CHƯƠNG IV

THÁNH GIÁO
CỦA ĐỨC THANH SƠN ĐẠO TRƯỞNG




1. Văn thơ của Thanh Sơn Đạo Sĩ

    Toà Thánh, ngày ….tháng 7 năm Tân Vị
    (Le 12 September 1931)

    Phò loan : Đức Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân
    Hầu bút : Sĩ tải Phạm Văn Ngọ


THANH SƠN ĐẠO SĨ

Chào chư Tiên Phong
Xin quyền Giáo Tông bình thân

Cười … Chư Thiên Phong cũng đã nghe danh Richelieu há ! Bần đạo khi tái kiếp đặng chuyển chánh trị Pháp triều, lúc ấy cải danh đại sĩ của bần đạo ngày nay chưa phai lợt.

Hỏi thử chánh trị Thái Tây coi có phải đã thọ hưởng chánh sách của bần đạo mà lập thành toàn cường liệt quốc ngày nay chăng ? Bần đạo nói rằng, ngoài chánh sách của bần đạo thì chưa thể có phương nào hay hơn mà lập liệt quốc cho đặng. Phép phục thuộc địa, tuy là nước Romain đã có trước thì mặc dầu, chớ kỳ trung nay đoạt đặng mà làm cho cả vạn quốc Thái -Tây đặng đại danh cũng do nơi bần đạo. Chánh sách trị thuộc địa là làm cho các sắc dân còn thiếu kem văn minh đặng đoạt gương mà vào hàng cộng hoà vạn quốc. Nước chẳng đồng văn hoá, chẳng phương nhập cảnh hoà bình, đem văn hoá văn minh làm biểu hiện mà pha cùng văn hoá các sắc dân hèn hạ, đặng nâng đỡ cho văn hoá của sắc dân ấy có đến văn minh, hầu sáp nhập vào hàng văn minh cả thảy thì toàn cầu đặng văn minh chẳng còn sắc dân nào đè nén nhau đặng. Không đèn nén nhau đặng thì phải hoà nhau, hoà nhau đặng thì đại động thế giới.

Trái lại nếu thâu thuộc địa mà còn ép bức dân tình, giục các sắc dân ấy vào cảnh đê hèn thì không mong chi đồng thể cả. Không đồng thể thì là nghịch nhau, nghịch nhau thì loạn lạc, loạn lạc thì khó hoà bình thế giới.

Cái nền chính trị thật cao minh thì nên để cho các sắc dân đều tự chủ. Còn sự an lập quốc thể thì dùng phương nào cho dân thuộc địa chịu dễ dàng, đừng dùng quyền áp bức. Nước Đại Pháp cũng còn giữ chánh sách ấy mà làm lý thuyết,còn thực hành thì lại trái hẳn, chỉ cũng tại ham muốn chosự tiến hoá mở mang thuộc địa may chóng mà làm cho dân thuộc địa tha nha thiết nhỉ, và tại nơi tham tàn của đám ô lại tham quan làm hư chánh sách cao thượng ấy đi. Bần đạo rất tiếc.

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Ghi chú : Đức Hồng Y Richelieu thuộc dòng quý phái, tên thật Amand Jean Du Plessis, Hồng Y De Richelieu, sanh năm 1585 ở Paris, quy vị năm 1642 là một trong chánh khách Pháp, năm 1606 Ngài thọ phong giám mục thị trấn Lugon, rồi đắc cử dân biểu phái Công Giáo ở hội nghị toàn quốc năm 1614. Năm 1617, Ngài lìa xứ với hoàng hậu Marie de Médicis (vợ Henri IV) năm 1622 Hồng Y De Luynes gọi Ngài về và năm 1624 Ngài được thâu nhận vào hội đồng Hoàng gia, nhanh chóng Ngài lãnh đạo hội đồng này.


    Đàn cơ tại Thánh địa Bạch Vân Kim Biên
    Ngày 26 tháng 10 Quý Dậu (15-2-1933)

    Phò loan : Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo
    Hầu đàn : Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
    Giáo sư Thượng Bảy Thanh


THANH SƠN ĐẠO SĨ

……
Thầy ngậm ngùi nhớ buổi các con hạ trần, giúp đỡ Ngọc Hư thì Lý Đại Huynh, còn Cực Lạc thì Hộ Pháp chuyển thế. Thầy chán hiểu rằng phận sự khó khăn quá sức các con nên khi ấy không cho Trưởng Ca (Là Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ) của các con giáng trần, để ở thiêng liêng nắm quyền hành chính. Thầy chẳng trách nào sự oai nghiêm của nó, nếu các con hiểu thấu thì mới biết rằng trách nhiệm của nó nặng nề yếu trọng, cầm mối thiên cơ mặt thế xây chuyển cho thuận với thiên điều không phải dễ,vì cớ mà Ngọc Hư ban quyền thiêng liêng vĩ đại, tùng phục mạng lịnh Lý Giáo Tông và Hộ Pháp đặng bảo tồn chánh giáo. Thầy (Thầy là Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ xưng hô với chư môn đệ Bạch Vân Động) lại ngăn cản các con chẳng đặng.

Khi lãnh lịnh Ngọc Hư các con quá lời quyết định, thề chuyển tân thế, lập Tân Dân. Thề ấy kiếp này Thầy rất nên sợ sệt. Thầy chỉ cầu nó thương tưởng các con nghĩ tình bằng hữu trên ngàn kiếp đăng bảo bọc đỡ nâng, gọi ơn muôn một cùng Thầy.

Thầy cũng nhìn rằng nó cố tâm giữ hứa, song nhiều phen nó đem bằng chứng nói tệ các con, Thầy khẩn cầu khoan dung lắm lúc. Thầy rất đau lòng đôi phen chịu luỵ gánh tội các con, nhưng các con cứ lần bần gây thêm ra nữa. Lúc sau này nó dâng sớ vào Ngọc Hư xin truất bỏ nhiều đứa ra khỏi Thánh Thể Chí Tôn. Thầy đau lòng quá đỗi, hễ bỏ ra khỏi Hội Thánh thì tội chuyển kiếp luân hồi. Thầy chạy đôn đáo, khẩn đảo Ngọc Hư đình đãi ít lâu cho các con chuộc tội.

Phục Thành (Đạo hiểu của giáo hữu Thượng Hoà Thanh do Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ) là đứa thứ nhì trong số. Vậy Thầy xin các con nếu biết thương Thầy rán trao tâm luyện tánh, đủ Thánh đức đạo tầm hầu làm xong phận sự đặng sum hiệp Thầy trò kẻo Thầy nhẫn nhớ trông mòn mỏi .

Bần đạo xin để lời cám ơn Chư Đại Thiên Phong, để lời cố cập cả chư đồ của Bần đạo. Đa tạ hậu tình. THĂNG


Ông giáo hữu Đặng Hoà Thanh bị Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trục xuất ra khỏi Đàn cơ đêm 27-10-Quý Dậu (14-12-1933)

Xin ghi luôn theo đây bài Thánh giáo của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ông giáo hữu Thượng Hoà Thanh.


    Toà Thánh, ngày 8 tháng 8 năm Tân Vì
    ( Le 15-9-1931)

THANH SƠN ĐẠO SĨ
Hĩ chư Đại Thiên Phong và chư Đạo hữu nam nữ
Xin Quyền Giáo Tông bình thân, đa tạ, đa tạ !
Thầy mừng hai con Phong Chí và Từ Huệ (Phong Chí là đạo hiệu của ông giáo sư Thượng Bảy Thanh, Từ Huệ là đạo hiệu của ông giáo hữu Thượng Tuy Thanh )

Hoà ! con ngày nay đã định vị. Thầy cũng lắm phen cầu khẩn Ngọc Hư. Cái thâm tình của Thầy còn rơi dấu tại Thanh Hoá (là nơi cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng học với ông bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lúc sinh thời 18 tuổi, còn am Bạch Vân của Ngài ở tỉnh Hải Phòng là nơi sinh quán. ), anh em Bạch Vân Động của con lắm đứa còn nương đất Bắc, chẳng nỡ lìa vì còn dấu tích của Thầy buộc ràng chúng nó nơi ấy. Vậy Thầy cậy con để hết tâm trí, gieo nguồn Thánh giáo nơi ấy mà cứu nạn cho quê hương. Con đã rõ Thầy thương mến Bắc địa của mình dường nào thì con cũng thể lòng yêu mến dường ấy. Thầy lại cậy con để lòng lo sùng tu Bạch Vân Động hữu vi của Thầy lại, vì là một nơi Thầy lựa chọn rất xứng đáng cho ngày hội hiệp các con.

Thầy cho hai câu liễn và nhắc Thánh danh con. Cười..

    Phục Thế tại Nhơn Hoà
    Thành Cô tùng địa lợi

Lấy hai chữ đầu đó thì biết danh con. Nội gia đình con Thầy giúp đỡ không chi phòng ngại. Còn truyền giáo tuy coi khó, nhưng khó ấy là phép làm để cho con. Cười …

Cái lập thệ của Bạch Vân rất hệ trọng, con khá nghĩ đến mà gắng công. Nếu cả các con không tròn phận sự thì Thầy cũng phải mất ngôi mà tái kiếp. Khó viết quá ! - THĂNG


    Hộ Pháp Đường, mồng 1 tháng 10 năm Aát Hợi
    (dl 26-11-1935)

BAÏCH VÂN ĐỘNG THANH SƠN ĐẠO SĨ

Bần Đạo chào chư thiên phong và các con Bạch Vân Động.
Kiếu lỗi cùng chư Đại đức, cho phép Bần Đạo chuyện vãng với chư môn đệ của Bần Đạo một lát kẻo đã lâu cách biệt tội nghiệp chúng nó.

Các con nghe Thầy :

    Nắm chặt khuôn linh sửa nết trần
    Nên hư để phó mặc Hồng Quân
    Chòm mây bạc cũ là Tâm chí
    Khối tuyết trong xưa ấy trí thần
    Đường đột đôi phen gầy thế cuộc
    Oàn ào lắm lúc độ nguyên nhân
    Đã hay căn nghiệp là tên độc
    Mà cũng liên hoa thoát tục trần.

Các con nhớ lời Thầy căn dặn rằng, may duyên đặng gặp Chơn Quân tại thế, nương bát nhã độ sanh thì công nghiệp ấy có ảnh hưởng vinh diệu cho Bạch Vân Động lắm. Ngày nào mà Thầy thấy các con mang áo vinh quang mà chầu tại Bạch Ngọc Kinh cả thảy là ngày ước vọng của chúng ta đã thoả mãn.

Thầy đã nói rằng cơ chuyển thế là do luật vô biên ái tình sanh sản, con đường ái tình ấy các con vẫn thường lui tới, ngày mong mỏi là ngày các con trải khối ái tình ấy đầy dẫy nhơn tâm mới mong hoà bình đại đồng thế giới.


Ôi ! Thầy đứng đây thấy trong năm châu chư môn đệ hỡi còn lặn lội trong biển khổ sông mê nên đau đớn. Thầy chỉnh sợ có bấy nhiêu mà không muốn thường giáng trần, vì mỗi phen đều mỗi giọt lệ tuông vào nơi tục lự. Các con nhớ cái thảm của Thầy đặng lấy nó làm dây hàn tâm gìn Thánh đức nghe !

Ông Cao Đức Trọng lúc bấy giờ mới nhập môn vào Đạo chưa có phẩm tước gì, sau này mới đắc phong Tiếp Đạo H.T.Đ cảm khái mấy bài thi của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ trong thập thủ liên huờn , xin trích ra bài thứ sáu mà ông đã hoạ nguyên vận :

Thanh Sơn Đạo Sĩ :

    Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
    Ai giữ phong cương đặng vững bền
    Đấp luỹ Cổ Loa chưa thấy mặt
    Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên
    Thăng Long bao thuở nung hùng khí
    Gia Định tự nhiên chấp ấn quyền
    Sông núi dật dờ chờ tạo khách
    Hoá sông nên Đạo, núi nên Thiền

    Hoạ Nguyên Vận
    Kính Thanh Sơn Đạo Sĩ ,
    Nước nhà điên đảo mấy lần nghiêng
    Giận lũ cầu vinh chí chẳng bền
    Dạ sắt không người cơn gió lửa
    Gan đồng thiếu kẻ lúc mưa tên
    Xót nền xã tắc trung nương khách
    Phá gánh giang san nịnh dựa quyền
    Dâu bể thôi đành chờ máy tạo
    Cồn xây vực thẳm hoạ khi thiền.

    9 Juin 1927
    Cao Đức Trọng


Thanh Sơn,
Khi đến bần đạo đặng thi, Khen đó !
Nghe bần đạo khuyên :

    Đã từ vào bút lại ra nghiên
    Chí khí nam nhi gắng giữ bền
    Phong Võ tuy qua chưa định tánh
    Vân Đài nhắm lại có đề tên.
    Trần ai vùng vẫy nên tay mắt
    Đài Các tiêu tao chước biến quyền
    Đủ trí đủ tài tua vẹn đức
    Lưu truyền hậu thế một dòng thiền.

    Trạng Trình


    Báo Ân Đường (Nam Vang) đêm 13-8
    Phò loan : Giám Đạo Lợi Bính Thân (17-9-1956)
    Hữu Phan Quân Thoại

Thanh Sơn Đạo Sĩ
Bần Đạo xin chào Hộ Pháp , Bảo Đạo và chư hiền nam nữ
Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần Quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay các tay chấp chánh Đạo quyền nơi này không tỏ bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy do chỗ ham quyền trọng vị. Các chức sắc thiên phong lãnh thiên mạng nơi mình không làm xong phận. Ngôi thì ham, quyền thì muốn mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ Vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ ?

Họ phải cho xứng phận là anh thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ.

Hôm nay, Hộ Pháp đã đến thì cả chức sắc Thiên phong phải rán thiệt thi quyền của mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy khá liệu lấy.

Có Quyền Giáo Tông đến. - THĂNG


TÁI CẦU :

    Phò loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo

THƯỢNG TRUNG NHỰT

Khi nãy, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo, chính qua cũng nhìn nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em nam nữ đã thấy rõ vì thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?

Mấy em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh ra rối loạn.

Qua nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và huỷ bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.

Các em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình cùng Hộ Pháp. Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.

Các em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hoà Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất.

Qua nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. - THĂNG


TÁI CẦU :

THANH SƠN CHƠN NHƠN

Bần đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt

Chư Thiên Phong đủ hiểu rõ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần Đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.

Bảo Đạo ! Thì Bần Đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền hữu. Cười ….Bảo Đạo nghe :

    THI

    Hoành sơn phân nước trót đôi lần,
    Khí số bấy chừ dứt Nguyễn quân
    Lời sấm đoán văn khi thật quả
    Tiên tri toán số gẫm không lầm
    Aân dân buồn thiếu trang hiền sĩ
    Bảo quốc vui nhờ đức Thánh quân
    Suy thạnh nước nhà do trị loạn,
    Cũng như Đôngmãn tới hồi Xuân

Đọc lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu
Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. - THĂNG


Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau :
“Xưa nay nguời ta vẫn coi Nguyệt cầu (mặt trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian này.

Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).

Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hoà Thượng miêu duệ của Từ Hàn Đạo Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm.

Bạch Vân Hoà Thượng đã 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công LA Roche Foucault.

Ở VN, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công, Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi là Trạng Trình”

Sau đây là nguyên văn thập thủ liên huờn của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ chia làm hai đoạn : 5 bài trước giáng cơ vào năm 1925, năm bài sau giáng cơ năm 1927, có ba vị nữ Tiên Diêu Trì Cung về khen tặng :

    THẤT NƯƠNG
    Chào mấy anh - em xin tặng Thanh Sơn
    Hay Thanh Sơn, giỏi Thanh Sơn
    Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn
    Cẩm Tú thêu oan thành khí giới
    Văn chương khảo tội hoá côn huờn
    Tiếng chuông tỉnh thế ba kỳ thức
    Hơi trống truy hồn bá tánh khôn
    Trị loạn sấn tay nâng vạc ngã
    Anh linh muôn kiếp nước Nam dồn

    (13 Juin 1927)


    BÁT NƯƠNG
    Em chào mấy anh - Em cũng xin tặng :
    Tài Thanh Sơn, trí Thanh Sơn
    Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn
    Giục lòng chí sĩ chưa vừa sức
    Múa búa thần tiên đủ chấp quờn
    Dệt thảm lê dân trời cám cảnh
    Khêu sầu xã tắc đất kinh hồn
    Nắn nhồi trí tuệ thành binh khí
    Rèn chất anh thư đắp lũy dồn

    (14 Juin 1927)


    LỤC NƯƠNG
    Em xin tặng Thanh Sơn
    Trung Thanh Sơn, nghĩa Thanh Sơn
    Bởi tại đâu ân oán nuốt hờn.
    Nát mật khó xem nhà vắng chủ
    Bầm gan há chịu nước không quờn.
    Câu văn ái chủng gầy binh khí
    Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
    Lập chí ôn nhu là đắp luỹ
    Nung lòng đạo đức ấy xây dồn.

    (15 Juin 1927)


    THẬP THỦ LIÊN HUỜN
    Của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ

    1- Âm dương tuy cách cũng trời chung
    Thấy trái nên đây mới tỏ cùng
    Thắc dạ thuyền xưa không đậu bến
    Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
    Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi
    Ngước mặt ngơ trông bậc chín trùng
    Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy
    Hay chi cá chậu với chim lồng.

    2- Chim lồng bao thuở lại non xanh
    Mỏi mắt trông vơi chốn thoát mình
    Dựng nước chẳng ai tài tướng được
    Liều mình thiếu kẻ đấng hùng anh
    Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố
    Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh
    Thìn dạ chờ Chầu về Hiệp phố
    Nơi mình sự nghiệp mới tan tành,

    3- Tan lành nhớ đến gánh giang san
    Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng
    Phú quí mồi câu con hạc cánh
    Đỉnh chung gió thổi đám mây tan
    Đợi thờ toan mượn cần câu Lữ
    Dựng nghiệp tua che mặt lưới Thang
    Ly loạn gặp đời, đời muốn chán
    Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn

    4- Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia
    Trị loạn hằng xem thế nước nhà
    Bễ hoãn dập dồn thương bấy trẻ
    Thành sầu chất ngất thẳm cho già
    Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm
    Nhăn mặt nước chờ trận gió qua,
    Thân ái mối dây tua nắm chặt
    Chích chiu ấy cũng một bầy gà

    5- Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ
    Yếu đuối biết ai để cậy nhờ
    Nắng hạn trông mưa trông mỏi mắt
    Đắng cay mộ nước mộ lòng chờ
    Ngoài khua tiếng giặc, trong khua nịnh,
    Võ thiếu binh nhung, quốc thiếu cờ
    Trí chúa tôi hiền không gặp chúa
    Nào người gánh nỗi mối xa thơ

    6- Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
    Ai giữ phong cương đặng vững bền
    Đắp luỹ Cổ Loa chưa thấy mặt
    Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên
    Thăng Long bao thuở nâng hùng khí
    Gia Định từ nhiên chấp ấn quyền
    Sông núi dật dờ chờ tạo khách
    Hoá sông nên Đạo, núi nên thuyền

    7- Nên thuyền thì trước lập nên dân
    Chín bệ xem qua chẳng trí quân
    Ích nước xủ tay khoe đẹp áo
    Lợi nhà vổ bụng hưởng tròn thân
    Nam Giao vắng vẽ đường cung kiếm
    Văn Miếu khô khan ngọn bút thần
    Danh vọng ru hồn quên thỗ võ
    Thẹn nòi bộc lại, mộ đai cân

    8- Đai cân đã có vẻ chi chưa ?
    Hay phận tù lao kiếp sống thừa
    Đạp đất gập ghềnh chân trẻ dại
    Ngừa thời điên đảo trí già xưa
    Ngôi hang thương kẻ mang da chó
    Ngự điện ghét quân đội lốt lừa
    Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa
    Xoi hang mạch nước ý chưa vừa

    9- Chưa vừa mộng mị với Tây tà
    Vụ xác vong hồn dựa phách ma
    Tiêu huỷ thân cây lằn lửa táp
    Tan tành hình nộm trận giông qua,
    Rước voi phá mã đào Lăng miếu
    Thả rắn xua ong nhiễu điện toà
    Đổ luỵ hỏi người sao chẳng nhớ
    Ngọn rau tấc đất nước nhà ta

    10- Nước nhà ta có tiếng anh phong
    Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng
    Nam Hải trổ nhiều trang Thánh đức
    Giao Châu sanh lắm bực thư hùng
    Tính trung lửa thét thành Bình Định
    Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông
    Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn
    Chi cần dị chủng đến dâng công

Top of Page


2. Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm

    Hán vận :

    DƯỠNG SINH THI
    Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần,
    Thiểu tư, quả dục, vật lao thân
    Thực thôi bán bão, vô kiêm vị
    Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
    Mỗi bả hí ngôn, đa thủ tiếu
    Thường hàm lạc ý, mạc sinh xân
    Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
    Nhiệm ngã tiêu dao quá bách xuân

    Dịch :
    Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
    Ít lo, ít muốn, ít lao thân
    Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị
    Rượu chỉ vài phân, chớ quá từng
    Miệng cứ câu đùa vui miệng mãi
    Bụng thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
    Nhiệt thành, biến trá, thôi đừng hỏi
    Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm


    CẢM HỨNG
    Thái hoà vũ trụ bất Ngu, Chu
    Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù
    Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu
    Uyên ngư tùng trước vị thuỳ khu
    Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã
    Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
    Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước
    Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du

    Dịch :
    Non sông nào phải buổi bình thời
    Thù đánh nhau chi khéo nực cười !
    Cá vực, chim rừng ai khiến đuổi ?
    Núi xương, sông huyết thảm đầy vơi
    Ngựa phi chắc có hồi quay cổ
    Thú dữ nên phòng lúc cắn người
    Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
    Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi !

    Phan Kế Bính dịch
    Nam Hải dị nhân liệt truyện
    (Imprimerie Tonkinoise, Hanoi)


    NGỤ Ý
    Danh toại công thành hưu hĩ hưu
    Đẳng, nhàn thế cố nhất hư châu
    Phong lai giang quán lương nghi hạ
    Nguyệt đáo thư lâu minh chứng thu
    Hồng nhật đông thăng tri đại hải
    Bạch vân tây vọng thị thần châu
    Khê sơn diệc túc cung ngô lạc
    Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu

    ~~~~~~~~~~~~~~~
    * Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước
    * * Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê


    CƯƠNG THƯỜNG TỔNG QUÁT
    Trời phú tính (*) ở mình ta
    Đạo cả cương thường năm mấy ba (**)
    Tôi hết ngay chầu chực chúa
    Con hằng thảo kinh thờ cha.
    Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt
    Bầu bạn cho hay nết thực thà
    Nghĩa vợ chồng xem rất trọng
    Ở đầu phong hoá (***) phép chung nhà

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Trời phú tính : Sách trung dung : "Thiên mệnh chi vi tính" (cái mà trời phú cho gọi là tính). Tục ngữ cũng có câu : "Cha mẹ sinh con trời sinh tính".

    (**) Cương là cái giường lưới tức cái dân chính của lưới, từ đó móc các sợi làm mắt lưới. Tam cương : vua (là giường của )tôi , cha (là giường của) con, chồng (là giường của )vợ. Ngũ thường : năm đức tính con người cần phải có : nhân (thương người), lễ (phép tắc trong sự ăn ở), nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng lời nói)

    (***) Ở đầu phong hoá xưa coi tình nghĩa vợ chồng là mối đầu của phong hoá là cơ sở của xã hội


    RĂN ĐẦY TỚ THỜ CHỦ
    Đạo làm đầy tớ ở cho ngay
    May tơ hào cũng chẳng tây (*)
    Chữ “thận cần”(**) đâu dám trễ
    Niềm “ưu ái” (***) chút nào khuây ?
    Vàng bền há lại lửa còn sợ ?(****)
    Cỏ cứng chi cho gió được lay ?
    Một tiết miễn thâu(*****) vừng nhật nguyệt
    Biết chăng hay chăng, mặc lòng thầy (******)

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Dù một chút nhỏ cũng không vì mình
    (**) cẩn thận và siêng năng
    (***) Ưu ái là nhiệm vụ kẽ sĩ phu
    (****) Há lại lửa còn sợ : há lại còn sợ lửa
    (*****) thấu suốt
    (******) Thầy là sư (đối với trò) là chủ (đối với tớ) là vua (đối với bầy tôi)


    CON THỜ CHA MẸ
    Ngẫm đạo làm con ở rất nan (*)
    Ở cho lọn đạo mới là ngoan
    Hay khi “ôn sảnh”(**) bề cung dưỡng(***)
    Siêng thuở “thần hôn”(****) việc hỏi han
    Dầu giận hờn, càng kính thuận
    Vâng sai khiến, dám phàn nàn ?
    Chữ rằng : “Chưa dễ đền ơn nặng”
    Lọ nỗi riêng tây theo thế gian ?

    ~~~~~~~~~~~~
    (*) Nan : khó khăn
    (**) Ôn sảnh : do chữ "đông ôn, hạ sảnh" bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
    (***) Cung dưỡng : tìm thức ăn nuôi mẹ
    (****) Thần hôn : do chữ "hôn định, thần tỉnh" tối sớm bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ


    KHUYÊN ANH EM CHỚ GIÀNH LẪN NHAU
    Cùng đội sinh thần một cửa ra
    Anh em trời đã thực cho ta
    Giúp nàn, chống rẻ cùng nương cậy (*)
    Biết kính, hay yêu miễn thuận hoà
    Xui giục chớ tin lời vợ
    Yêu thương sá thấy lòng cha (**)
    Chân tay gẫm lại ai hơn nữa
    Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà ?

    ~~~~~~~~~~
    (*) Giúp nàn : giúp đỡ nhau trong lúc nghèo. Chống rẻ : chống kẻ khinh thường anh em mình
    (**) Yêu thương sá thấy lòng cha : Khi anh em có chuyện xính mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả mà thuận hoà với nhau


    KHUYÊN CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
    Sau ngày đã kể vợ tao khang(*)
    Xin xót (**) cùng nhau hỡi thế thường
    Lỗi nhỏ (***) thứ cho đừng sá giận
    Tình thân nghĩ đến cũng nên thương
    Chi tuồng bòn của, no liền phụ
    Mảng nỗi chê già, ghét lại ruồng
    Kìa kẻ sốt giàu … (****)
    Chẳng hay nghãi cả để đầu giường (*****)

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Tao khang : do câu "Tao khang chi thê bất hạ đường" (hán thư) chỉ người vợ lấy mình lúc còn hàn vi
    (**) Xót : thương xót nhau
    (***) Thứ : tha thứ
    (****) Kẻ : ở đây là tác giả dẫn điển Ngô Khởi người thời Chiến quốc vì nóng lòng ham giàu sang nên đã nhẫn tâm giết vợ
    (*****) Đầu giường : dịch chữ "cương". Do câu "hữu phu phụ nhi hậu hữu phụ tử, hữu phụ tử nhi hậu hữu quân thần", nghĩa là có vợ chồng mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi.


    KHUYÊN NÀNG DÂU THỜ CHA MẸ CHỒNG
    Cha mẹ chồng biết kính thờ
    Nàng dâu miễn đấy vẹn sau xưa (*)
    Việc làm theo thói nhà quen chuộng
    Nết ở chiều người tính sở ưa (**)
    Yêu nề càng gìn lễ phép
    Giận hờn cũng chớ thẩn thơ
    Mắng thương (***) người phải dùng khoan nhặt (****)
    Ta giữ cho hay thì mới vừa

    ~~~~~~~~~
    (*) Khuyên nàng dâu biết kính thờ cha mẹ chồng thì mới làm trọn nghĩa trước sau
    (**) Đạo làm dâu phải tuỳ theo sự ưa thích của cha mẹ chồng
    (***) Mắng thương : những lời dạy bảo chân tình xuất phát từ lòng thương yêu của cha mẹ
    (****) thong thả và chặt chẽ


    KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI BẦU BẠN
    Làm người dầu đã bạn cùng ai
    Chữ tín tua nhìn chẳng chút sai (*)
    Đừng có nồng chi rồi lại lạt
    Nếu mà thắm lắm ắt liền phai (**)
    Chợ hàng, miễn chớ tuồng chơi họp (***)
    Rượu bạc, xin thôi sức ép nài
    Sác ắt sơ (****) hằng cần đấy
    Yêu nhau nghĩa ấy mới bền dai

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Tín là giữ đúng lời hứa, lời hẹn với bạn
    (**) người xưa nhắc :"Quân tử chi giao tạm nhược thuỷ" (tình bạn bè của người quân tử thanh đạm như nước)
    (***) Làm bạn với nhau, đừng rũ nhau nhau ăn uống nay chợ mai hàng
    (****) Sát ắt sơ : theo lời của Khổng tử :"bằng hữu sác tư sơ hĩ" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình can ngăn luôn tất sẽ bị bạn xa lánh (Luận ngữ)


    KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HỌ HÀNG
    Dòng dõi suy ra cũng một nhà
    Xem ai hơn nữa họ hàng ta ?
    Đỡ đần đành cậy vây cánh
    Gửi thác (*) càng tin ruột rà
    Chẳng bỏ được nào, sao chẳng biết ?
    Nên gần cho lắm, há nên xa ?
    Cùng nhau bầu bí yêu thương lấy (**)
    Chớ nỡ xem bằng khác tới qua (***)

    ~~~~~~~~~~~~
    (*) Gửi thác : dịch tức ký thác
    (**) Ca dao : "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
    (***) họ hàng là phải thương yêu đùm bọc nhau, giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ coi như khách vãng lai


    KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HÀNG XÓM
    Nghiệp cha ông…
    Ai là cho khỏi chốn gia hương ?
    Miễn thay (*) hằng giữ bề lương thiện
    Dầu vậy, đừng nồng …
    Cậy thế chớ bề hiếp chóc
    Ra ơn sá miễn (**) yêu thương
    Vắt tay xin nghĩ về sau với :
    Lành giữ muôn đời, tiếng để làng

    ~~~~~~~~~~~
    (*) khuyên thay
    (**) Sá miễn : khuyên nên


    RĂN NGƯỜI CÓ LÒNG THAM
    Tượng trời (*) âu đã quá đồng cân
    Định cho ai, ắt có phần
    Muốn vô nhai (**) khôn lẽ được
    Ơn phi phận (***) khá đều phân
    Đủ no hay vậy xin thong thả
    Sạo sục (****) làm chi, luống nhọc nhằn !
    Nếu tham hơn thì phải thiệt
    Hãy ghi lời ấy để mà răn

    ~~~~~~~~~~~~
    (*) Tượng trời : đồng tiền được đúc theo tượng trời, ắt cũng cân bằng
    (**) Muốn vô nhai : Bụng quá tham, không biết thế nào là bờ
    (***) Ơn phi phận : ơn vốn không phải mình đáng được hưởng
    (****) Sạo sục : nôn nóng, bồn chồn


    RĂN NGƯỜI HAM MÊ SẮC ĐẸP
    Cẩn (*) cho hay, chẳng phải chơi
    Sắc xem dường sóng, dễ xiêu người (**)
    Lửa rơm nếu chửa ngăn lòng tục (***)
    Giường mối đâu còn biết lẽ trời (***)
    Có chồng con bao xiết nỗi
    Hay bùa thuốc ấy thói đời (****)
    Kham hiền (*****) luận ác “dâm vi thủ” (******)
    Cẩn cho hay, chẳng phải chơi

    ~~~~~~~~~~~~~~
    (*) Cẩn : giữ gìn, đề phòng
    (**) Thơ cổ : " Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" Sắc chẳng có sóng mà dễ khiến làm đắm người (Lý Niên Diên -Đường) cũng có câu "Nhất tiểu khuynh nhân thành, tái tiểu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười lần nhất làm nghiêng thành, cười lần hai làm nghiêng nước).
    (***) Khi gần sắc đẹp nếu chẳng giữ mình, để cho lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" và lúc đó, sẽ quên hết lẽ trời.
    (****) để làm người khác say mê, người ta có thể dùng "bùa thuốc"
    (*****) Kham hiền : đáng khen là hiền
    (******) Luận ác dâm vi thủ : theo Nho giáo luận về tội ác thì dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu "Bách ác, dâm vi thủ; vạn thiện, hiếu vi tiên" Trăm điều ác, dâm là đầu, vạn điều lành, hiếu đứng trước.


    RĂN NGƯỜI HAM MÊ CỜ BAÏC
    Anh em cùng mặt chẳng cùng lòng
    Cờ bạc ai là ở có sòng (*)
    Cười nói tuy rằng vui miệng vậy
    Lật lừa toan…
    Xoay vần, nhà chủ (**) đều vơ cả
    Gian lận, con kim (***) cũng sạch không
    Nghề ấy xưa nay…
    Có giàu sao được (****) hãy còn mong ?

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Sòng : thẳng thắn
    (**) Nhà mở sòng chứa cờ bạc
    (***) người có tiền, tức la øngười đánh bạc
    (****) Có giàu sao được : tục ngữ có câu : "Cờ bạc là bác thằng bần"


    RĂN NGƯỜI KIỆN CÁO GIAN GIẢO
    Một mình ăn mặc hết bao nhiêu
    Gây làm chi bấy, hỡi điêu !
    Kiếm chước tạo thêu (*) không hoá có
    Tìm điều đặt bỏ (**) ít nên nhiều
    Phải chăng rối lý khôn bề đoán (***)
    Kiện cáo xui người (****) đến nỗi xiêu (*****)
    Phép nước ví dù còn tránh được
    Tội trời khôn thể tránh đâu nào

    ~~~~~~~~~~~~~~~
    (*) Thêu : thêu dệt cho thành sự thật
    (**) Đặt bỏ : bịa đặt điều này, vứt bỏ điều khác, có ít nói nhiều
    (***) làm cho lẽ phải, lẽ trái khó mà xét đoán
    (****) xúi giục người
    (*****) xiêu cửa, xiêu nhà


    RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH SANG MÀ KIÊU NGAÏO
    Dầu sang trọng cũng là trời (*)
    Ta có chi kiêu với ai ?
    Rất đỗi thánh xưa còn tốn nhượng (**)
    Lọ loại thường nọ há rông rài ?
    Chớ điều cậy thế mình khinh rẻ
    Đến lúc thua cơ nó mỉa mai
    Cẩn đấy, một ngày càng một giữ
    Thói kiêu giũ sạch mới ra người

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Cũng là trời : do trời định
    (**) Tốn nhượng : nhún nhường


    RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH GIÀU MÀ COI THƯỜNG NGƯỜI NGHÈO
    Kẻ khó thường làm ích kẻ giàu
    Ở thì phải ngẫm, biết nhường nhau
    Bán kia, chẳng nỡ mua cho rẻ
    Vay nọ, xin đừng lãi lấy đau
    Bớt nỗi sai đời làm độc khố (*)
    Thôi thì đã trả hãy cơ cầu (**)
    Nặng lòng nhân nghĩa, hay thương khó
    Giàu ấy hầu toan mới được lâu (***)

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Khi khách đến đòi nợ thì giơ đủ mánh khoé độc ác, nào giết gà, đánh chó để ăn. Khi họ ra về con nợ còn phải có phẩm vật tiển đưa
    (**) Hãy cơ cầu : hãy còn cơ cầu ác nghiệt
    (***) Người đời khi đã giàu có muốn được bền thì phải có lòng nhân nghĩa


    RĂN KHÔNG NÊN TIN NHẢM TÌM ĐẤT TỐT
    Phúc địa chi cho kẻ cưỡng cầu (*)
    Được chăng run rủi bởi cơ mầu
    Ở lành, chẳng rắp hay nên gặp (**)
    Nẻo dữ, tuy tìm lại phải âu
    Quí Nộ phân kim (***) ai khéo bấy.
    Cao Biền (****) ưa thuỷ phép sai đâu
    Ngẫm xem dám …
    Phúc địa chi cho kẽ cưỡng cầu ?

    ~~~~~~~~~~~~~~~
    (*) Cưỡng cầu : cầu mong gượng gạo
    (**) Chẳng rắp hay nên gặp : chẳng tìm mà lại gặp
    (***) Phân kim gọi là phân kim vị kim đứng đầu ngũ hành. Tìm phương vị là để đặt huyệt đúng hướng.
    (****) Cao Biền : quan đô hộ đời Đường kiêm mấy thầy phù thuỷ xảo nguyệt


    VÔ ĐỀ

    1

    Rất nhân sinh bảy tám mươi (*)
    Làm chi lận đận nhọc lòng người ?
    Một am (**) phong nguyệt, tớ vui tớ
    Hai chữ công danh, ngươi mặc ngươi
    Xa mã cửa …
    Cá tôm bữa miếng mọi mùi tươi
    Sang khó miễn yên đòi phận
    Rất nhân sinh bảy tám mươi

    ~~~~~~~~~~
    (*) Viết thoát ý câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy" Đời người ta sống đến 70 tuổi thì xưa nay kể hiếm
    (**) Một am : am Bạch Vân

    2

    Lợi danh từng biết chốn xôn xao,
    Dấu cũ đành mong nối họ Sào (*)
    Đèo núi vỗ tay cười khúc khích
    Rặng thông vắt cẳng (**) hát nghêu ngao
    Đòi nơi phong nguyệt vui thay đấy !
    Dầu phận công hầu bận (***) được nao ?
    Hãy so xem người thế tục
    Aâu ta cũng đã kể làm cao

    ~~~~~~~~~~~~~
    (*) Họ Sào : tức Sào P hủ một cao sĩ đời Đường Nghiêu ẩn ở núi Cơ Sơn, dùng câu làm nhà như một cái ổ nên gọi là Sào Phủ (sào là cái ổ)
    (**) Vắt cẳng : ngồi vắt chân chữ ngũ
    (***) Bận : bận bịu

    3

    Phú quý lòng, phú quý danh (*)
    Thân hoà tự tại, thú hoà thanh
    Tiền sen (**) tích để bao nhiêu thúng
    Vàng cúc (***) đâm bông biết mấy giành (****)
    Ngoài cửa mận đào là khách khứa
    Trong nhà cam quýt ấy tôi mình
    Ai xem, ai chẳng hay là chớ (*****)
    Lại một ta khen ta hữu tình

    ~~~~~~~~~~~~
    (*) giàu về đạo đức hơn là sang trọng về địa vị
    (**) Lá sen lúc mới nở tròn như đồng tiền
    (***) vàng như hoa cúc
    (****) rổ nhỏ đan bằng tre
    (*****) Ai biết hay chẳng biết cũng thế thôi

    4

    Người gồng gánh kẻ lầm than
    Ta biết so ta (*) kể thực nhàn
    Đường lợi há theo thị tinh ? (**)
    Cảnh thanh chiếm hết giang san
    Ngắm chơi đã trải miền thôn dã
    Hóng mát từng vui chốn thạch bàn (***)
    Một cỏ hoa đều đủ được
    Rất vời thong thả cõi trần gian

    ~~~~~~~~
    (*) Ta biết so ta : so ta với người gồng gánh, kẻ lầm than
    (**) Thị tỉnh : có nghĩa là thành thị, đô thị
    (***) Thạch bàn : phiến đá phẳng dùng điển Khương Tử Nha câu cá ở Thạch Bàn

Top of Page


3. Sấm Trạng Trình

Người Trung Hoa phục tài Trạng Trình Việt Nam nên đã có lời ca tụng “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” : Nước Nam về khoa Lý học có ông Trình Tuyền.

Tương truyền những sự việc sau đây đã ứng nghiệm đúng theo lời sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

1. Tiên Tri về Nhà Tây Sơn dấy nghiệp :

    “Chân cung xuất nhật
    Đoài cung vẩn tinh”

    Nghĩa là :
    Mặt trời xuất hiện ở phương Đông
    Sao sa ở phương Tây.

Theo Bát Quái có tám quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn ở phương Đông. Theo kinh Dịch cung Chấn chỉ về người trên. Yù nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.

Sáu câu :

    “Bao giờ trúc mọc qua sông
    Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
    Đoài cung một sớm đổi thay
    Chấn cung sao cũng sa ngày chẳng còn
    Đầu cha lộn xuống chân con
    Mười bốn năm tròn hết số thì thôi”

Sáu câu nầy ứng vào việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng Long,Sĩ Nghị cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh. Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế (hai câu 1-2)

Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm Quang Trung được vua nhà Thanh là Càn Long phong chức An Nam Quốc Vương.

Sau hai năm ở ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất. Đoài cung câu 3 có nghĩa là phương Tây. Theo Kinh Dịch, cung Đoài là kẻ dưới, ý nói người em là Nguyễn Huệ mất. Năm sau, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con của Quang Trung) chiếm thành Qui Nhơn nên thổ huyết mà thác (Chấn cung câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc, người anh của nhà Tây Sơn). Câu 5 chỉ tên vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ “Quang” của vua Quang Trung gồm chữ “Tiều” ở trên mà chữ “Cảnh” của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiều” ở dưới. Thế nên mới nói : Đầu cha lộn xuống chân con. Câu 6 nói nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm.


2. Tiên Tri về việc Phong hầu cho dân làng vĩnh lại

    “Bao giờ ngựa đá qua sông
    Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng”

    Nghĩa là :
    Khi nào ngựa đá qua sông được thì dân làng Vĩnh Lại đều được phong hầu.

Khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn trốn qua làng Vĩnh Lãi dân chúng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn, vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình liên phong tước hầu cho người cầm đất dân làng. Tin truyền ra dân chúng tranh nhau xin vua phong tước hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng.

Nhiều người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách Thái Ất Thần Kinh mà thông suốt mọi việc quá khứ vị lai.


3. Tiên tri về tương lại của Nhà Nguyễn :

    “Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
    Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê”

Ý nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người Pháp để diệt nhà Tây Sơn. Nhưng nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người Pháp. Chữ “dê” dịch nghĩa Hán là “dương” ám chỉ người Tây Dương.

Bốn câu :

    “Để loài bạch quỷ Nam xâm
    Làm cho trăm họ khổ trăm lưu ly
    Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
    Gia đình một ở ba đi dần dần”

Hai câu đầu chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng khốn khổ “Bạch quỷ Nam xâm” làm nhân dân cực khổ điêu đứng vì cảnh chia lìa.

Hai câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn là Hàm Nghi (bị đày sang Algérie), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Réunion) chỉ còn một mình Khải Định ở lại làm vua ứng nghiệm vào câu: “Gia đình một ở ba đi dần dần”.


4. Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp

    Kìa kìa gió thổi lá rung cây
    Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây”

Sau ngày Pháp thôn tính Việt Nam các phong trào Cần Vương trong nước và Văn Thân đều nổi dậy khắp nơi.

Bốn câu :

    Tan tác KIẾN kiều AN đất nước
    Xác xơ CỔ thị sạch AM mây
    LÂM giang nổi sóng mùa THAO cát
    HƯNG địa tràn dâng HOÁ nước đầy.

Ứng vào cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại Kiến An, Cổ Am, Lâm Thao và Hưng Hoá. Thật là cảnh đất nước xác xơ như cành cổ thụ cắn trụi. Sóng gió, cát bụi nổi lên mịt trời hoà cùng máu của các chiến sĩ gục ngã để giành lại chủ quyền độc lập. Câu “Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua” chỉ phong trào tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên.


5. Tiên tri toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay

Hai câu :

    “Giữa năm hai bảy mười ba
    Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”

Tám gà : Hán văn là Bát kê. Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng bảy, mười ba tháng, Toàn quyền Đông Dương Pasquier mãn nhiệm trở về Pháp, dọc đường máy bay bị nạn, Pasquier bị chết cháy giữa không trung đúng vào câu “Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”

Sau đây là Cảm đề và Sấm ký của Trạng Trình


    CẢM ĐỀ :

    Thanh nhàn vô sự là tiên
    Năm hồ phong nguyệt ruỗi thuyền buông chơi
    Cơ tạo hoá
    Phép đổi dời
    Đầu non mây khói toả
    Mặt nước cánh buồm trôi
    Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
    Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
    Tuổi già thua kém bạn
    Văn chương gởi lại đời
    Dở hay nên tự lòng người cả
    Bút nghiên soi hoa chép mấy lời
    Bí truyền cho con cháu
    Dành hậu thế xem chơi


    SẤM KÝ :

    Nước Nam từ họ Hồng Bàng
    Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần
    Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
    Đã bao lần ngôi nước đổi thay
    Núi sông thiên định đặt bày.
    Đồ thư một quyển xem nay mới rành
    Hoà đao mộc lạc
    Thập bát tử thành
    Đông Á nhật xuất
    Dị mộc tái sinh.
    Chấn cung xuất nhật
    Đoài cung vẫn tinh
    Phụ nguyên chi thống
    Đế phế vi đinh
    Thập niên dư chiến
    Thiên hạ cửu bình
    Lời thần trước đã ứng linh
    Hậu lai phải đoán cho mình mới tường
    Hoà đao mộc hồi dương sống lại
    Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương
    Hà thời biện lại vi vương,
    Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
    Lê tồn Trịnh tại
    Trịnh bại Lê vong
    Bao giờ ngựa đá sang sông
    Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng
    Hà thời thạch mã độ giang
    Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu
    Chim bàng cất cánh về đâu?
    Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công
    Bao giờ trúc mọc qua sông
    Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
    Đoài cung một sớm đổi thay
    Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
    Đầu cha lộn xuống thân con
    Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
    Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
    Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê
    Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
    Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
    Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
    Aên no ủn ỉn lợn kêu ngàu
    Nói cho hay khảm cung ong dậy
    Chí anh hào biết đấy mới ngoan
    Chữ rằng lục thất nguyệt gian
    Ai mà giữ được mới nên anh tài
    Ra tay điều đỉnh hộ mai
    Bấy giờ mới rõ là người an dân
    Lọ là phải nhọc kéo quân
    Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
    Phá điền than đến đàn dê
    Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
    Dê đi dê lại tuồn luồn
    Đàn đi nó cũng một môn phù trì
    Thương những kẻ nam nhi chí cả
    Chớ vội sang tất tả chạy rong
    Học cho biết chữ cát hung
    Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
    Hễ trời sinh xuống phải thì
    Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong
    Kìa những kẻ vội lòng phú quí
    Xem trong mình một tí đều không
    Ví dù có gặp ngư ông
    Lưới giăng đâu dễ nên công mà hòng
    Khuyên những đứng thời trung quân tử
    Lòng trung nghiã nên giữ cho mình
    Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
    Thái nhâm, thái ất mình cho hay
    Chớ vật vờ quen loài ong kiến
    Hư vô bàn miệng tiếng nói không
    “Ô hô thế sự tự bình bồng,
    Nam Bắc hà thời thiết lộ không
    Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
    Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng
    Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
    Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
    Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
    Tứ phương thiên hạ thái bình phong”
    Ngõ may gặp hội mây rồng
    Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
    Nước Nam thường có thánh tài
    Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
    So mấy lề đè tàng kim quỹ
    Kề sau này ngu bỉ được coi
    Đôi phen đất lở cát bồi
    Đó đây ông kiến dậy trời quỷ ma
    Ba con đổi lấy một cha
    Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
    Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
    Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần
    Hoành sơn nhất đái
    Vạn đại dung thân
    Đến thời thiên hạ vô quân.
    Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
    Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
    Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
    Thiên sinh hữu nhất anh hùng
    Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
    Thái Nguyên cận Bắc đường xa
    Ai mà tìm thấy mới là thần minh
    Uy nghi dung mạo khác hình
    Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
    Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
    Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
    Binh thư mấy quyển kinh luân
    Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu
    Xem ý trời ngỏ hầu khải thánh
    Dốc sinh ra điều chỉnh hộ mai
    Song thiên nhật nguyệt sáng soi
    Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
    Thông minh kim cổ khác thường
    Thuấn Nghêu là trí, Cao Quang là tài
    Đấng hiên ngang nào ai biết trước
    Tài thao lược yêm bác vũ văn
    Ai còn khoe trí khoe năng
    Cấm kia bắt nọ hung hăng với người
    Chưa từng thấy nay đời sự lạ
    Chốc lại mòng gá vạ cho dân
    Muốn bình sao chẳng lấy nhân
    Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình
    Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
    Lại đua nhau quần thán đồ lê
    Chức nầy quyền nọ say mê
    Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
    Kẻ thì phải thuở hung hoang
    Kẻ thì bận của bóng toan khốn mình
    Cửu cửu càn khôn dĩ định
    Thanh minh thời tiết hoa tàn
    Trức đáo dương đầu mã vĩ
    Hồ binh bát vạn nhập Trường an
    Nực cuời những kẻ bàng quan
    Cờ tan lại muốn toan đường chống xe
    Lại còn áo mũ xum xoe
    Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang
    Ghê thay thau lẫn với vàng
    Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
    Thành ra tuyết tán mây tan
    Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi
    Can qua việc nước tơi bời
    Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
    Oai phong khấp quỷ kinh thần
    Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
    Rừng xanh núi đỏ bao la
    Đông tàn Tây bại sang gà mới yên
    Sửu, Dần thiên hạ đảo điên
    Ngay nay thiên số vận niên rành rành
    Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
    Can qua xứ xứ khổ đao binh
    Mã đề dương cước anh hùng tậu
    Thân Dậu niên lai kiến thái bình
    Sự đời tính đã phân minh
    Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau
    Đầu thu gà gáy xôn xao
    Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long
    Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
    Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
    Lợi kêu tình thế lâm nguy
    Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời
    Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
    Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta
    Hùm gầm khắp nẻo gần xa
    Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
    Rồng bay năm vẻ sáng ngời
    Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
    Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
    Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
    Chín con rồng lộn khắp nơi
    Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
    Lời truyền để lại bấy nhiêu
    Phương Đoài giặc đã đến chiều bại vong
    Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
    Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình
    Đầu can vô tướng ra binh
    Aát là trăn họ thái bình âu ca
    Thân Kinh Thái Aát suy ra
    Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn
    Ngay thường xem thấy quyển vàng
    Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
    Bởi Thái Aát thấy lạ đời
    Aáy thuở sấm trời vô giá thập phân
    Kể từ đời Lạc Long Quân
    Đắp đổi xoay vần đến lúc thất gian
    Mỗi đời có một tội ngoan
    Giúp chung nhà nước dân an thái bình
    Phú quí hồng trần mộng
    Bần cùng bạch phát sinh
    Hoa thôn đa khuyển phệ
    Mục giả giục nhân canh
    Bắc hữu Kim thành tráng
    Nam hữu Ngọc bích thành
    Phân phân tùng bách khởi
    Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
    Bảo giang thiên tử xuất
    Bất chiến tự nhiên thành
    Rồi đây mới biết thánh minh
    Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
    Nhị Hà một dải quanh co
    Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
    Khắp hoà thiên hạ nao nao,
    Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
    Nói đến độ thầy tăng ra mở nước
    Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
    Bấy lâu những cậy phép mầu
    Bây giờ phép ấy để lâu không hào
    Cũng có kẻ non trèo biển lội,
    Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề
    Có thầy Nhân Thập đi về
    Tả hữu phù trì,cây cỏ thành binh
    Những người phụ giúp thánh minh
    Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
    Phùng thời nay hội thái lai,
    Can qua chiến trận để người thưởng công,
    Trẻ già được biết sư lòng
    Ghi làm một bản để hòng dở xem
    Đời này những Thánh cùng Tiên
    Sinh những người hiền trị nước an dân

    ….
    Nầy những lúc thánh nhân chưa lại
    Chó còn nằm đầu khải cuối thu
    Khuyên ai sớm biết khuông phù
    Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngõ hầu
    Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ
    Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao
    Thấy Sấm từ đây chép vào
    Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa


    Top of Page

          HOME

    Tam Thanh Bach Van Dong, Tran Van Rang

    THÁNH GIÁO
    CỦA ĐỨC THANH SƠN ĐẠO TRƯỞNG




      Toà Thánh, ngày ….tháng 7 năm Tân Vị
      (Le 12 September 1931)

      Phò loan : Đức Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân
      Hầu bút : Sĩ tải Phạm Văn Ngọ


    THANH SƠN ĐẠO SĨ

    Chào chư Tiên Phong
    Xin quyền Giáo Tông bình thân

    Cười … Chư Thiên Phong cũng đã nghe danh Richelieu há ! Bần đạo khi tái kiếp đặng chuyển chánh trị Pháp triều, lúc ấy cải danh đại sĩ của bần đạo ngày nay chưa phai lợt.

    Hỏi thử chánh trị Thái Tây coi có phải đã thọ hưởng chánh sách của bần đạo mà lập thành toàn cường liệt quốc ngày nay chăng ? Bần đạo nói rằng, ngoài chánh sách của bần đạo thì chưa thể có phương nào hay hơn mà lập liệt quốc cho đặng. Phép phục thuộc địa, tuy là nước Romain đã có trước thì mặc dầu, chớ kỳ trung nay đoạt đặng mà làm cho cả vạn quốc Thái -Tây đặng đại danh cũng do nơi bần đạo. Chánh sách trị thuộc địa là làm cho các sắc dân còn thiếu kem văn minh đặng đoạt gương mà vào hàng cộng hoà vạn quốc. Nước chẳng đồng văn hoá, chẳng phương nhập cảnh hoà bình, đem văn hoá văn minh làm biểu hiện mà pha cùng văn hoá các sắc dân hèn hạ, đặng nâng đỡ cho văn hoá của sắc dân ấy có đến văn minh, hầu sáp nhập vào hàng văn minh cả thảy thì toàn cầu đặng văn minh chẳng còn sắc dân nào đè nén nhau đặng. Không đèn nén nhau đặng thì phải hoà nhau, hoà nhau đặng thì đại động thế giới.

    Trái lại nếu thâu thuộc địa mà còn ép bức dân tình, giục các sắc dân ấy vào cảnh đê hèn thì không mong chi đồng thể cả. Không đồng thể thì là nghịch nhau, nghịch nhau thì loạn lạc, loạn lạc thì khó hoà bình thế giới.

    Cái nền chính trị thật cao minh thì nên để cho các sắc dân đều tự chủ. Còn sự an lập quốc thể thì dùng phương nào cho dân thuộc địa chịu dễ dàng, đừng dùng quyền áp bức. Nước Đại Pháp cũng còn giữ chánh sách ấy mà làm lý thuyết,còn thực hành thì lại trái hẳn, chỉ cũng tại ham muốn chosự tiến hoá mở mang thuộc địa may chóng mà làm cho dân thuộc địa tha nha thiết nhỉ, và tại nơi tham tàn của đám ô lại tham quan làm hư chánh sách cao thượng ấy đi. Bần đạo rất tiếc.

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    Ghi chú : Đức Hồng Y Richelieu thuộc dòng quý phái, tên thật Amand Jean Du Plessis, Hồng Y De Richelieu, sanh năm 1585 ở Paris, quy vị năm 1642 là một trong chánh khách Pháp, năm 1606 Ngài thọ phong giám mục thị trấn Lugon, rồi đắc cử dân biểu phái Công Giáo ở hội nghị toàn quốc năm 1614. Năm 1617, Ngài lìa xứ với hoàng hậu Marie de Médicis (vợ Henri IV) năm 1622 Hồng Y De Luynes gọi Ngài về và năm 1624 Ngài được thâu nhận vào hội đồng Hoàng gia, nhanh chóng Ngài lãnh đạo hội đồng này.


      Đàn cơ tại Thánh địa Bạch Vân Kim Biên
      Ngày 26 tháng 10 Quý Dậu (15-2-1933)

      Phò loan : Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo
      Hầu đàn : Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
      Giáo sư Thượng Bảy Thanh


    THANH SƠN ĐẠO SĨ

    ……
    Thầy ngậm ngùi nhớ buổi các con hạ trần, giúp đỡ Ngọc Hư thì Lý Đại Huynh, còn Cực Lạc thì Hộ Pháp chuyển thế. Thầy chán hiểu rằng phận sự khó khăn quá sức các con nên khi ấy không cho Trưởng Ca (Là Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ) của các con giáng trần, để ở thiêng liêng nắm quyền hành chính. Thầy chẳng trách nào sự oai nghiêm của nó, nếu các con hiểu thấu thì mới biết rằng trách nhiệm của nó nặng nề yếu trọng, cầm mối thiên cơ mặt thế xây chuyển cho thuận với thiên điều không phải dễ,vì cớ mà Ngọc Hư ban quyền thiêng liêng vĩ đại, tùng phục mạng lịnh Lý Giáo Tông và Hộ Pháp đặng bảo tồn chánh giáo. Thầy (Thầy là Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ xưng hô với chư môn đệ Bạch Vân Động) lại ngăn cản các con chẳng đặng.

    Khi lãnh lịnh Ngọc Hư các con quá lời quyết định, thề chuyển tân thế, lập Tân Dân. Thề ấy kiếp này Thầy rất nên sợ sệt. Thầy chỉ cầu nó thương tưởng các con nghĩ tình bằng hữu trên ngàn kiếp đăng bảo bọc đỡ nâng, gọi ơn muôn một cùng Thầy.

    Thầy cũng nhìn rằng nó cố tâm giữ hứa, song nhiều phen nó đem bằng chứng nói tệ các con, Thầy khẩn cầu khoan dung lắm lúc. Thầy rất đau lòng đôi phen chịu luỵ gánh tội các con, nhưng các con cứ lần bần gây thêm ra nữa. Lúc sau này nó dâng sớ vào Ngọc Hư xin truất bỏ nhiều đứa ra khỏi Thánh Thể Chí Tôn. Thầy đau lòng quá đỗi, hễ bỏ ra khỏi Hội Thánh thì tội chuyển kiếp luân hồi. Thầy chạy đôn đáo, khẩn đảo Ngọc Hư đình đãi ít lâu cho các con chuộc tội.

    Phục Thành (Đạo hiểu của giáo hữu Thượng Hoà Thanh do Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ) là đứa thứ nhì trong số. Vậy Thầy xin các con nếu biết thương Thầy rán trao tâm luyện tánh, đủ Thánh đức đạo tầm hầu làm xong phận sự đặng sum hiệp Thầy trò kẻo Thầy nhẫn nhớ trông mòn mỏi .

    Bần đạo xin để lời cám ơn Chư Đại Thiên Phong, để lời cố cập cả chư đồ của Bần đạo. Đa tạ hậu tình. THĂNG


    Ông giáo hữu Đặng Hoà Thanh bị Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trục xuất ra khỏi Đàn cơ đêm 27-10-Quý Dậu (14-12-1933)

    Xin ghi luôn theo đây bài Thánh giáo của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ông giáo hữu Thượng Hoà Thanh.


      Toà Thánh, ngày 8 tháng 8 năm Tân Vì
      ( Le 15-9-1931)

    THANH SƠN ĐẠO SĨ
    Hĩ chư Đại Thiên Phong và chư Đạo hữu nam nữ
    Xin Quyền Giáo Tông bình thân, đa tạ, đa tạ !
    Thầy mừng hai con Phong Chí và Từ Huệ (Phong Chí là đạo hiệu của ông giáo sư Thượng Bảy Thanh, Từ Huệ là đạo hiệu của ông giáo hữu Thượng Tuy Thanh )

    Hoà ! con ngày nay đã định vị. Thầy cũng lắm phen cầu khẩn Ngọc Hư. Cái thâm tình của Thầy còn rơi dấu tại Thanh Hoá (là nơi cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng học với ông bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lúc sinh thời 18 tuổi, còn am Bạch Vân của Ngài ở tỉnh Hải Phòng là nơi sinh quán. ), anh em Bạch Vân Động của con lắm đứa còn nương đất Bắc, chẳng nỡ lìa vì còn dấu tích của Thầy buộc ràng chúng nó nơi ấy. Vậy Thầy cậy con để hết tâm trí, gieo nguồn Thánh giáo nơi ấy mà cứu nạn cho quê hương. Con đã rõ Thầy thương mến Bắc địa của mình dường nào thì con cũng thể lòng yêu mến dường ấy. Thầy lại cậy con để lòng lo sùng tu Bạch Vân Động hữu vi của Thầy lại, vì là một nơi Thầy lựa chọn rất xứng đáng cho ngày hội hiệp các con.

    Thầy cho hai câu liễn và nhắc Thánh danh con. Cười..

      Phục Thế tại Nhơn Hoà
      Thành Cô tùng địa lợi

    Lấy hai chữ đầu đó thì biết danh con. Nội gia đình con Thầy giúp đỡ không chi phòng ngại. Còn truyền giáo tuy coi khó, nhưng khó ấy là phép làm để cho con. Cười …

    Cái lập thệ của Bạch Vân rất hệ trọng, con khá nghĩ đến mà gắng công. Nếu cả các con không tròn phận sự thì Thầy cũng phải mất ngôi mà tái kiếp. Khó viết quá ! - THĂNG


      Hộ Pháp Đường, mồng 1 tháng 10 năm Aát Hợi
      (dl 26-11-1935)

    BAÏCH VÂN ĐỘNG THANH SƠN ĐẠO SĨ

    Bần Đạo chào chư thiên phong và các con Bạch Vân Động.
    Kiếu lỗi cùng chư Đại đức, cho phép Bần Đạo chuyện vãng với chư môn đệ của Bần Đạo một lát kẻo đã lâu cách biệt tội nghiệp chúng nó.

    Các con nghe Thầy :

      Nắm chặt khuôn linh sửa nết trần
      Nên hư để phó mặc Hồng Quân
      Chòm mây bạc cũ là Tâm chí
      Khối tuyết trong xưa ấy trí thần
      Đường đột đôi phen gầy thế cuộc
      Oàn ào lắm lúc độ nguyên nhân
      Đã hay căn nghiệp là tên độc
      Mà cũng liên hoa thoát tục trần.

    Các con nhớ lời Thầy căn dặn rằng, may duyên đặng gặp Chơn Quân tại thế, nương bát nhã độ sanh thì công nghiệp ấy có ảnh hưởng vinh diệu cho Bạch Vân Động lắm. Ngày nào mà Thầy thấy các con mang áo vinh quang mà chầu tại Bạch Ngọc Kinh cả thảy là ngày ước vọng của chúng ta đã thoả mãn.

    Thầy đã nói rằng cơ chuyển thế là do luật vô biên ái tình sanh sản, con đường ái tình ấy các con vẫn thường lui tới, ngày mong mỏi là ngày các con trải khối ái tình ấy đầy dẫy nhơn tâm mới mong hoà bình đại đồng thế giới.


    Ôi ! Thầy đứng đây thấy trong năm châu chư môn đệ hỡi còn lặn lội trong biển khổ sông mê nên đau đớn. Thầy chỉnh sợ có bấy nhiêu mà không muốn thường giáng trần, vì mỗi phen đều mỗi giọt lệ tuông vào nơi tục lự. Các con nhớ cái thảm của Thầy đặng lấy nó làm dây hàn tâm gìn Thánh đức nghe !

    Ông Cao Đức Trọng lúc bấy giờ mới nhập môn vào Đạo chưa có phẩm tước gì, sau này mới đắc phong Tiếp Đạo H.T.Đ cảm khái mấy bài thi của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ trong thập thủ liên huờn , xin trích ra bài thứ sáu mà ông đã hoạ nguyên vận :

    Thanh Sơn Đạo Sĩ :

      Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
      Ai giữ phong cương đặng vững bền
      Đấp luỹ Cổ Loa chưa thấy mặt
      Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên
      Thăng Long bao thuở nung hùng khí
      Gia Định tự nhiên chấp ấn quyền
      Sông núi dật dờ chờ tạo khách
      Hoá sông nên Đạo, núi nên Thiền

      Hoạ Nguyên Vận
      Kính Thanh Sơn Đạo Sĩ ,
      Nước nhà điên đảo mấy lần nghiêng
      Giận lũ cầu vinh chí chẳng bền
      Dạ sắt không người cơn gió lửa
      Gan đồng thiếu kẻ lúc mưa tên
      Xót nền xã tắc trung nương khách
      Phá gánh giang san nịnh dựa quyền
      Dâu bể thôi đành chờ máy tạo
      Cồn xây vực thẳm hoạ khi thiền.

      9 Juin 1927
      Cao Đức Trọng


    Thanh Sơn,
    Khi đến bần đạo đặng thi, Khen đó !
    Nghe bần đạo khuyên :

      Đã từ vào bút lại ra nghiên
      Chí khí nam nhi gắng giữ bền
      Phong Võ tuy qua chưa định tánh
      Vân Đài nhắm lại có đề tên.
      Trần ai vùng vẫy nên tay mắt
      Đài Các tiêu tao chước biến quyền
      Đủ trí đủ tài tua vẹn đức
      Lưu truyền hậu thế một dòng thiền.

      Trạng Trình


      Báo Ân Đường (Nam Vang) đêm 13-8
      Phò loan : Giám Đạo Lợi Bính Thân (17-9-1956)
      Hữu Phan Quân Thoại

    Thanh Sơn Đạo Sĩ
    Bần Đạo xin chào Hộ Pháp , Bảo Đạo và chư hiền nam nữ
    Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần Quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay các tay chấp chánh Đạo quyền nơi này không tỏ bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy do chỗ ham quyền trọng vị. Các chức sắc thiên phong lãnh thiên mạng nơi mình không làm xong phận. Ngôi thì ham, quyền thì muốn mà hành động cho xứng lại không. Thử hỏi họ Vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ ?

    Họ phải cho xứng phận là anh thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều khổ.

    Hôm nay, Hộ Pháp đã đến thì cả chức sắc Thiên phong phải rán thiệt thi quyền của mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy khá liệu lấy.

    Có Quyền Giáo Tông đến. - THĂNG


    TÁI CẦU :

      Phò loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo

    THƯỢNG TRUNG NHỰT

    Khi nãy, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo, chính qua cũng nhìn nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em nam nữ đã thấy rõ vì thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?

    Mấy em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay, sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em giành quyền mà sanh ra rối loạn.

    Qua nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và huỷ bỏ Hội Thánh Ngoại Giáo.

    Các em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình cùng Hộ Pháp. Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân phái lập quyền đời của họ.

    Các em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hoà Thượng, tức là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất.

    Qua nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
    Mấy em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. - THĂNG


    TÁI CẦU :

    THANH SƠN CHƠN NHƠN

    Bần đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt

    Chư Thiên Phong đủ hiểu rõ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần Đạo phải giao trọn quyền điều khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.

    Bảo Đạo ! Thì Bần Đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền hữu. Cười ….Bảo Đạo nghe :

      THI

      Hoành sơn phân nước trót đôi lần,
      Khí số bấy chừ dứt Nguyễn quân
      Lời sấm đoán văn khi thật quả
      Tiên tri toán số gẫm không lầm
      Aân dân buồn thiếu trang hiền sĩ
      Bảo quốc vui nhờ đức Thánh quân
      Suy thạnh nước nhà do trị loạn,
      Cũng như Đôngmãn tới hồi Xuân

    Đọc lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu
    Bần đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. - THĂNG


    Đức Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau :
    “Xưa nay nguời ta vẫn coi Nguyệt cầu (mặt trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian này.

    Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).

    Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hoà Thượng miêu duệ của Từ Hàn Đạo Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm.

    Bạch Vân Hoà Thượng đã 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu, một lần là Quận Công LA Roche Foucault.

    Ở VN, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công, Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi là Trạng Trình”

    Sau đây là nguyên văn thập thủ liên huờn của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ chia làm hai đoạn : 5 bài trước giáng cơ vào năm 1925, năm bài sau giáng cơ năm 1927, có ba vị nữ Tiên Diêu Trì Cung về khen tặng :

      THẤT NƯƠNG
      Chào mấy anh - em xin tặng Thanh Sơn
      Hay Thanh Sơn, giỏi Thanh Sơn
      Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn
      Cẩm Tú thêu oan thành khí giới
      Văn chương khảo tội hoá côn huờn
      Tiếng chuông tỉnh thế ba kỳ thức
      Hơi trống truy hồn bá tánh khôn
      Trị loạn sấn tay nâng vạc ngã
      Anh linh muôn kiếp nước Nam dồn

      (13 Juin 1927)


      BÁT NƯƠNG
      Em chào mấy anh - Em cũng xin tặng :
      Tài Thanh Sơn, trí Thanh Sơn
      Câu văn tuyệt bút vẽ nên hờn
      Giục lòng chí sĩ chưa vừa sức
      Múa búa thần tiên đủ chấp quờn
      Dệt thảm lê dân trời cám cảnh
      Khêu sầu xã tắc đất kinh hồn
      Nắn nhồi trí tuệ thành binh khí
      Rèn chất anh thư đắp lũy dồn

      (14 Juin 1927)


      LỤC NƯƠNG
      Em xin tặng Thanh Sơn
      Trung Thanh Sơn, nghĩa Thanh Sơn
      Bởi tại đâu ân oán nuốt hờn.
      Nát mật khó xem nhà vắng chủ
      Bầm gan há chịu nước không quờn.
      Câu văn ái chủng gầy binh khí
      Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
      Lập chí ôn nhu là đắp luỹ
      Nung lòng đạo đức ấy xây dồn.

      (15 Juin 1927)


      THẬP THỦ LIÊN HUỜN
      Của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ

      1- Âm dương tuy cách cũng trời chung
      Thấy trái nên đây mới tỏ cùng
      Thắc dạ thuyền xưa không đậu bến
      Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
      Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi
      Ngước mặt ngơ trông bậc chín trùng
      Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy
      Hay chi cá chậu với chim lồng.

      2- Chim lồng bao thuở lại non xanh
      Mỏi mắt trông vơi chốn thoát mình
      Dựng nước chẳng ai tài tướng được
      Liều mình thiếu kẻ đấng hùng anh
      Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố
      Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh
      Thìn dạ chờ Chầu về Hiệp phố
      Nơi mình sự nghiệp mới tan tành,

      3- Tan lành nhớ đến gánh giang san
      Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng
      Phú quí mồi câu con hạc cánh
      Đỉnh chung gió thổi đám mây tan
      Đợi thờ toan mượn cần câu Lữ
      Dựng nghiệp tua che mặt lưới Thang
      Ly loạn gặp đời, đời muốn chán
      Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn

      4- Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia
      Trị loạn hằng xem thế nước nhà
      Bễ hoãn dập dồn thương bấy trẻ
      Thành sầu chất ngất thẳm cho già
      Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm
      Nhăn mặt nước chờ trận gió qua,
      Thân ái mối dây tua nắm chặt
      Chích chiu ấy cũng một bầy gà

      5- Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ
      Yếu đuối biết ai để cậy nhờ
      Nắng hạn trông mưa trông mỏi mắt
      Đắng cay mộ nước mộ lòng chờ
      Ngoài khua tiếng giặc, trong khua nịnh,
      Võ thiếu binh nhung, quốc thiếu cờ
      Trí chúa tôi hiền không gặp chúa
      Nào người gánh nỗi mối xa thơ

      6- Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
      Ai giữ phong cương đặng vững bền
      Đắp luỹ Cổ Loa chưa thấy mặt
      Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên
      Thăng Long bao thuở nâng hùng khí
      Gia Định từ nhiên chấp ấn quyền
      Sông núi dật dờ chờ tạo khách
      Hoá sông nên Đạo, núi nên thuyền

      7- Nên thuyền thì trước lập nên dân
      Chín bệ xem qua chẳng trí quân
      Ích nước xủ tay khoe đẹp áo
      Lợi nhà vổ bụng hưởng tròn thân
      Nam Giao vắng vẽ đường cung kiếm
      Văn Miếu khô khan ngọn bút thần
      Danh vọng ru hồn quên thỗ võ
      Thẹn nòi bộc lại, mộ đai cân

      8- Đai cân đã có vẻ chi chưa ?
      Hay phận tù lao kiếp sống thừa
      Đạp đất gập ghềnh chân trẻ dại
      Ngừa thời điên đảo trí già xưa
      Ngôi hang thương kẻ mang da chó
      Ngự điện ghét quân đội lốt lừa
      Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa
      Xoi hang mạch nước ý chưa vừa

      9- Chưa vừa mộng mị với Tây tà
      Vụ xác vong hồn dựa phách ma
      Tiêu huỷ thân cây lằn lửa táp
      Tan tành hình nộm trận giông qua,
      Rước voi phá mã đào Lăng miếu
      Thả rắn xua ong nhiễu điện toà
      Đổ luỵ hỏi người sao chẳng nhớ
      Ngọn rau tấc đất nước nhà ta

      10- Nước nhà ta có tiếng anh phong
      Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng
      Nam Hải trổ nhiều trang Thánh đức
      Giao Châu sanh lắm bực thư hùng
      Tính trung lửa thét thành Bình Định
      Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông
      Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn
      Chi cần dị chủng đến dâng công

    Top of Page


      Hán vận :

      DƯỠNG SINH THI
      Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần,
      Thiểu tư, quả dục, vật lao thân
      Thực thôi bán bão, vô kiêm vị
      Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
      Mỗi bả hí ngôn, đa thủ tiếu
      Thường hàm lạc ý, mạc sinh xân
      Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
      Nhiệm ngã tiêu dao quá bách xuân

      Dịch :
      Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
      Ít lo, ít muốn, ít lao thân
      Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị
      Rượu chỉ vài phân, chớ quá từng
      Miệng cứ câu đùa vui miệng mãi
      Bụng thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
      Nhiệt thành, biến trá, thôi đừng hỏi
      Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm


      CẢM HỨNG
      Thái hoà vũ trụ bất Ngu, Chu
      Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù
      Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu
      Uyên ngư tùng trước vị thuỳ khu
      Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã
      Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
      Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước
      Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du

      Dịch :
      Non sông nào phải buổi bình thời
      Thù đánh nhau chi khéo nực cười !
      Cá vực, chim rừng ai khiến đuổi ?
      Núi xương, sông huyết thảm đầy vơi
      Ngựa phi chắc có hồi quay cổ
      Thú dữ nên phòng lúc cắn người
      Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
      Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi !

      Phan Kế Bính dịch
      Nam Hải dị nhân liệt truyện
      (Imprimerie Tonkinoise, Hanoi)


      NGỤ Ý
      Danh toại công thành hưu hĩ hưu
      Đẳng, nhàn thế cố nhất hư châu
      Phong lai giang quán lương nghi hạ
      Nguyệt đáo thư lâu minh chứng thu
      Hồng nhật đông thăng tri đại hải
      Bạch vân tây vọng thị thần châu
      Khê sơn diệc túc cung ngô lạc
      Nhẫn phụ tiền minh vạn lý âu

      ~~~~~~~~~~~~~~~
      * Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước
      * * Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê


      CƯƠNG THƯỜNG TỔNG QUÁT
      Trời phú tính (*) ở mình ta
      Đạo cả cương thường năm mấy ba (**)
      Tôi hết ngay chầu chực chúa
      Con hằng thảo kinh thờ cha.
      Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt
      Bầu bạn cho hay nết thực thà
      Nghĩa vợ chồng xem rất trọng
      Ở đầu phong hoá (***) phép chung nhà

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Trời phú tính : Sách trung dung : "Thiên mệnh chi vi tính" (cái mà trời phú cho gọi là tính). Tục ngữ cũng có câu : "Cha mẹ sinh con trời sinh tính".

      (**) Cương là cái giường lưới tức cái dân chính của lưới, từ đó móc các sợi làm mắt lưới. Tam cương : vua (là giường của )tôi , cha (là giường của) con, chồng (là giường của )vợ. Ngũ thường : năm đức tính con người cần phải có : nhân (thương người), lễ (phép tắc trong sự ăn ở), nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng lời nói)

      (***) Ở đầu phong hoá xưa coi tình nghĩa vợ chồng là mối đầu của phong hoá là cơ sở của xã hội


      RĂN ĐẦY TỚ THỜ CHỦ
      Đạo làm đầy tớ ở cho ngay
      May tơ hào cũng chẳng tây (*)
      Chữ “thận cần”(**) đâu dám trễ
      Niềm “ưu ái” (***) chút nào khuây ?
      Vàng bền há lại lửa còn sợ ?(****)
      Cỏ cứng chi cho gió được lay ?
      Một tiết miễn thâu(*****) vừng nhật nguyệt
      Biết chăng hay chăng, mặc lòng thầy (******)

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Dù một chút nhỏ cũng không vì mình
      (**) cẩn thận và siêng năng
      (***) Ưu ái là nhiệm vụ kẽ sĩ phu
      (****) Há lại lửa còn sợ : há lại còn sợ lửa
      (*****) thấu suốt
      (******) Thầy là sư (đối với trò) là chủ (đối với tớ) là vua (đối với bầy tôi)


      CON THỜ CHA MẸ
      Ngẫm đạo làm con ở rất nan (*)
      Ở cho lọn đạo mới là ngoan
      Hay khi “ôn sảnh”(**) bề cung dưỡng(***)
      Siêng thuở “thần hôn”(****) việc hỏi han
      Dầu giận hờn, càng kính thuận
      Vâng sai khiến, dám phàn nàn ?
      Chữ rằng : “Chưa dễ đền ơn nặng”
      Lọ nỗi riêng tây theo thế gian ?

      ~~~~~~~~~~~~
      (*) Nan : khó khăn
      (**) Ôn sảnh : do chữ "đông ôn, hạ sảnh" bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
      (***) Cung dưỡng : tìm thức ăn nuôi mẹ
      (****) Thần hôn : do chữ "hôn định, thần tỉnh" tối sớm bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ


      KHUYÊN ANH EM CHỚ GIÀNH LẪN NHAU
      Cùng đội sinh thần một cửa ra
      Anh em trời đã thực cho ta
      Giúp nàn, chống rẻ cùng nương cậy (*)
      Biết kính, hay yêu miễn thuận hoà
      Xui giục chớ tin lời vợ
      Yêu thương sá thấy lòng cha (**)
      Chân tay gẫm lại ai hơn nữa
      Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà ?

      ~~~~~~~~~~
      (*) Giúp nàn : giúp đỡ nhau trong lúc nghèo. Chống rẻ : chống kẻ khinh thường anh em mình
      (**) Yêu thương sá thấy lòng cha : Khi anh em có chuyện xính mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả mà thuận hoà với nhau


      KHUYÊN CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
      Sau ngày đã kể vợ tao khang(*)
      Xin xót (**) cùng nhau hỡi thế thường
      Lỗi nhỏ (***) thứ cho đừng sá giận
      Tình thân nghĩ đến cũng nên thương
      Chi tuồng bòn của, no liền phụ
      Mảng nỗi chê già, ghét lại ruồng
      Kìa kẻ sốt giàu … (****)
      Chẳng hay nghãi cả để đầu giường (*****)

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Tao khang : do câu "Tao khang chi thê bất hạ đường" (hán thư) chỉ người vợ lấy mình lúc còn hàn vi
      (**) Xót : thương xót nhau
      (***) Thứ : tha thứ
      (****) Kẻ : ở đây là tác giả dẫn điển Ngô Khởi người thời Chiến quốc vì nóng lòng ham giàu sang nên đã nhẫn tâm giết vợ
      (*****) Đầu giường : dịch chữ "cương". Do câu "hữu phu phụ nhi hậu hữu phụ tử, hữu phụ tử nhi hậu hữu quân thần", nghĩa là có vợ chồng mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi.


      KHUYÊN NÀNG DÂU THỜ CHA MẸ CHỒNG
      Cha mẹ chồng biết kính thờ
      Nàng dâu miễn đấy vẹn sau xưa (*)
      Việc làm theo thói nhà quen chuộng
      Nết ở chiều người tính sở ưa (**)
      Yêu nề càng gìn lễ phép
      Giận hờn cũng chớ thẩn thơ
      Mắng thương (***) người phải dùng khoan nhặt (****)
      Ta giữ cho hay thì mới vừa

      ~~~~~~~~~
      (*) Khuyên nàng dâu biết kính thờ cha mẹ chồng thì mới làm trọn nghĩa trước sau
      (**) Đạo làm dâu phải tuỳ theo sự ưa thích của cha mẹ chồng
      (***) Mắng thương : những lời dạy bảo chân tình xuất phát từ lòng thương yêu của cha mẹ
      (****) thong thả và chặt chẽ


      KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI BẦU BẠN
      Làm người dầu đã bạn cùng ai
      Chữ tín tua nhìn chẳng chút sai (*)
      Đừng có nồng chi rồi lại lạt
      Nếu mà thắm lắm ắt liền phai (**)
      Chợ hàng, miễn chớ tuồng chơi họp (***)
      Rượu bạc, xin thôi sức ép nài
      Sác ắt sơ (****) hằng cần đấy
      Yêu nhau nghĩa ấy mới bền dai

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Tín là giữ đúng lời hứa, lời hẹn với bạn
      (**) người xưa nhắc :"Quân tử chi giao tạm nhược thuỷ" (tình bạn bè của người quân tử thanh đạm như nước)
      (***) Làm bạn với nhau, đừng rũ nhau nhau ăn uống nay chợ mai hàng
      (****) Sát ắt sơ : theo lời của Khổng tử :"bằng hữu sác tư sơ hĩ" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình can ngăn luôn tất sẽ bị bạn xa lánh (Luận ngữ)


      KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HỌ HÀNG
      Dòng dõi suy ra cũng một nhà
      Xem ai hơn nữa họ hàng ta ?
      Đỡ đần đành cậy vây cánh
      Gửi thác (*) càng tin ruột rà
      Chẳng bỏ được nào, sao chẳng biết ?
      Nên gần cho lắm, há nên xa ?
      Cùng nhau bầu bí yêu thương lấy (**)
      Chớ nỡ xem bằng khác tới qua (***)

      ~~~~~~~~~~~~
      (*) Gửi thác : dịch tức ký thác
      (**) Ca dao : "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"
      (***) họ hàng là phải thương yêu đùm bọc nhau, giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ coi như khách vãng lai


      KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HÀNG XÓM
      Nghiệp cha ông…
      Ai là cho khỏi chốn gia hương ?
      Miễn thay (*) hằng giữ bề lương thiện
      Dầu vậy, đừng nồng …
      Cậy thế chớ bề hiếp chóc
      Ra ơn sá miễn (**) yêu thương
      Vắt tay xin nghĩ về sau với :
      Lành giữ muôn đời, tiếng để làng

      ~~~~~~~~~~~
      (*) khuyên thay
      (**) Sá miễn : khuyên nên


      RĂN NGƯỜI CÓ LÒNG THAM
      Tượng trời (*) âu đã quá đồng cân
      Định cho ai, ắt có phần
      Muốn vô nhai (**) khôn lẽ được
      Ơn phi phận (***) khá đều phân
      Đủ no hay vậy xin thong thả
      Sạo sục (****) làm chi, luống nhọc nhằn !
      Nếu tham hơn thì phải thiệt
      Hãy ghi lời ấy để mà răn

      ~~~~~~~~~~~~
      (*) Tượng trời : đồng tiền được đúc theo tượng trời, ắt cũng cân bằng
      (**) Muốn vô nhai : Bụng quá tham, không biết thế nào là bờ
      (***) Ơn phi phận : ơn vốn không phải mình đáng được hưởng
      (****) Sạo sục : nôn nóng, bồn chồn


      RĂN NGƯỜI HAM MÊ SẮC ĐẸP
      Cẩn (*) cho hay, chẳng phải chơi
      Sắc xem dường sóng, dễ xiêu người (**)
      Lửa rơm nếu chửa ngăn lòng tục (***)
      Giường mối đâu còn biết lẽ trời (***)
      Có chồng con bao xiết nỗi
      Hay bùa thuốc ấy thói đời (****)
      Kham hiền (*****) luận ác “dâm vi thủ” (******)
      Cẩn cho hay, chẳng phải chơi

      ~~~~~~~~~~~~~~
      (*) Cẩn : giữ gìn, đề phòng
      (**) Thơ cổ : " Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" Sắc chẳng có sóng mà dễ khiến làm đắm người (Lý Niên Diên -Đường) cũng có câu "Nhất tiểu khuynh nhân thành, tái tiểu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười lần nhất làm nghiêng thành, cười lần hai làm nghiêng nước).
      (***) Khi gần sắc đẹp nếu chẳng giữ mình, để cho lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" và lúc đó, sẽ quên hết lẽ trời.
      (****) để làm người khác say mê, người ta có thể dùng "bùa thuốc"
      (*****) Kham hiền : đáng khen là hiền
      (******) Luận ác dâm vi thủ : theo Nho giáo luận về tội ác thì dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu "Bách ác, dâm vi thủ; vạn thiện, hiếu vi tiên" Trăm điều ác, dâm là đầu, vạn điều lành, hiếu đứng trước.


      RĂN NGƯỜI HAM MÊ CỜ BAÏC
      Anh em cùng mặt chẳng cùng lòng
      Cờ bạc ai là ở có sòng (*)
      Cười nói tuy rằng vui miệng vậy
      Lật lừa toan…
      Xoay vần, nhà chủ (**) đều vơ cả
      Gian lận, con kim (***) cũng sạch không
      Nghề ấy xưa nay…
      Có giàu sao được (****) hãy còn mong ?

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Sòng : thẳng thắn
      (**) Nhà mở sòng chứa cờ bạc
      (***) người có tiền, tức la øngười đánh bạc
      (****) Có giàu sao được : tục ngữ có câu : "Cờ bạc là bác thằng bần"


      RĂN NGƯỜI KIỆN CÁO GIAN GIẢO
      Một mình ăn mặc hết bao nhiêu
      Gây làm chi bấy, hỡi điêu !
      Kiếm chước tạo thêu (*) không hoá có
      Tìm điều đặt bỏ (**) ít nên nhiều
      Phải chăng rối lý khôn bề đoán (***)
      Kiện cáo xui người (****) đến nỗi xiêu (*****)
      Phép nước ví dù còn tránh được
      Tội trời khôn thể tránh đâu nào

      ~~~~~~~~~~~~~~~
      (*) Thêu : thêu dệt cho thành sự thật
      (**) Đặt bỏ : bịa đặt điều này, vứt bỏ điều khác, có ít nói nhiều
      (***) làm cho lẽ phải, lẽ trái khó mà xét đoán
      (****) xúi giục người
      (*****) xiêu cửa, xiêu nhà


      RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH SANG MÀ KIÊU NGAÏO
      Dầu sang trọng cũng là trời (*)
      Ta có chi kiêu với ai ?
      Rất đỗi thánh xưa còn tốn nhượng (**)
      Lọ loại thường nọ há rông rài ?
      Chớ điều cậy thế mình khinh rẻ
      Đến lúc thua cơ nó mỉa mai
      Cẩn đấy, một ngày càng một giữ
      Thói kiêu giũ sạch mới ra người

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Cũng là trời : do trời định
      (**) Tốn nhượng : nhún nhường


      RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH GIÀU MÀ COI THƯỜNG NGƯỜI NGHÈO
      Kẻ khó thường làm ích kẻ giàu
      Ở thì phải ngẫm, biết nhường nhau
      Bán kia, chẳng nỡ mua cho rẻ
      Vay nọ, xin đừng lãi lấy đau
      Bớt nỗi sai đời làm độc khố (*)
      Thôi thì đã trả hãy cơ cầu (**)
      Nặng lòng nhân nghĩa, hay thương khó
      Giàu ấy hầu toan mới được lâu (***)

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Khi khách đến đòi nợ thì giơ đủ mánh khoé độc ác, nào giết gà, đánh chó để ăn. Khi họ ra về con nợ còn phải có phẩm vật tiển đưa
      (**) Hãy cơ cầu : hãy còn cơ cầu ác nghiệt
      (***) Người đời khi đã giàu có muốn được bền thì phải có lòng nhân nghĩa


      RĂN KHÔNG NÊN TIN NHẢM TÌM ĐẤT TỐT
      Phúc địa chi cho kẻ cưỡng cầu (*)
      Được chăng run rủi bởi cơ mầu
      Ở lành, chẳng rắp hay nên gặp (**)
      Nẻo dữ, tuy tìm lại phải âu
      Quí Nộ phân kim (***) ai khéo bấy.
      Cao Biền (****) ưa thuỷ phép sai đâu
      Ngẫm xem dám …
      Phúc địa chi cho kẽ cưỡng cầu ?

      ~~~~~~~~~~~~~~~
      (*) Cưỡng cầu : cầu mong gượng gạo
      (**) Chẳng rắp hay nên gặp : chẳng tìm mà lại gặp
      (***) Phân kim gọi là phân kim vị kim đứng đầu ngũ hành. Tìm phương vị là để đặt huyệt đúng hướng.
      (****) Cao Biền : quan đô hộ đời Đường kiêm mấy thầy phù thuỷ xảo nguyệt


      VÔ ĐỀ

      1

      Rất nhân sinh bảy tám mươi (*)
      Làm chi lận đận nhọc lòng người ?
      Một am (**) phong nguyệt, tớ vui tớ
      Hai chữ công danh, ngươi mặc ngươi
      Xa mã cửa …
      Cá tôm bữa miếng mọi mùi tươi
      Sang khó miễn yên đòi phận
      Rất nhân sinh bảy tám mươi

      ~~~~~~~~~~
      (*) Viết thoát ý câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy" Đời người ta sống đến 70 tuổi thì xưa nay kể hiếm
      (**) Một am : am Bạch Vân

      2

      Lợi danh từng biết chốn xôn xao,
      Dấu cũ đành mong nối họ Sào (*)
      Đèo núi vỗ tay cười khúc khích
      Rặng thông vắt cẳng (**) hát nghêu ngao
      Đòi nơi phong nguyệt vui thay đấy !
      Dầu phận công hầu bận (***) được nao ?
      Hãy so xem người thế tục
      Aâu ta cũng đã kể làm cao

      ~~~~~~~~~~~~~
      (*) Họ Sào : tức Sào P hủ một cao sĩ đời Đường Nghiêu ẩn ở núi Cơ Sơn, dùng câu làm nhà như một cái ổ nên gọi là Sào Phủ (sào là cái ổ)
      (**) Vắt cẳng : ngồi vắt chân chữ ngũ
      (***) Bận : bận bịu

      3

      Phú quý lòng, phú quý danh (*)
      Thân hoà tự tại, thú hoà thanh
      Tiền sen (**) tích để bao nhiêu thúng
      Vàng cúc (***) đâm bông biết mấy giành (****)
      Ngoài cửa mận đào là khách khứa
      Trong nhà cam quýt ấy tôi mình
      Ai xem, ai chẳng hay là chớ (*****)
      Lại một ta khen ta hữu tình

      ~~~~~~~~~~~~
      (*) giàu về đạo đức hơn là sang trọng về địa vị
      (**) Lá sen lúc mới nở tròn như đồng tiền
      (***) vàng như hoa cúc
      (****) rổ nhỏ đan bằng tre
      (*****) Ai biết hay chẳng biết cũng thế thôi

      4

      Người gồng gánh kẻ lầm than
      Ta biết so ta (*) kể thực nhàn
      Đường lợi há theo thị tinh ? (**)
      Cảnh thanh chiếm hết giang san
      Ngắm chơi đã trải miền thôn dã
      Hóng mát từng vui chốn thạch bàn (***)
      Một cỏ hoa đều đủ được
      Rất vời thong thả cõi trần gian

      ~~~~~~~~
      (*) Ta biết so ta : so ta với người gồng gánh, kẻ lầm than
      (**) Thị tỉnh : có nghĩa là thành thị, đô thị
      (***) Thạch bàn : phiến đá phẳng dùng điển Khương Tử Nha câu cá ở Thạch Bàn

    Top of Page


    Người Trung Hoa phục tài Trạng Trình Việt Nam nên đã có lời ca tụng “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” : Nước Nam về khoa Lý học có ông Trình Tuyền.

    Tương truyền những sự việc sau đây đã ứng nghiệm đúng theo lời sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    1. Tiên Tri về Nhà Tây Sơn dấy nghiệp :

      “Chân cung xuất nhật
      Đoài cung vẩn tinh”

      Nghĩa là :
      Mặt trời xuất hiện ở phương Đông
      Sao sa ở phương Tây.

    Theo Bát Quái có tám quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn ở phương Đông. Theo kinh Dịch cung Chấn chỉ về người trên. Yù nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.

    Sáu câu :

      “Bao giờ trúc mọc qua sông
      Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
      Đoài cung một sớm đổi thay
      Chấn cung sao cũng sa ngày chẳng còn
      Đầu cha lộn xuống chân con
      Mười bốn năm tròn hết số thì thôi”

    Sáu câu nầy ứng vào việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng Long,Sĩ Nghị cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh. Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế (hai câu 1-2)

    Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm Quang Trung được vua nhà Thanh là Càn Long phong chức An Nam Quốc Vương.

    Sau hai năm ở ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất. Đoài cung câu 3 có nghĩa là phương Tây. Theo Kinh Dịch, cung Đoài là kẻ dưới, ý nói người em là Nguyễn Huệ mất. Năm sau, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con của Quang Trung) chiếm thành Qui Nhơn nên thổ huyết mà thác (Chấn cung câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc, người anh của nhà Tây Sơn). Câu 5 chỉ tên vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ “Quang” của vua Quang Trung gồm chữ “Tiều” ở trên mà chữ “Cảnh” của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiều” ở dưới. Thế nên mới nói : Đầu cha lộn xuống chân con. Câu 6 nói nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm.


    2. Tiên Tri về việc Phong hầu cho dân làng vĩnh lại

      “Bao giờ ngựa đá qua sông
      Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng”

      Nghĩa là :
      Khi nào ngựa đá qua sông được thì dân làng Vĩnh Lại đều được phong hầu.

    Khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn trốn qua làng Vĩnh Lãi dân chúng ủng hộ nhà vua chống lại Tây Sơn, vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình liên phong tước hầu cho người cầm đất dân làng. Tin truyền ra dân chúng tranh nhau xin vua phong tước hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng.

    Nhiều người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách Thái Ất Thần Kinh mà thông suốt mọi việc quá khứ vị lai.


    3. Tiên tri về tương lại của Nhà Nguyễn :

      “Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
      Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê”

    Ý nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người Pháp để diệt nhà Tây Sơn. Nhưng nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người Pháp. Chữ “dê” dịch nghĩa Hán là “dương” ám chỉ người Tây Dương.

    Bốn câu :

      “Để loài bạch quỷ Nam xâm
      Làm cho trăm họ khổ trăm lưu ly
      Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
      Gia đình một ở ba đi dần dần”

    Hai câu đầu chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng khốn khổ “Bạch quỷ Nam xâm” làm nhân dân cực khổ điêu đứng vì cảnh chia lìa.

    Hai câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn là Hàm Nghi (bị đày sang Algérie), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Réunion) chỉ còn một mình Khải Định ở lại làm vua ứng nghiệm vào câu: “Gia đình một ở ba đi dần dần”.


    4. Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp

      Kìa kìa gió thổi lá rung cây
      Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây”

    Sau ngày Pháp thôn tính Việt Nam các phong trào Cần Vương trong nước và Văn Thân đều nổi dậy khắp nơi.

    Bốn câu :

      Tan tác KIẾN kiều AN đất nước
      Xác xơ CỔ thị sạch AM mây
      LÂM giang nổi sóng mùa THAO cát
      HƯNG địa tràn dâng HOÁ nước đầy.

    Ứng vào cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại Kiến An, Cổ Am, Lâm Thao và Hưng Hoá. Thật là cảnh đất nước xác xơ như cành cổ thụ cắn trụi. Sóng gió, cát bụi nổi lên mịt trời hoà cùng máu của các chiến sĩ gục ngã để giành lại chủ quyền độc lập. Câu “Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua” chỉ phong trào tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên.


    5. Tiên tri toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay

    Hai câu :

      “Giữa năm hai bảy mười ba
      Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”

    Tám gà : Hán văn là Bát kê. Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng bảy, mười ba tháng, Toàn quyền Đông Dương Pasquier mãn nhiệm trở về Pháp, dọc đường máy bay bị nạn, Pasquier bị chết cháy giữa không trung đúng vào câu “Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây”

    Sau đây là Cảm đề và Sấm ký của Trạng Trình


      CẢM ĐỀ :

      Thanh nhàn vô sự là tiên
      Năm hồ phong nguyệt ruỗi thuyền buông chơi
      Cơ tạo hoá
      Phép đổi dời
      Đầu non mây khói toả
      Mặt nước cánh buồm trôi
      Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
      Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
      Tuổi già thua kém bạn
      Văn chương gởi lại đời
      Dở hay nên tự lòng người cả
      Bút nghiên soi hoa chép mấy lời
      Bí truyền cho con cháu
      Dành hậu thế xem chơi


      SẤM KÝ :

      Nước Nam từ họ Hồng Bàng
      Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần
      Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
      Đã bao lần ngôi nước đổi thay
      Núi sông thiên định đặt bày.
      Đồ thư một quyển xem nay mới rành
      Hoà đao mộc lạc
      Thập bát tử thành
      Đông Á nhật xuất
      Dị mộc tái sinh.
      Chấn cung xuất nhật
      Đoài cung vẫn tinh
      Phụ nguyên chi thống
      Đế phế vi đinh
      Thập niên dư chiến
      Thiên hạ cửu bình
      Lời thần trước đã ứng linh
      Hậu lai phải đoán cho mình mới tường
      Hoà đao mộc hồi dương sống lại
      Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương
      Hà thời biện lại vi vương,
      Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
      Lê tồn Trịnh tại
      Trịnh bại Lê vong
      Bao giờ ngựa đá sang sông
      Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng
      Hà thời thạch mã độ giang
      Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu
      Chim bàng cất cánh về đâu?
      Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công
      Bao giờ trúc mọc qua sông
      Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
      Đoài cung một sớm đổi thay
      Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
      Đầu cha lộn xuống thân con
      Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
      Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
      Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê
      Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
      Gà kia vỗ cánh trập trùng bay
      Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
      Aên no ủn ỉn lợn kêu ngàu
      Nói cho hay khảm cung ong dậy
      Chí anh hào biết đấy mới ngoan
      Chữ rằng lục thất nguyệt gian
      Ai mà giữ được mới nên anh tài
      Ra tay điều đỉnh hộ mai
      Bấy giờ mới rõ là người an dân
      Lọ là phải nhọc kéo quân
      Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
      Phá điền than đến đàn dê
      Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
      Dê đi dê lại tuồn luồn
      Đàn đi nó cũng một môn phù trì
      Thương những kẻ nam nhi chí cả
      Chớ vội sang tất tả chạy rong
      Học cho biết chữ cát hung
      Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
      Hễ trời sinh xuống phải thì
      Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong
      Kìa những kẻ vội lòng phú quí
      Xem trong mình một tí đều không
      Ví dù có gặp ngư ông
      Lưới giăng đâu dễ nên công mà hòng
      Khuyên những đứng thời trung quân tử
      Lòng trung nghiã nên giữ cho mình
      Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
      Thái nhâm, thái ất mình cho hay
      Chớ vật vờ quen loài ong kiến
      Hư vô bàn miệng tiếng nói không
      “Ô hô thế sự tự bình bồng,
      Nam Bắc hà thời thiết lộ không
      Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
      Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng
      Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
      Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
      Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
      Tứ phương thiên hạ thái bình phong”
      Ngõ may gặp hội mây rồng
      Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
      Nước Nam thường có thánh tài
      Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
      So mấy lề đè tàng kim quỹ
      Kề sau này ngu bỉ được coi
      Đôi phen đất lở cát bồi
      Đó đây ông kiến dậy trời quỷ ma
      Ba con đổi lấy một cha
      Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
      Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
      Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần
      Hoành sơn nhất đái
      Vạn đại dung thân
      Đến thời thiên hạ vô quân.
      Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành
      Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
      Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
      Thiên sinh hữu nhất anh hùng
      Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà
      Thái Nguyên cận Bắc đường xa
      Ai mà tìm thấy mới là thần minh
      Uy nghi dung mạo khác hình
      Thác cư một góc kim tinh phương Đoài
      Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
      Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
      Binh thư mấy quyển kinh luân
      Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu
      Xem ý trời ngỏ hầu khải thánh
      Dốc sinh ra điều chỉnh hộ mai
      Song thiên nhật nguyệt sáng soi
      Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
      Thông minh kim cổ khác thường
      Thuấn Nghêu là trí, Cao Quang là tài
      Đấng hiên ngang nào ai biết trước
      Tài thao lược yêm bác vũ văn
      Ai còn khoe trí khoe năng
      Cấm kia bắt nọ hung hăng với người
      Chưa từng thấy nay đời sự lạ
      Chốc lại mòng gá vạ cho dân
      Muốn bình sao chẳng lấy nhân
      Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình
      Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
      Lại đua nhau quần thán đồ lê
      Chức nầy quyền nọ say mê
      Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
      Kẻ thì phải thuở hung hoang
      Kẻ thì bận của bóng toan khốn mình
      Cửu cửu càn khôn dĩ định
      Thanh minh thời tiết hoa tàn
      Trức đáo dương đầu mã vĩ
      Hồ binh bát vạn nhập Trường an
      Nực cuời những kẻ bàng quan
      Cờ tan lại muốn toan đường chống xe
      Lại còn áo mũ xum xoe
      Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang
      Ghê thay thau lẫn với vàng
      Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
      Thành ra tuyết tán mây tan
      Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi
      Can qua việc nước tơi bời
      Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
      Oai phong khấp quỷ kinh thần
      Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
      Rừng xanh núi đỏ bao la
      Đông tàn Tây bại sang gà mới yên
      Sửu, Dần thiên hạ đảo điên
      Ngay nay thiên số vận niên rành rành
      Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
      Can qua xứ xứ khổ đao binh
      Mã đề dương cước anh hùng tậu
      Thân Dậu niên lai kiến thái bình
      Sự đời tính đã phân minh
      Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau
      Đầu thu gà gáy xôn xao
      Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long
      Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
      Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
      Lợi kêu tình thế lâm nguy
      Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời
      Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
      Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta
      Hùm gầm khắp nẻo gần xa
      Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
      Rồng bay năm vẻ sáng ngời
      Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
      Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng
      Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
      Chín con rồng lộn khắp nơi
      Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
      Lời truyền để lại bấy nhiêu
      Phương Đoài giặc đã đến chiều bại vong
      Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
      Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình
      Đầu can vô tướng ra binh
      Aát là trăn họ thái bình âu ca
      Thân Kinh Thái Aát suy ra
      Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn
      Ngay thường xem thấy quyển vàng
      Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
      Bởi Thái Aát thấy lạ đời
      Aáy thuở sấm trời vô giá thập phân
      Kể từ đời Lạc Long Quân
      Đắp đổi xoay vần đến lúc thất gian
      Mỗi đời có một tội ngoan
      Giúp chung nhà nước dân an thái bình
      Phú quí hồng trần mộng
      Bần cùng bạch phát sinh
      Hoa thôn đa khuyển phệ
      Mục giả giục nhân canh
      Bắc hữu Kim thành tráng
      Nam hữu Ngọc bích thành
      Phân phân tùng bách khởi
      Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
      Bảo giang thiên tử xuất
      Bất chiến tự nhiên thành
      Rồi đây mới biết thánh minh
      Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
      Nhị Hà một dải quanh co
      Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
      Khắp hoà thiên hạ nao nao,
      Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
      Nói đến độ thầy tăng ra mở nước
      Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
      Bấy lâu những cậy phép mầu
      Bây giờ phép ấy để lâu không hào
      Cũng có kẻ non trèo biển lội,
      Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề
      Có thầy Nhân Thập đi về
      Tả hữu phù trì,cây cỏ thành binh
      Những người phụ giúp thánh minh
      Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
      Phùng thời nay hội thái lai,
      Can qua chiến trận để người thưởng công,
      Trẻ già được biết sư lòng
      Ghi làm một bản để hòng dở xem
      Đời này những Thánh cùng Tiên
      Sinh những người hiền trị nước an dân

      ….
      Nầy những lúc thánh nhân chưa lại
      Chó còn nằm đầu khải cuối thu
      Khuyên ai sớm biết khuông phù
      Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngõ hầu
      Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ
      Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao
      Thấy Sấm từ đây chép vào
      Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa


      Top of Page

            HOME