm của Đạo giáo.
Mỗi kỳ Đại Đàn kể từ 12 giờ cho đến 2 giờ, trong 2 giờ đồng hồ nếu mấy người mặc một bộ đồ võ-phục như vầy, có buộc dây như tôi, chịu thử như tôi coi ra sao mấy người biết. Từ lúc mới vô dĩ chí cho tới mãn lễ, không có lúc nào ở không, luôn luôn Hành Pháp không nghĩ, tới xong lễ lại lên giảng đài Giáo-đạo cho con cái Đức Chí Tôn, nếu ngày kia có tuổi thêm chút nữa, chắc làm không nỗi, không thể đứng nổi, chịu không nổi nữa.
Hạng nhứt dòm trở lại thấy họ làm biếng đi cúng, thấy nó não-nề làm sao, thối-chí làm sao, Bần Đạo cho hay lần này là lần chót, ngày giờ nào có đại lễ như vầy, Bần Đạo ngó thấy trước mắt nếu còn sự biếng-nhác của con cái Đức Chí-Tôn, Bần Đạo không thuyết Đạo nữa, lần này là lần chót.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Từ Thượng Cổ đến giờ đã lắm người tự-nhiên biết rằng : Cả hai khuôn luật thiên-nhiên của Tạo-đoan thế nào là Thánh-ý của Đức Đại Từ Phụ cũng đã định vậy. Luật thiên-nhiên của Tạo-đoan buộc chúng ta phải nhìn nhận cái khuôn luật tối-yếu, tối-trọng của Ngài. Trong vạn-vật hữu-sinh, chúng ta thấy con người đứng đầu hơn hết, vì chúng ta linh hơn vật. Vì cớ cho nên khi chúng ta còn thiếu-niên chúng ta chưa đủ trí-thức, chúng ta vẫn thường theo một khuôn-luật là tìm sống thôi. Bởi phương bảo-vệ cái sống của mình là khuôn luật thiên-nhiên đã định vậy, hễ khi nào chúng ta tìm được lối sống tức-nhiên chúng ta làm thế nào cho chúng ta sống được. Tức nhiên chúng ta không chịu nhịn sống cho ai hết, nói rõ ra cái tấn-tuồng sống mà Bần Đạo đã thuyết cái yếu-lý của toàn-thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu này, để định vận-mạng tương-lai của họ, cái yếu-lý ấy hệ-trọng hơn hết. Hễ nhượng sống thì còn tồn tại với nhau, mà tranh sống thì tức nhiên tự-diệt với nhau vậy.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Kỳ trước Bần Đạo đã thuyết hai cái cơ-thể : Nhục-thể và Linh-hồn của chúng ta tức-nhiên là cái nguơn-linh của chúng ta vậy. Nó phải tương-liên mật-thiết với nhau, đặng nó điều-độ dìu-dẫn trên con đường Tu, tức- nhiên trong con đường Đạo của chúng ta là tánh và mạng phải song Tu, ta phải biết cái tánh của ta vẫn còn cái thú-tánh của nó, trong xác thịt thú này, ta tìm phương nào cho thoát-ly nó, đừng chịu quyền-năng của nó ràng buộc, ta phải đạt được cái tinh-thần Thiêng-liêng vô-đối đó. Chúng ta đồng-thể cùng Đấùng Chí-Linh tức-nhiên đồng-thể cùng Đạo.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Đêm nay Bần Đạo thuyết cái đề rất trọng-yếu là : Con người đi tìm Đạo, hay Đạo đi tìm người ?
…
Đạo là cơ-quan mà toàn thể nhơn-loại từ thượng-cổ đến giờ, tìm kiếm đó vậy. Họ tìm Đạo là tìm gì ? Họ tìm Đạo đặng đạt được chơn-pháp giải-thoát kiếp-sinh của họ. Nhà Phật tìm phương chước đặng diệt quả-kiếp của mình,đặng đạt cơ siêu-thoát. Đạt cơ siêu-thoát đặng làm gì ? Đặng lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật và có phương-thế đồng-thể cùng Đức Chí-Tôn đặng cầm quyền tạo-đoan của Càn-khôn Vũ-trụ, ấy là mơ-vọng của toàn-thể Nhơn-loại từ xưa đến nay đi tìm Đạo là vậy đấy.
Chúng ta tìm Đạo làm gì ? Làm cho chúng ta thoát-ly cho đặng cái thú-tánh, để bảo-tồn cái thiên-mạng của mình. Dầu cá-nhân của chúng ta, dầu toàn-thể nhơn-loại cũng vậy, duy chịu có khuôn luật ấy mà thôi.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Giờ phút này Đấng cầm-quyền cả Càn-khôn Vũ-trụ, làm Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đến cùng ta đem cái địa-vị của Ngài để trong mình của mỗi đứa, tức là Ngôi Chí-Thánh của Ngài, Ngài đến lấy cả hình-xác của chúng ta đặng làm phần-tử Thánh-thể của Ngài. Phải chăng nếu chúng ta lấy cái Triết-lý Chơn-lý ấy tìm tòi, chúng ta thấy rằng : Ông Trời đến ở cùng ta, ta là ông Trời tại thế này, Cửu Phẩm Thần Tiên ở trong Thánh Thể của Ngài, Thần, Thánh, Tiên, Phật, Ngài đem để trong tay của chúng ta cả thảy. Lý-do là Đạo đến tìm ta, chớ ta không có tìm Đạo. Thượng-cổ không biết chừng nhiều Đấng đã muốn trông thấy như ta đã trông thấy, và họ muốn đặng như ta đã đặng hôm nay, nhưng họ chưa đặng mà chúng ta đã đặng.
Ấy vậy Bần Đạo quả quyết rằng, xưa kia thiên-hạ tìm Đạo một cách khó-khăn mà giờ phút nầy ta lại thấy Đạo đến tìm ta.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Hồi chiều mấy anh em chúng tôi có ngồi luận Đạo với nhau, đặng nhắc Ngài. Khi Đức Chí-Tôn mới đến Ngài có than rằng :
"Cười khan mà khóc bởi thương
bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy,
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".
Ông thấy mình tội-tình quá lẽ, Nhơn-loại con cái của Ông đã sa-ngã,đã tội-chướng quá nhiều chính mình Ông cầm gậy đến ở cùng con cái của Ông. Một là tìm phương giải-tội cho nó. Hai là tìm phương đem quyền-pháp cơ-quan siêu-thoát đến trong tay nó. Nếu toàn-thể con cái từ Tín-đồ dĩ-chí Thiên-phong Chức-sắc không có đạt vị đặng, dám chắc khi trở về cõi Thiêng-liêng Hằng-sống cái hổ-nhục chẳng thế gì chúng ta thấy đặng các bạn của chúng ta đặng tiếp chúng ta nơi cửa hư-linh đó vậy, và lẽ sao đạt không đặng không có gì tệ mạt hơn.
Đền Thánh, đêm 18 tháng 2 năm Nhâm Thìn (1952)Về: Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.
Thiệt hiện cho được một Đạo Nhơn-luân của chúng ta, chữ hiếu là đứng đầu hết, không trọn hiếu thì không thế gì làm mọi điều khác được, chúng ta muốn có một nghiệp Đạo của mình cho đặng tận-thiện tận-mỹ vĩ-đại, có thể nói rằng ta muốn cho danh-thể tồn-tại nơi mặt thế này bền-bỉ lâu dài, đại-nghiệp thiệt của chúng ta nói rằng :
"Lập thân Hành Đạo dương danh ư hậu thế, dĩ hiễn phụ mẫu hiếu chi chung dã"
Ta làm Đạo lập thân danh ta là ta đã làm được trọn hiếu đó vậy, mà Hiếu là căn-bản đầu tiên hết.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Trí giác Cung, ngày 25 tháng 2 năm NhâmThìn (1952)Trong phiên hội về Phạm phủ-từ.
Bài học đầu tiên vô trường học Đạo lập thân danh để lại hậu thế, là dìu dẫn Tông Đường cho vinh-quang, tạo hạnh-phúc Tông-đường được to lớn, vì từ trước đến giờ Đạo Cao-Đài lấy Tông-đường làm nền móng cho Đạo, Không vì Đạo mà vì Tông-đường ta tạo dựng, ngày kia ai không Đạo họ cũng về Tộc họ, như vậy công-nghiệp mấy em đối với Đạo Cao-Đài một cách gián-tiếp đó vậy, mấy em đã không thất Đạo, mà lại là một gương vĩ-đại đối với Đạo mà chớ !
Hiếu-nghĩa là đầu hết của các mối Đạo đó, ấy vậy giờ phút này chúng ta vì hiếu-nghĩa mà làm, hiểu nghĩa mà thiệt hiện không đặng, thì đứng trong cửa Đạo cũng như hình gỗ, dám chắc không bao giờ hữu-dụng được.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Trí giác Cung, ngày 25 tháng 2 năm NhâmThìn (1952)Trong phiên hội về Phạm phủ-từ.
Bần Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích-Ca dầu sự trị-thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm (2.500) năm lập Đạo trên cõi Thiêng-liêng Hằng-sống kia, Môn Đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông Già ăn mày ấy không đủ quyền-năng, mà các người khi dễ. Nội cái bình Bát-du của Ông đựng cả Chơn-hồn trong Càn-khôn Vũ-trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà Ngôi Vị Cực-lạc Thế-giới của Ông các người xin một phẩm Liên-hoa, Ông có thể cho, là một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn-đệ của Ngài trên cõi Thiêng-liêng Hằng-sống nhiều lắm.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1952) Về: “Quyền-năng Đức Thích-Ca”.
Bần Đạo nói thật mấy Chị, Ôi ! Không phải kiếp-sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần Đạo đã chán biết khó-khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho mình nặng-nề khổ-não về tinh-thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân Thiêng-liêng, chúng ta lấy trí-khôn ngoan để suy-đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn-ngoan công-chánh mà phán-đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái xác-thịt nó không phải ở đây cho đến lúc tận-thế đa nghe ! Kiếp sống tại thế-gian này của mấy người không mấy lát, cao-trọng cần-yếu hay chăng là phần hồn, đừng sa xuống Địa-ngục, đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải-thoát lắm đa nghe ! Còn phần xác là xác, hồn là hồn, mình lấy cái trí-não của mình, lấy cái trung-dung của mình làm sao cho Đạo có công-chánh, hoà-bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này, phụ bên kia, là khôn ngoan hơn hết.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1952) Về: “Quyền-năng Đức Thích-Ca”.
Còn một cái trọng-yếu hơn nữa là phải nhớ luôn-luôn phụng-sự Đức Chí-Tôn, công-nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi Ông Già đó chẵng chịu thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương-thế lập-vị chúng ta rồi, mà chúng ta còn dư-thừa công-nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại trong Cửu-huyền Thất-tổ của ta chưa chắc họ đều siêu-thoát đặng, để chút của-cải ấy đặng độ họ, tội-nghiệp biết đâu trong Cửu-huyền Thất-tổ của mỗi đứa ta lại không có người ở dưới Phong-đô, rán tiện-tặng chút đỉnh cho có của-cải Thiêng-liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp-sanh của mình. Đức Chí-Tôn có nói :
"Đài Vân Quan Võ để Phong Trần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân,
Muôn Đức ngàn Lành không sót một,
Bao nhiêu Công-Quả bấy nhiêu phần".
Đấng đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1952) Về: “Quyền-năng Đức Thích-Ca”.
Đã ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo chân Đức Chí-Tôn mà không biết tự mình tìm phương giải-thoát, dầu chúng ta không mong-mỏi cứu-độ Cửu-huyền Thất-tổ đi nữa, cũng mong-mỏi tự giải-thoát cho mình là trọng-yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta Tu đây trông mong cái gì ? Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí- Tôn đã để :
"Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn,
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt
Biểu thương sao đặng buộc người thương".
Thử xét lộn lại một ngày kia, mấy người về cõi Thiêng-liêng mà ngó thấy Tôi đứng giữa không-trung đó, mấy người kêu Tôi biểu Ông cứu-độ tôi, vì hồi đó tôi có gặp Ông tại thế, thì bây-giờ Ông cứu-độ tôi với, tình-trạng đó Tôi biết trả lời với mấy người làm sao chớ ? Có thể một ngày kia Tôi sẽ dâng sớ cho Đức Lý lập một hình-phạt, hình phạt của Tôi ngộ-nghỉnh lắm : Không cho Phái nữ đi vô Đền-Thánh một thời gian, hành lễ ngoài sân một thời gian, bằng xin không được nữa, thì không khi nào lên Chức-sắc Thiên-phong được với Tôi mà chớ !
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1952) Về: “Quyền-năng Đức Thích-Ca”.
Đêm nay Bần Đạo xin giảng cái thiệt phận của chúng ta đối với Vạn- Linh, tức nhiên cái thiệt phận của chúng ta đối với bạn đồng-sinh của chúng ta. Phải chăng chúng ta khổ vì cái sống của chúng ta mỗi ngày, hễ còn ngày nào sống, chúng ta vẫn bị khuôn-luật bảo-vệ sống còn ấy, nó làm cho chúng ta phai-lợt một tâm-tình của chúng ta đối với bạn đồng-sinh của chúng ta, nghĩa là vì chúng ta đã quá khổ, chúng ta đã vô-tình với bạn chúng ta đó vậy.
Chúng ta thử để cái trí-não bình-tĩnh một lúc cũng như các thi-gia, các văn-sĩ kia để rảnh-rang cái trí-não của mình giây phút dòm cả vạn-vật đồng- sinh với ta, rồi chúng ta tìm-tòi hiểu cái khuôn-luật Thiên-nhiên kia đã định phận cho họ thế nào ? Thì ta biết cái định-phận của ta thế ấy. Vạn-vật đồng- sinh với ta, tức-nhiên bạn đồng-sanh với ta trên mặt thế này có cái khuôn- luật hiệp-quần. Hiệp-quần cốt-yếu để bảo-thủ cái sanh-mạng của mình đối với một năng-lực đa-số, tức-nhiên cái năng-lực mạnh-mẽ hơn cái năng-lực cá-nhân mình, dầu cho ong kiến hay các thú-vật, hiển-nhiên trước mắt của chúng ta đã ngó thấy cái khuôn-luật ấy nó buộc mình phải sống hiệp-quần với nhau mà thôi. Thảng như có cái tình-cảnh éo-le mà họ phải lìa cái đoàn- thể của họ, nó tỏ ra trước mắt ta ngó thấy cái tình-trạng buồn-thảm thê- lương thế nào ? .
Các thi-gia khi cầm cây bút để tinh-thần thi-sĩ của mình dòm vạn-vật ngó thấy cái cảnh-tượng ấy, nó làm cho họ cảm-kích thế nào ? Chúng ta thử thấy một buổi chiều kia trời hầu khuất, vạn-vật đìu-hiu, giữa không-trung một con nhạn lạc nào nó bay vơ-vẫn một mình, đời nó chích đôi lìa bạn không có đoàn-thể thì cái tâm-hồn của ta nó cảm-kích thế nào ? Đau-đớn cho tình-trạng con vật đó biết bao-nhiêu mà nói. Trước mắt chúng ta đã ngó thấy con kiến, thử thấy một con kiến đã chết, đàn kiến cốt-yếu cả ngày lo ăn, duy có kiếm sống kiếm ăn mà thôi, có một con kiến chết giữa đường, nó liền bỏ phận kiếm ăn ấy, phận-sự vĩ-đại trọng-hệ là vác con kiến ấy về ổ.
Chúng ta muốn thí-nghiệm, bắt một con ong trong một ổ ong liệng vô trong cái mành-mành của con nhện cho dính, thì thấy một bầy kia nhẩy vô dính cả bầy cả lũ. Cốt-yếu đến giải-vây cho bạn, đến nước nhào vô không còn năng-lực nào cản-nổi, đã quá đông thì sẽ tiêu đứt mảnh nhện ấy, đặng cứu bạn.
Con chim ở trên trời, loài người đã khôn-ngoan bắt một con bạn của nó cột cẳng hay xỏ mũi cho dính trong bầy đặng gài, nó nhảy nha nhảy nhót, những con kia thấy cảnh thương-tâm, nó xuống chịu khổ với bạn, nên mới bị bắt.
Chúng ta ngó thấy vạn-vật, hỏi vạn-vật đã đối với nhau dường ấy, Thiên-luật định vạn-vật đối với nhau như thế. Còn ta đây. Hỏi ta đối với bạn đồng-sinh của ta thế nào ? Đối với vạn-vật chúng ta có biết đau-đớn khổ-não của họ chăng ? Đối với bạn đồng-sinh của chúng ta, bạn loài người của chúng ta, ta biết có đau thảm, có sầu tủi khổ não của họ chăng, biết tình-trạng của họ sống thế nào ? Bạn khổ ta biết được định được cả cái khối đau-đớn trong thân-thể của họ, trong tâm-hồn của họ, đối với vạn-vật ta thấy cảnh thê-lương như thế. Còn trong Đạo đối với bạn đồng-sinh, bạn người của ta đây một kiếp sống trọn-vẹn chung cùng với họ, chia đau sớt thảm, tình-trạng họ như ta, hễ họ khổ thế nào ta khổ thế đó. Rồi thử chúng ta làm bộ để dấu hỏi thiệt-phận của chúng ta đối với họ thế nào ?.
Hại thay ! Trong vạn-vật dầu cho thú-cầm côn-trùng đi nữa cũng như quả kiếp con người. Nó có nguyên-vật, hoá-vật, quỉ-vật như người vậy. Nó cũng bị quả kiếp vậy. Trong khi quả-kiếp ấy, khuôn-luật quả-kiếp ấy, nó có thể để cho chúng ta biết rằng : Con người của ta duy có Tu, chơn-tu của mình có thể đầu-kiếp lên trong cảnh hiền-lành chất-phát, còn những kẻ không Tu thì hung-hăng bạo-ngược. Con vật kia cũng thế, hễ nó có thiện-căn của nó, nó hiền-lương, kêu là lương-vật. Bởi như thế có quả-kiếp thì nó phải vay trả với nhau thành ra ác-vật, chẳng phải vì ác-vật ấy mà ta bỏ qua lãnh- đạm với bạn đồng-sinh của ta, chúng sẽ để câu hỏi : Ngài thật hiền-lương ạ ! Ngài thương vạn-vật, như con cọp, như beo, thú kia, Ngài định-phận nó như thế nào ? Bần Đạo nói nó đã bị quả-kiếp, một ác-kiếp của nó, ta duy có biết thương quả-kiếp yêu-nghiệt của nó. Cũng như loài người, con người kia sẽ hỏi Ngài, có tình-cảm đối với tất-cả kẻ hiền-lương nhơn-đức, kẻ hung-bạo tàn-ác kia đã giết người cướp của, tàn-sát thiên-hạ kia có tình-cảm với họ, đồng với tình-cảm kẻ thiện-lương kia chăng ? Chắc Bần Đạo cũng trả lời như thế ấy. Vì quả-kiếp nó tàn-ác : Con đường đi lên nó không đi, nó đi xuống mang thú-hình, thì ta thây kệ nó. Ta chỉ biết đau-đớn tủi-hổ dùm cho nó vậy thôi, ta chỉ biết khóc với giọt huyết-hệ của ta với nó mà thôi, chớ chúng ta không có quyền oán-ghét nó, bởi kiếp-sống nó đau-khổ như kiếp-sống của ta. Lời tục ta có nói :
- Đồng bịnh tương thân.
- Đồng khí tương cầu.
Của nó thế nào ta thế ấy, đau khổ nó thế nào ta thế ấy, không quyền ghét bỏ tàn-sát nó. Đó là thiệt-phận của ta đó vậy.
Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, Đêm 14 tháng 4 năm Nhâm Thìn (DL. 7-5-1952) Về: “Cái thiệt phận của chúng ta đối với vạn-linh”.
Không có hy-sinh nào cao-thượng hơn là dám hy-sinh tính-mạng của mình cho kẻ khác, không có cái hy-sinh cao-thượng nào hơn là hy-sinh mình đặng bảo thủ Nhơn-Nghĩa, đặng làm cho tiêu-diệt cả cường-quyền.
Toàn- thể con cái của Đạo đã hy-sinh một cách sang-trọng, một cách vô-đối, có lẽ sự hy-sinh ấy, sẽ làm môi-giới cho toàn thiên-hạ, các sắc dân trên mặt địa-cầu này đi đến cảnh hoà-bình đại-đồng thế-giới.
Trích Đáp từ của Đức Hộ-Pháp nhân buổi tiệc chúc mừng sinh-nhật Đức Ngài. Tại Trí Huệ Cung, ngày mùng 5 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952).
Đêm nay Bần Đạo giảng hai chữ "Tín Ngưỡng".
Tín-ngưỡng. Tiếng ngưỡng ấy Đức Đại Từ Phụ đã có nói Nguỡn, thiệt tiếng Việt Nam gọi là Nguỡn bị cấm tự nghiã là tên một vị Đế Vương trào nào đó, rồi mình sửa cải đọc trại lại thành ra là Ngưỡng.
Tín là tin, Ngưỡng là cậy, Tín Ngưỡng tức-nhiên là tin cậy, tiếng Việt chúng ta đã nói từ xưa đến giờ. Ngày xưa thời phong-kiến danh từ Tín Ngưỡng có nghĩa là :
"Tin cậy với sự thành kính một Đế Vương hào kiệt nào ? ".
Chữ tín ấy trong Đạo-giáo đã tôn-trọng coi nó là yếu-trọng vô-cùng, nên để cho nó là một cái Đức, gọi là Đức-Tin. Cái Đức-Tin Bần Đạo có dịp viết ra cho Chánh Phủ Pháp buổi nọ biết, sự tin của Đức-Tin ấy. Bao giờ con người cũng phải có, nếu không có tức-nhiên con người đó chẳng hề khi nào làm phận-sự con người cho đúng đặng và cũng nói rằng không thế nào làm người nên đặng mà chớ.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm-thìn (1952) Về: “Hai chữ Tín-ngưỡng”.
Đêm nay Bần Đạo giảng hai chữ "Tín Ngưỡng".
Tín-ngưỡng. Tiếng ngưỡng ấy Đức Đại Từ Phụ đã có nói Nguỡn, thiệt tiếng Việt Nam gọi là Nguỡn bị cấm tự nghiã là tên một vị Đế Vương trào nào đó, rồi mình sửa cải đọc trại lại thành ra là Ngưỡng.
Tín là tin, Ngưỡng là cậy, Tín Ngưỡng tức-nhiên là tin cậy, tiếng Việt chúng ta đã nói từ xưa đến giờ. Ngày xưa thời phong-kiến danh từ Tín Ngưỡng có nghĩa là :
"Tin cậy với sự thành kính một Đế Vương hào kiệt nào ? ".
Chữ tín ấy trong Đạo-giáo đã tôn-trọng coi nó là yếu-trọng vô-cùng, nên để cho nó là một cái Đức, gọi là Đức-Tin. Cái Đức-Tin Bần Đạo có dịp viết ra cho Chánh Phủ Pháp buổi nọ biết, sự tin của Đức-Tin ấy. Bao giờ con người cũng phải có, nếu không có tức-nhiên con người đó chẳng hề khi nào làm phận-sự con người cho đúng đặng và cũng nói rằng không thế nào làm người nên đặng mà chớ.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm-thìn (1952) Về: “Hai chữ Tín-ngưỡng”.
Đức Khổng-Tử có nói : Bất học nhi tri, phi thánh nhi hà, Ngài chỉ biết nói rằng :
" Thiên Kinh vạn điển bất vị nhi giáo nhơn nhứt ngôn thiệt thiện"(Dầu cho Thiên Kinh vạn điển không bằng dạy người một lời lành).
Thiên hạ đã để nơi thế gian này 2.000 triệu cuốn sách mà ở trong đó chỉ tổng-số có một điều là : Kiếm phương-pháp dạy người đặng lành, từ thử tới giờ khuôn-luật ấy vẫn một mà thôi.
Hỏi, Đức Chí-Tôn đã đến chung hiệp cùng ta đem nền Chơn-Giáo của Ngài để trong Thánh-Thể của Ngài, để trong cửa Thánh bây giờ đây, ta để dấu hỏi, Ngài muốn tìm gì ? Thật sự Ngài tìm lành, Ngài muốn cho con cái của Ngài lành, sự hung-bạo của thế-gian đã quá lắm rồi, Ngài đến Ngài trồng giống lành, đặng làm hoàn thuốc cứu loài người, là hoàn thuốc Cứu-Khổ.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm-thìn (1952) Về: “Hai chữ Tín-ngưỡng”.
Bần Đạo giảng rằng : Nền Chơn-Giáo của Ngài là một khối lành vô-đối của thế-gian đương mơ-vọng, đương khao-khát đặng hưởng lấy nó. Hưởng cho đặng nó, đặng bảo-vệ sanh-mạng của mình. Nếu khối lành này, không hiện-tượng được thì sự hung-bạo của Nhơn-Loại sẽ xô-đẩy họ đi đến con đường tận-diệt mà chớ.
Ấy vậy, trước khi muốn làm sứ-mạng Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã giao-phó cho ta, cái sứ-mạng ấy trọng-yếu thế nào Bần Đạo không cần phải nói, cả toàn-thể con cái của Ngài trước qua sau đến, không biết chừng Thánh-Thể của Ngài nó phải còn tồn-tại mãi mãi, mới đặng chắc-chắn vững- bền khối lành của Ngài, ấy sẽ làm hoàn thuốc phục-sanh cho thiên-hạ. Muốn đặng thế ấy thì ít ra con cái của Ngài phải thâu đoạt cho được cái Tha-Tín của Nhơn-Loại hay biết lành của họ, biết ác của họ, đặng tạo dựng Tự-Tín của mình, Tự-Tín đặng có thể tìm nên giải-pháp đặng cứu-vãn sanh-mạng của họ, giờ phút nào hiện-tượng được cái đức-tin ấy, mà toàn-thể Thánh-Thể của Ngài phải đạt cho kỳ đặng mới có đủ năng-lực cứu-vãn toàn-thể sanh- mạng của Nhơn-Loại, tức-nhiên con cái của Đức Chí-Tôn đó vậy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm-thìn (1952) Về: “Hai chữ Tín-ngưỡng”.
Ngày giờ nào khối Tự-Tín trong cửa Đạo này chưa thành lập, thì Nòi Giống Việt-Nam phải chịu tai-nạn tương-tàn trước nhứt hơn hết, trước các chủng-tộc khác, chịu một thứ tại-nạn khổ-não, nếu không có phương-pháp giải quyết được, vì chính Quốc-Dân Việt-Nam đương làm cơ-khí cho Đức Chí- Tôn tạo dựng Đức-Tin ấy. Ngày giờ này sẽ làm cho Nòi Giống Việt-Nam tuyệt-chủng trước, rồi thiên-hạ sẽ tuyệt-chủng sau, nếu Cơ-Quan Cứu-khổ không thành, Đạo phải cố-gắng mới đặng, Bần Đạo cho hay rằng : Thành- tựu hay chăng là do nơi tâm-hồn thiên-lương của con cái Đức Chí-Tôn đào- tạo, tâm-hồn Thánh của Ngài đã tạo dựng từ trước. Bần Đạo gởi gấm cả khối lành ấy trong tay toàn-thể con cái của Ngài, cả Nam và Nữ làm phương- châm giải-khổ và gầy toàn hạnh-phúc cho toàn Nhơn-Loại.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm-thìn (1952) Về: “Hai chữ Tín-ngưỡng”.
Đêm nay Bần Đạo giảng về sự khó-khăn của Đạo Tâm, vì chúng ta phải đương-đầu với phàm-tánh. Tiếng Đạo tâm Bần Đạo đã giải rõ, Tiên- Nho chúng ta khi trước không có lấy tiếng chi mà tả được cái Huyền-Bí Tạo- Đoan nên đã dùng tiến "Tâm" chỉ vật Vô-Hình ấy gọi là : "Cường danh viết Đạo" Mượn danh ấy đặng chỉ vật vô-hình mà thôi, thật sự Đức Chí-Tôn đã đến giải rằng chữ "Tâm" thiên-hạ đã dùng để chỉ cái nguơn-linh của chúng ta đó vậy. Cái nguơn-linh là Tâm thuộc về Đạo, là cả cơ-quan tạo-đoan của Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái bí-mật đã sanh-sanh hoá-hoá, vạn-linh tức là nguyên- linh của chúng ta, đó cũng là huyền-bí của Càn-Khôn Vũ-Trụ, hễ chúng ta đã nói rằng: Nguơn-linh của chúng ta, thì hai tiếng nguơn-linh ấy chúng ta đã tầm hiểu do Đấng Chí-linh sản-xuất, mà xuất nơi Đấng Chí-linh tức-nhiên nó là một phần-tử vạn-linh và nó đã xuất-hiện trong chí-linh mà ra, tức-nhiên cả cơ-quan tạo-đoan của Càn-Khôn Vũ-Trụ nó đã có một phần-tử nơi đấy, hễ chúng ta đã nói rằng có thể suy-đoán cơ-thể chủ-quyền của Càn-Khôn Vũ-Trụ, thì chúng ta có thể nói rằng : Nó có thể làm chủ cả cơ-thể tạo-đoan nơi mặt Địa-Cầu này. Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại thế nào thì cái nguyên-linh của ta nó cũng phải đạt đặng nguơn-linh nó mới chịu, vì cớ cho nên Bần Đạo đã thường nói cái tương-lai của loài người họ sẽ đi đến mục-đích làm chủ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ nơi mặt thế hữu-hình này, hay họ sẽ làm Ông Trời tại thế này đó vậy. Hễ nói rằng có tánh-chất Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải quảng-đại bao-la, cơ-thể tạo-đoan vĩ-đại thế nào thì nguơn-linh của chúng ta phải vĩ-đại như thế ấy, Càn-Khôn Vũ-Trụ huyền-bí thế nào, cái nguơn-linh của chúng ta phải nương theo huyền-bí ấy thế đấy.
Bởi vậy cho nên, nó tự biết phạm-vi nó là Trời, nó thấy cả sự đau-khổ của Nhơn-Loại đã chịu, nó đã biết cái đau-khổ của nó, mà nó hoài-bão cám- cảnh yêu-đương kính-trọng cái khổ của thiên-hạ, khổ của toàn-thể nhơn-loại, nó đã biết cái sống của nó rằng khổ, nó phải thương cái sống của thiên- hạ, nó biết cái giả của nó khổ, nó phải thương cái giả của thiên-hạ, nó biết bịnh của nó là khổ, nó phải thương cái bịnh của thiên-hạ, nó biết cái chết của nó là khổ nó phải thương cái chết của thiên-hạ.
Cái tánh-châát nguơn-linh của chúng ta, tức nhiên Đạo-Tâm của chúng ta đây vậy, nó phải quyền-năng chủ-định của nó, nó phải có quyền-năng làm chúa cái sở-năng của nó, nó có thể cải được cái quyền-lực của Quả-kiếp Luân-hồi, nó có thể sửa-cải đặng đạt cơ giải-thoát đặng định-chủ lấy nó. Ấy vậy cái Đạo-tâm của ta là thế đấy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 5 năm Nhâm Thìn (DL. 21-6-1952) Về: “ Sự khó khăn của Đạo Tâm”.
Bao giờ phàm-tánh là vật hình vẫn hoài-bão tánh-chất thú của nó, mỗi sự chi làm cho nó phải ham-muốn, vừa ý thích của nó theo cái năng-lực của nó mạnh-mẽ thế nào, nó thấy được sắc đẹp nó ham, nó mê, nó nghe được một tiếng thanh-tao nó biết muốn mê-mẫn, nó nghe được mùi-vị thơm-tho ngon ngọt nó biết ham ăn, ham ngửi, nó thấy một cái địa vị sang-trọng, nó biết giục tâm chiếm đoạt cho đặng, rồi nó dùng đủ phương-pháp đòi hỏi cả tinh-thần nó đem ra thi-thố mâu-thuẩn đoạt được sở-vọng của nó, nó ham- muốn phú-quí, giàu-sang trên mặt địa-cầu, cái vật hình dù đã làm cho nó kích-thích, nó lấy cả tinh-thần làm năng-lực nó làm sao đặng, có nhiều khi trước cảnh-ngộ ấy, chúng ta ngó thấy Đời Đạo đang tương-đối cùng nhau. Một bên đạo-tâm giải-quyết thắng phàm-tánh, mà hại thay ! Không thể dễ gì thắng.
Tiên-Nho của chúng ta đã nói trước một đạo binh có thể thắng một trận giặc muôn binh kia, mà ta thắng với phàm-tánh của ta rất khó, không thể đoán đặng. Nếu chúng ta thắng được phàm-tánh chúng ta, cái đạo-tâm chúng ta đủ năng-lực thắng đặng, tức-nhiên là cái cơ-quan tự-giác chúng ta đạt đặng.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 5 năm Nhâm Thìn (DL. 21-6-1952) Về: “ Sự khó khăn của Đạo Tâm”.
Ta có đạt được năng-lực tự-giác của mình, ta mới có thể giác thiên-hạ, tức-nhiên thức-tỉnh toàn thể thiên-hạ, tự-giác nhi giác-tha là thế ấy. Phương-pháp tự- giác mà Phật, Đức Chúa Jésus Christ hay các vì Giáo-Chủ đã tìm cái bí- quyết ấy chuyển cả các bí-mật của các nền Tôn-Giáo. Chữ Tu ta để dấu hỏi, cái thực-hành tiếng Tu của thiên-hạ đã tìm cái cơ-quan tự-giác ấy họ đã đặng chưa? Cả thảy chúng ta đều để dấu hỏi mờ-hồ, nếu toàn thể thiên-hạ đạt đặng cơ-quan bí-pháp tự-giác ấy, thì Bần Đạo dám chắc nơi thế-gian này cả thảy thiên-hạ là Thánh, mà giờ phút này họ phàm, thì Bần Đạo nói có một phần thiểu số đạt đặng chớ không phải cả toàn thể thiên-hạ đạt đặng.
Đức Chí-Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí-Pháp có một điều là :
“Các con không cần tìm kiếm Triết-Lý cao-siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn- thể bạn đồng-sinh của các con, rồi kỉnh-trọng phụng-sự cái sống ấy. Hễ các con tận-tâm phụng-sự cái sống của Vạn-Linh, thì cơ-quan giải-thoát của các con, Thầy đã để nơi tay của các con đó vậy”.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 5 năm Nhâm Thìn (DL. 21-6-1952) Về: “ Sự khó khăn của Đạo Tâm”.
Đêm nay Bần Đạo giảng về Luật Nhơn Quả.
Hai chữ Nhân, Quả là hai danh-từ mà Tiên-Nho đề chung thành chữ “Nhân-quả”. Chữ Nhân ấy đóng khuôn chữ “Đại” Chữ Nhân theo nghĩa chánh của nó là “bởi vì”, hay “theo đó”. Nói luôn theo Quả, thì Quả là “kết cục của việc” còn có nghĩa là chắc-chắn mạnh-mẽ, chúng ta thường hay dùng tiếng quả-quyết lắm, dùng chữ quả-quyết hay mạnh-mẽ chẳng hạn.
Nhân-quả là cái nguyên-nhân và kết-quả (causes et effets), còn quan-hệ nhân-quả (causalité) có nghĩa là cái nguyên-nhân thuở trước sinh ra quả-báo ngày nay. Luật Nhân-quả (Principe de causalité) cho rằng sự-kiện nào cũng đều có nguyên-nhân của nó và cùng những nguyên-nhân đó sẽ sinh ra cùng kết-quả của nó.
Chữ Nhân-Quả dịch ra nghĩa lý tiếng Phạn là tiếng Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa là : Làm cái chi phải trả cái ấy, phải bồi thường, ta có thể hiểu nó là khuôn luật "vay trả" đó vậy.
Khuôn luật ấy huyền-bí vô-cùng, tại liên-hệ với chữ Karma. Quyền Chí-Tôn tiếng Phạn đề "Boudha, Shama, Saya". Tức-nhiên câu niệm của chúng ta : Phật, Pháp, Tăng. Tiếng Karma liên hệ với Pháp như thế ấy, có định Luật Thiêng-Liêng của nó, vì không thể lấy trí khôn-ngoan của chúng ta mà suy-đoán luận-biện cho đặng. Chúng ta thấy cũng như cả toàn-thể từ xưa đến giờ dầu cho bực Thánh-Nhân Hiền-Triết ta để con mắt quan-sát tiềm-tàng thấy khuôn-luật ấy nó vô-hình mà nó quả-quyết làm sao, chắc-chắn làm sao. Người ta kiếm tìm khuôn-luật ấy thì thấy rằng : Có một quyền-năng vô-đối là Quyền-năng của Đức Chí-Tôn, tức-nhiên Đấng tự-hữu kia để trong tay Đấng đó mới có thể cầm-quyền về khuôn-luật đó mà thôi.
Bởi sự quan-sát ta thấy Luật Nhơn-Quả ấy về cá-nhân cũng thế, gia- đình cũng thế, xã-hội cũng thế, mà nói chung toàn-thể nhân-quần trên mặt Địa-Cầu này cũng thế. Nhân-Quả ấy, người ta đã tìm hiểu thấu-đáo, hễ càng tìm-tòi càng thấy kinh-khủng làm sao.
Tỉ như một gia-đình, trong một cơ-quan tạo-dựng gia-đình ấy, nó do nơi ác-hành tạo-dựng, thì gia-đình ấy chẳng hề tồn-tại. Một xã-hội nào, một quốc-dân nào do nơi ác-hành mà tạo-nghiệp, thì xã-hội đó, quốc-dân đó không bao-gờ bền-vững. Nếu chúng ta không nói quả-quyết rằng nó sẽ bị tiêu-diệt mà chớ ! Nhơn-quần và cả nhơn-loại giờ phút nầy chúng ta thấy quả-quyết làm sao không thể gì luận được.
Luận về nhơn-quả cá-nhân ta hay một đại-nghiệp ta nói : Tỉ như Tần- Thủy-Hoàng, muốn đem Văn-hiến của Ấn thay thế Văn-hiến Nho dám đang tay khi Nho, đốt sách chôn học trò, tưởng thi-hành thủ-đoạn ấy tiêu-diệt nhà Nho được, Bần Đạo không nói cả cơ-nghiệp của Tần mà thôi, mà cả cá-nhân của Tần-Thủy-Hoàng cũng vậy. Ngài Sở-Bá-Vương vô lấy Ly-Sơn rồi biết Tần-Thuỷ-Hoàng chôn nhiều vật báu, khi đào lên thì của báu ấy đã tiêu-huỷ. Chúng ta tưởng coi có một đại-nghiệp của Hớn, Hớn-Bái-Công đã lấy tính Đức lập-nghiệp, lấy Nhơn-Nghĩa làm căn bản tới 800 năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn Hiến-Đế nối-nghiệp, qua Hớn Chiêu-Liệt tức-nhiên Lưu-Bị biết khí-số nhà Hớn đã mãn, muốn kiếm phương kéo dài mãy mún, tức-nhiên để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp quý vô cùng, Ngài nó với Hậu Chúa tức nhiên Á Đẩu rằng :
- Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi,
- Vật dĩ thiện tiểâu nhi bất vi.
Nghĩa là đừng vì ác nhỏ mà làm và cũng đừng vì vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá-nhân hay xã-hội đều đứng trong khuôn-luật ấy cả.
Bây-giờ nói về Tôn-Giáo, thì Đức Phật Thích-Ca cầm Bình Bát đi xin ăn đặng nuôi kẻ nghèo nàn đói khó nói "Cấp Cô Độc Viên" mà cái Đạo của Ngài tới 2.500 năm vẫn còn bền vững, nó vẫn giàu có cả Văn-Minh Phật- Giáo đã truyền-bá toàn cõi Á-Đông này, nếu chúng ta thấy của-cải vô-biên vô-tận của nó, chúng ta không thể gì tính-toán được (vô toán).
Thêm nữa Đấng chịu khổ-nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn-hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá "Lên án là kẻ côn-đồ" kẻ hung-bạo, cướp-bóc. Đấng ấy đã tạo Đạo của Ngài. Giờ phút này nếu cả toàn-mặt Địa-Cầu này cũng chưa có ai sang cả cho bằng.
Nhơn-Quả của một người tạo-nghiệp hay Nhơn-Quả của vị tạo Đạo; hai cái đó trọng-yếu vô-cùng không thể gì luận được.
Nãy giờ nói của người ta, bây giờ mình phải nói tới của mình. Đức Chí- Tôn nói với môn-đệ của Ngài. Ngài lấy kẻ nghèo khó, hạng nhứt là Ngài đến với một Quốc-Dân hèn-hạ, Quốc-Dân còn bị lệ thuộc của người, làm tôi-đòi thiên-hạ, Ngài lấy phần-tử ấy làm Thánh-Thể của Ngài mà tạo nền Chơn- Giáo, Ngài lấy Quốc-Dân nô-lệ trong giờ phút tạo-nghiệp của Đạo.
Cả con cái của Ngài tạo-dựng nên hình-tướng của nó, không cướp-bóc của ai không cầu-lụy ai cho mình mà làm cái nhân ấy quý-báu làm sao, lại nữa người tượng-trưng lấy nó, cơ thể hữu-hình là người chủ-quyền lo tạo dựng nó, thân phải hèn-hạ truân-chuyên, bị thiên-hạ áp-bức đè-nén hiếp-đáp, đến nổi thân của họ bị đồ-lưu, tù-tội, cái nhục-nhã hèn-hạ của họ, ngày nay đem vô Luật Nhân-Quả thế nào ? Thì toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn luận lại thì hiểu.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952) Về:” Luật nhân-quả”.
Đêm nay Bần Đạo giảng về Tam Dục, dục đây là lấy chữ dục tức-nhiên là nuôi.
Vả chăng trong kiếp sống của chúng ta nơi thế-gian nầy, chỉ chúng ta có 3 món cần-ích đặng định-mạng của chúng, sống nơi mặt thế này 3 món trọng-yếu ấy phải nuôi-dưỡng ta như : Thể-Dục, Trí-Dục và Đức-Dục. Chúng ta nói chữ “dục” tức-nhiên chúng ta có thể nói rằng dưỡng-dục. Ba món ấy có 3 chủ-quyền của nó đặc-biệt.
Thân-thể chúng ta đã nên người đây, đương sống đây chúng ta thọ-ân vô-biên vô-tận trong kiếp-sinh của ta là Cha là Mẹ. Nếu hai Đấng ấy không có dưỡng-dục ta, thì ta đã chết, đã tiêu xác hồi nào rồi. Điều ấy Bần Đạo không cần phải minh-biện rõ-rệt cho lắm, cả toàn thể con cái Đức Chí-Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy các con có hiểu điều ấy. Bởi thế Tiên-Nho chúng ta đã có nói : "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân". Chúng ta có nuôi con mới biết được ơn Cha Mẹ đã sanh-thành dưỡng-dục.
Ấy vậy quyền-năng dưỡng-dục về Thể-Dục ta, đó thuộc chủ-quyền Cha và Mẹ ta, nếu không có nhờ mớm cơm vú sữa thì thân ta ngày hôm nay không được làm người đấy, thử lãnh-đạm đi, thi-hài phàm-tục đã bị tiêu-huỷ rồi, không tiêu-huỷ về phương-diện này, cũng tiêu-huỷ về phương-diện khác, đừng nói chi không có nuôi-dưỡng chăm-nom săn-sóc thi-phàm chúng ta, thử nghĩ coi chúng ta có thể sống được hay chăng. Điều ấy cả thảy đều ngó thấy dễ-dàng không cần phải luận.
Trí-Dục, trí của chúng ta đã khôn-ngoan tài-tình, hễ có trí thì có tài mà ai cần dùng tài của chúng ta và ta lấy trí ấy nơi đâu mà đặng, tức nhiên ta phải nhớ đồng sống cùng xã-hội nhơn-quần, tức-nhiên đồng sống cùng chủng-tộc, ta mới có thể mở-mang trí-lực được. Có đồng sống với họ, họ mới mở quyển sách Đời cho ta đủ khôn-ngoan tài-đức, ta mới đồng sống với họ đặng. Thảng như chúng ta thiếu, Bần Đạo nói thiếu, Bần Đạo quả-quyết duyên-cớ hiển-nhiên rằng : Thử bỏ xã-hội nhơn-quần chúng ta lên non cao rừng rậm chúng ta ở từ thưở bé xuân, thì con người chúng ta sự khôn-ngoan sẽ yếu-kém, trí-thức chúng ta không thể mở-mang đặng rộng-rãi hoạt-bát như chúng ta đã đồng sống trong xã-hội nhơn-quần. Mà xã-hội nhơn-quần cần-yếu chúng ta có trí-tài đặng chi ? Đặng chúng ta mới có phương-thế giúp ích cho họ, nếu không đủ tài-trí thì chúng ta sẽ làm một con vật mà thôi, làm một vật ăn bám của xã-hội nhơn-quần không có hữu-ích gì hết. Bần Đạo nói đây cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn ngó thấy một người ngơ-ngơ không đủ trí, ngu-xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm quấy, không thế gì hiểu họ làm điều phải với hay cho đặng. Hạng nhứt xã-hội nhơn-quần sợ cái đó hơn hết, nên cần nhứt họ phải giáo-hoá mở-mang trí-lự toàn-thể quốc-dân của họ. Ấy vậy lập-trường họ viết sách, họ luận-biện họ thuyết cả lý-do chia sống của chúng ta, họ đem cả phương-pháp tạo cho đặng trí-tài ấy hầu giúp ích cho sự sống cùng toàn-thể chủng-tộc của họ.
Ấy vậy về Trí-Dục là về phần của xã-hội nhơn-quần, nói trắng ra thuộc về phận-sự tối-yếu tối-trọng của quốc-gia xã-hội của nhà-nước.
Bây giờ tới Đức-Dục phải lập Đức, họ có kiếm nơi nào không được hay chăng, không phải do quyền Thiêng-liêng mà có, chúng ta tự tạo lấy mà có, chớ không hề xin ai đặng, chưa xin ai mà đặng. Nơi mặt thế này thì bao giờ cũng tranh sống thì chẳng hề khi nào chúng ta định quyết họ đã lập Đức, với sự tranh-đấu kịch-liệt của họ, mà họ đã lập Đức đặng, chữ Đức ấy thiên-hạ đã nói khẩu-thuyết rất nhiều, mà thiết-tưởng của họ tưởng cả phần đông xã-hội nhơn-quần nơi mặt thế này, giờ phút này Bần Đạo đứng tại Tòa giảng nói rằng : Chưa biết kiếm nơi nào cho đặng phương-pháp lập Đức ấy, chưa biết nơi đâu mà họ tìm.
Nếu xã-hội nhơn-quần mà có Đức, cả toàn nhơn-loại mà có Đức, thì trường tương-tàn tương-sát đương náo-nhiệt kia không thể có được, bị họ thiếu Đức ấy, mà thiên hạ đã điên-đảo, thiên-hạ đã thống-khổ tương-tàn tương-sát với nhau, không buổi nào trên mặt thế-gian này đặng hòa-bình, là thiên-hạ do thiếu Đức.
Tiên-Nho của chúng ta chỉ có giáo-hóa dân mà thôi, đã nói một câu rất hay:
"Tích kim dĩ di tử tôn, Tử tôn
vị tất năng thủ,
Tích thơ dĩ di tử tôn, Tử tôn vị tất năng độc,
Bất như tích âm đức,
Ư minh minh chi trung, dĩ di tử tôn trường cửu chi kế".
Nghĩa là : Chúng ta để vàng cho con chưa biết con giữ gìn còn hay chăng, chúng ta để sách cho cốt yếu mong cho nó làm quan, trên thiên-hạ, khôn hơn thiên-hạ, giỏi hơn thiên-hạ, trí-tài hơn thiên-hạ, chưa biết nó đọc hay chăng, chẳng bằng chứa Đức lại mà nó vẫn còn tồn tại mãi thôi.
Lập Đức, bây giờ chúng ta để dấu hỏi Đức ấy tìm đâu mà có ? Bần Đạo lại giải-nghĩa quả-quyết rằng : Ngoài cửa tinh-thần Đạo-Đức ở đâu mà có được món ăn Thiêng-Liêng ấy, duy có trong cửa Đạo Cao-Đài này mà thôi. Bần Đạo lại còn nói quả-quyết rằng : Bất kỳ tôn-giáo nào giúp cho ta đạt đặng cái Đức, nền tôn-giáo ấy gọi là “Chơn”. Nhưng bất-kỳ tôn-giáo nào dầu họ đem lý-thuyết cao-siêu bao-nhiêu mà giục nhơn-sanh tàn-ác vô-lương thất-đức, thì nền tôn-giáo ấy bất quá là giả đạo. Chúng ta thử nghĩ lại coi cửa Đạo Cao Đài chúng ta, Đức Chí-Tôn lấy Triết-Lý nó là gì, coi chúng ta lập Đức được hay không, suy-đoán thử coi ? Ổng đến Ổng tuyển-chọn lương-sanh làm Thánh-Thể của Ổng, mà phụng-sự cho nhơn-loại đương thống-khổ, tưởng không nền Chơn-Giáo nào Tu tâm có năng-lực hơn phương-pháp ấy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 6 năm Nhâm Thìn (1952) Về: Tam-dục: “Thể-dục, Trí-dục và Đức-dục”.