1- THÁNH-LỊNH cho CHỨC SẮC BỘ NHẠC
(Đức Hộ Pháp đã để lời phổ hóa trong cuộc phát THÁNH-LỊNH cho CHỨC SẮC BỘ NHẠC đi hành Đạo Nam, Trung, Bắc và Kiêm-Biên Tông đạo ngày 18-7 Quí Tỵ - 1953.)
Đức Hộ Pháp Thuyết:
"Thưa cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Hôm nay Bần-Đạo đến dự lễ nầy trọng yếu đặng mừng cho cả Chức sắc Bộ Nhạc lãnh sứ mạng chỉnh đốn cả Lễ-Nhạc y theo chơn truyền của Đạo.
Các Em, mấy đứa nhỏ, Thầy lấy làm vui mừng thấy cả tâm đạo của mấy Em biết chọn một con đường lập thân danh khéo léo. Qua thường nói với mấy em rằng: Nếu một nền Tôn-giáo mà không có LỄ, không có NHẠC thì cả cái mỹ pháp của nó, dầu Thể Pháp, Bí Pháp cũng vậy, chẳng hề khi nào đặng tốt đẹp hoàn mỹ.
Qua có giảng cho mấy em biết, vì cớ nào Nhạc là Lễ, mấy em biết khuôn khổ của Nhạc do tinh thần xuất hiện, Qua chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy em trong Nhạc-Sĩ cho tới chức lớn của Bộ Nhạc là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn mà đờn thì không có đứa nào giống đứa nào hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của mấy em, đó là cá nhân của mấy em đó vậy.
Ấy vậy, Nhạc nó sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần là gì? Tinh thần mới thiệt là Đạo.
Tại sao Nhạc là Lễ?
LỄ ngoài đời mấy em ngó thấy một bằng cớ hiển nhiên, là khi mấy em đờn hòa cùng nhau, tuy ngón đờn của mấy em mỗi đứa đều khác, hay dở đặc biệt mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp trường canh mấy Em phải theo nó mà thôi, nếu không tùng nó thì mấy Em chẳng hề khi nào hòa NHẠC cùng kẻ khác được.
Ấy vậy trong khuôn khổ HÒA với nhau, ấy là LỄ.
Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy Em hiểu, LỄ NHẠC do âm thinh đó vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Giờ phút nầy Qua cho mấy Em biết, chỉ có dân tộc Việt-Nam về văn hóa Nho-Tông của chúng ta mới có đặng một cái NHẠC là đều do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy Em, cái kinh dinh của các sắc dân trên mặt địa cầu nầy, cả các quốc dân xã hội đều nhận điều đó. Nước Trung Hoa hay các sắc dân chịu ảnh hưởng cái văn minh tối cổ của Nho-Tông chúng ta mới có NHẠC, âm thinh ấy là LỄ.
Bằng cớ hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị luận tại nơi Liên-Hiệp-Quốc, họ luận rằng: Nếu cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầy mà đặng gìn giữ cho còn LỄ cũng như nước Tàu đã được LỄ tối cổ của họ, cả những điều nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng nhau giữa hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào xảy ra, nếu có xảy ra là tại họ vô lễ cùng nhau mà chớ.!
Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại chịu thống khổ hai phen Đại-chiến hoàn cầu. Mấy Em nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho đến nước họ đập bàn ghế ra khỏi Hội-nghị của Quốc-tế là tại họ thiếu LỄ, mà LỄ là NHẠC. Qua lấy một bằng cớ rõ ràng, người Pháp đã nói:“La Musique Adoucit les Moeurs”.
NHẠC làm cho phong hóa luân lý tốt đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, cả các liệt quốc Âu Châu đều cũng nói.
Ấy vậy, giờ phút nầy Qua ký Thánh Lịnh cho mấy Em đi các nơi, cốt yếu đặng mấy Em đem cái ngôn ngữ điều hòa, lấy một ống tiêu mà Trương-Lương đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng của Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho nhà Hớn duy có ống tiêu Trương-Lương mà thôi.
Giờ phút nầy Qua giao cho mấy Em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe ống tiêu Thiêng Liêng của mấy Em đặng tinh thần nòi giống mấy Em đứng dậy định tương lai vinh-quang cho mình với cái giọng ngọt dịu của mấy Em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt hung hăng bạo ngược, trái lại đem đến một con đường hòa hưỡn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu, đem lại cái đạo đức tinh thần chiến thắng để cứu vãn sanh mạng loài người.
Bởi giờ phút nầy họ đang đi đến con đường diệt vong mà chớ”.
2- Bài Huấn Dụ của Đức Thượng Sanh về NHẠC
BÀI HUẤN DỤ của Đức Thượng Sanh đọc trong buổi Lễ Bổ nhiệm Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc Trung Ương Tòa Thánh Tây Ninh. Ngày 29-6-Canh Tý (dl 24-5-1960).
Kính thưa chư Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng, chư Đạo hữu.
Hôm nay, Hội Thánh Hiệp Thiên-Đài lấy làm hài lòng đến chứng kiến Ban Cai Quản Bộ Nhạc Trung ương nhơn dịp ông Tiếp Lễ Nhạc Quân ban hành Huấn Lịnh của Hội Thánh giao phó trách nhiệm cho mỗi chức phẩm và nhơn viên của Ban nầy.
Riêng tôi, tôi lấy làm vui và mãn nguyện được thấy một sự tiến bộ khả quan và tôi hy vọng vị Tiếp Lễ Nhạc Quân và Chức sắc cùng nhơn viên của Bộ Nhạc, cũng như Bộ Lễ, sẽ tận tâm chung sức nhau để trau giồi và nâng cao nền LỄ NHẠC của Hội Thánh về hình thức cũng như về tinh thần.
Mỗi Chức sắc và mỗi vị đều rõ biết, LỄ NHẠC là rất quan hệ và trọng yếu cho đời và cho con người, cũng chẳng khác chi món ăn và thức mặc vậy. Các Đấng Thánh nhân thời cổ tìm cái căn nguyên cao xa và tôn quí của LỄ NHẠC ở trong đạo tự nhiên của Trời Đất và cho rằng: LỄ là cái trật tự của Trời Đất, NHẠC là cái điều hòa của Trời Đất.
Võ trụ nhờ có LỄ NHẠC mà tồn tại, vạn vật trong Trời Đất nhờ có LỄ NHẠC mới có trật tự phân minh, thời tiết thuận lợi, Âm Dương luân chuyển, khí tính điều hòa mà giúp cho cơ sanh hóa.
Nói cách khác, LỄ NHẠC của Trời Đất tức là cách sắp đặt của Đấng Tạo hóa, làm cho vạn vật được có vị trí phân minh không sai đường, không đổi hướng: hết Xuân qua Hạ, Thu mãn kế Đông về, mưa nắng tùy theo mùa, gió sương tùy theo tiết, hết ngày tới đêm, hết tối tới sáng, nhựt nguyệt tuần tự chuyển luân, phân phối Âm Dương điều hòa, ấm lạnh thế nào cho cỏ cây được sởn sơ, mùa màng được kết quả.
Cơ quan sanh hóa của người và vật nhờ đó mà tồn tại và tiếp diễn mãi. Cái trật tự và cái điều hòa làm cho vạn vật sanh tồn. Đó tức là LỄ NHẠC của Trời Đất vậy.
Thánh nhơn mới nhơn đó chế ra LỄ NHẠC để làm căn bản trong sự dạy người và trị thiên hạ, khiến người ta cư xử hành động sao cho hợp Nhơn đạo, tức là hợp với Thiên lý.
Vì lẽ đó, đối với các bậc Đế Vương đời trước, LỄ và NHẠC có cái địa vị rất là trọng yếu về đường chánh trị. “LỄ tiết dân tâm, NHẠC hòa dân thạnh”, là dùng Lễ để tiết chế lòng dân, dùng Nhạc để hòa thanh âm của dân.
Cái hay của LỄ là làm cho có sự cung kính, giữ trật tự phân minh. Cái hay của NHẠC là tạo sự điều hòa khiến cho tâm tánh tao nhã. Nhạc và LỄ phải dung hòa với nhau thì mới được hoàn toàn, vì nếu có LỄ mà không có NHẠC thì người ta đối xử với nhau phân biệt, mất tình thân ái; còn có NHẠC mà không có LỄ thì thành ra thiếu trật tự, khinh lờn nhau.
Vậy có LỄ tức phải có NHẠC để kềm chế nhau cho có điều hòa và phân biệt.
Đức Khổng-Tử tin sự dùng Lễ Nhạc có công hiệu rất lớn, nên Ngài nói rằng: “Quân tử minh ư Lễ Nhạc, cử nhi thố chi nhi dĩ” có nghĩa là: người quân tử biết rõ Lễ Nhạc, chỉ đem thi thố ra là đủ. Vì Lễ thì khiến sự hành vi bên ngoài, Nhạc thì khiến tâm tình bên trong. Cái cực điểm của Nhạc là hòa, cái cực điểm của Lễ là thuận. Nếu bên trong mà tính tình điều hòa, bên ngoài sự hành vi thuận hợp nghĩa lý, thì cái tà tâm vọng niệm thế nào còn chen vào được lòng người ta nữa.
Trái lại, nếu Lễ mà không kính, Nhạc mà không hòa, thì dầu bề ngoài có giữ đủ các lề lối thì cũng không có ích lợi cho sự tiến hóa của con người.
Lập nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn lấy Lễ Nhạc làm gốc. Đức Chí Tôn chỉ dạy từ bước chơn đi LỄ phải thế nào, cho tới hòa tấu những bản Nhạc nào mà thường nhắc nhở Chức sắc nếu Cúng Đàn mà Lễ Nhạc không nghiêm thì chỉ để cho tà quái xung nhập, chứ các Đấng thiêng liêng không chứng.
Vậy các Chức sắc và nhơn viên trong Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ, nên hết lòng sốt sắng với nhiệm vụ, gắng lo trau giồi nghệ thuật cho tới chỗ tận thiện tận mỹ, để nâng cao tinh thần của nền Đạo.
Nơi một Đàn cúng mà Lễ Nhạc được trang nghiêm thì Đàn cúng được bao trùm, có thể nói là một bầu quang tuyến thiêng liêng huyền diệu, khiến cho chúng ta tưởng tượng là có Đức Chí Tôn và các Đấng Tiên Phật giáng đàn để chứng kiến lòng thành của chúng ta và ban ơn cho chúng ta.
Trái lại, nếu LỄ không nghiêm, NHẠC không hòa, thì Đàn cúng dường như có cái tâm trạng hỗn loạn, nô đùa, khiến người quì cúng có cái tâm trạng xao xuyến, bần thần, bất mãn. Lập Đàn cúng như vậy, chúng ta chẳng những thất lễ mà còn đắc tội với Đức Chí Tôn.
Ngoài ra, có người ngoài hay người của các Tôn giáo khác dự kiến, chúng ta lại làm hạ phẩm giá nền Đại Đạo, đó là chúng ta chất thêm tội lỗi nữa.
Thành thử, nhiệm vụ của Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ lấy làm quan trọng và công quả của mấy vị đối với Đức Chí-Tôn là một công quả cao quí, chẳng phải tầm thường.
Đức Chí-Tôn có nói và tôi cũng thường nhắc nhở chư Đạo hữu về mặt Đạo, không có công quả nào cao, công quả nào thấp. Kẻ chịu lao tâm, người chịu lao lực, lao tâm hay lao lực đều hướng về một mục tiêu là giúp ích cho Đạo, làm nên cho Đạo. Thế thì sự phục vụ dầu về phương diện nào và dưới hình thức nào, đều có cái giá trị Thiêng liêng duy nhứt của nó. Cao hay là thấp là do nơi cái tâm của ta, do nơi có sự thành thật hay không mà thôi.
Ấy vậy, hướng về tiền đồ đại nghiệp của Đạo, tôi xin toàn thể Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc và Bộ Lễ lấy hết chí thành thi hành phận sự đắc lực để phục vụ Đức Chí Tôn và phụng sự cho nền Chánh giáo, hầu ngày sau để tên tuổi nơi sử Đạo và lập vị xứng đáng ngày công viên quả mãn.
Tòa Thánh, ngày 29 tháng 4 Canh Tý (dl 24-5-1960).
THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG
3- LỜI ĐIỀU TRẦN:
Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân Cao Quỳnh Diêu có viết
LỜI ĐIỀU TRẦN để dạy các học sinh học Nhạc Lễ nơi Lễ Nhạc Đường vào năm Nhâm Thìn (1952) như sau đây:
Yếu lý thuộc về Giáo khoa Lễ Nhạc hầu thành lập Chương trình để un đúc tinh thần cho học sinh, tượng trưng phép điều hòa nơi cửa Đại Đạo.
NHẠC: vốn là một Đạo pháp rất thâm u, đã có trước buổi Khai Thiên, vẫn là một từ khí thông công với luồng điện-thoại truyền tấu khắp Càn Khôn chiêu tụ chơn hồn cả vạn vật.
Khi thành lập các địa giới, biến sanh đủ muôn loài, rồi thì vạn linh hấp thụ lấy năm âm của thức nhạc mà tỏ vẻ Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Dục riêng của mỗi loại. Nhưng do theo luật công bình thiêng liêng thì buổi sơ sanh của vạn loại cả thảy đều tự khởi với cái giọng đớt-đát thô-bĩ. Chừng tìm hiểu được cái lẽ nhiệm mầu của Trời Đất, nhơn loại mới lần hồi trau luyện sửa đổi cho ra thanh tao trong giọng nói, giúp thêm tinh vi cho khuôn lễ, tiến hóa cho đến khi phù hạp tánh cách thiên nhiên với nhau mới có cộng hưởng phép điều hòa, mà xây dựng nền phong hóa riêng của mỗi quốc dân; hồn nước do nơi đó mà phân định cao thấp. Ấy là Đạo pháp để gầy nên cơ hiệp chủng y theo triết lý của Lễ Nhạc đã cạn giải.
Nguồn cội của phép điều hòa đã tìm được mà tin dùng văn từ buổi cổ thời do nơi Đức Hiên Viên Huỳnh Đế.
Khi Ngài ngự chế ra Lễ Nhạc, Ngài để ý nghe thấy sự hỗn hợp của Bát hồn: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch, Kim, Ty, Trúc, tuy là khác giống nhau mà có thể tỏ ra vẻ hòa âm. Từ ấy, Ngài cứ bình tâm định trí để tìm hiểu lẽ nhiệm mầu của luật thiên nhiên. Chừng rõ thấu cơ mầu của Trời Đất, Ngài mới tùy nơi hình thể của thức hồ cầm (tục gọi là đờn tỳ bà) có vẻ trạng thái Thiên triều: đôi bên tả hữu có dây văn dây võ, trên có Tứ Thiên Vương, dưới có Thập Điện Quân. Ngài nương theo kiểu mẫu ấy gầy nên quốc vận, như Ngài đã thành lập một quốc gia.
Về nội dung: nơi triều đình có văn biền để bỉnh chánh, nơi biên cương có võ bị để ngừa loàn, xây dựng nên một quốc thể đủ vẻ nghiêm trang, thuần túy.
Về ngoại dung: Ngài đào tạo nên tổng, làng, hương đảng có đủ tánh tình ôn hậu để giáo hóa lê dân với tư cách điều hòa. Toàn trong nước, cả quan dân đều cộng hưởng thái bình, thành thử trong buổi nọ, nhờ nơi đó mà Kinh Lễ và Kinh Nhạc xuất hiện, mà hễ hai bộ Kinh Lễ và Kinh Nhạc được ra mặt dìu đời tức là Nho-Tông đã sáng lập.
Tiếp theo là phép an dân của Đức Hiên Viên Huỳnh Đế, về sau có vua Nghiêu vua Thuấn là hai bậc Thánh Đế đều noi theo gương ấy mà làm cho cuộc thế rất nên điều hòa, cả lê thứ thảy đều được an cư lạc nghiệp. Từ ấy đến nay, thời gian đã trải qua trên bốn ngàn năm mà nhơn vật trong thế kỷ 20 nầy vẫn còn để tâm hoài vọng cho thời cơ điều hòa của phép Lễ Nhạc buổi nọ được tái vãng.
Như thế thì buổi hiện thời, trong hàng trí giả còn có ai là chẳng biết rằng LỄ NHẠC vốn là hai quan điểm đặc sắc để khởi dẫn bước đầu tiên cho nhơn loại, lần hồi gầy mối cảm tình nhau mà đoạt được phép điều hòa, nhứt là trong buổi loạn lạc nầy, cả nhơn loại toàn cầu đều chịu thống khổ nguy nan, còn có chi hay để cải sửa cơ đời cho bằng phép ấy. Các Đấng thiêng liêng hay gợi nhắc chúng ta nên dùng pháp mầu của Nho-Tông để chuyển thế là bởi đó.
Luận giải dường ấy thì chúng ta đủ rõ thấy rằng: nét hưng vong của một quốc vận, nhục vinh của một chủng tộc, suy thạnh của một gia đình, nên hư của một cá nhân, cuộc cờ đời biến đổi trở day đều do nơi đó cả thảy. Hà tất chúng ta nơi cửa Đạo Trời, vẫn có nhiệm vụ thật hành phép điều hòa trong cửa Đại Đạo để làm khuôn mẫu trước hết cho nòi giống Việt Thường theo bước, hầu gây nên Quốc Đạo theo mấy câu văn của Đức Chí Tôn đã dạy:
QUỐC ĐẠO kim triêu thành Đại Đạo,
NAM-PHONG thử nhựt biến Nhơn phong.
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,
Văn hóa tương lai lập Đại đồng.
Vậy thì hai quan điểm của Lễ Nhạc, chúng ta cần phải giồi trau cho có vẻ thuần túy, để tượng trưng phép điều hòa thế nào cho xứng đáng một gương trong để soi sáng vẻ Đạo hạnh cho toàn cả Việt dân dõi chước, làm cho vạn bang nhìn nhận thì Quốc Đạo chúng ta tự gầy nên rồi Đại Đạo tùy đó mà hoằng khai trong các nước.
Muốn giải rõ hơn nữa thì thức Nhạc của hiền xưa đã gầy nên vốn để trạng thái vẻ thanh âm của phép điều hòa cho nhơn loại làm gương soi mình, hầu giồi mài trong lời lẽ cho có âm giọng thuần hòa thanh tao âm điệu. Vậy thì trước nhứt mấy em Lễ sĩ, Nhạc sĩ cần phải sẵn có học biết nhiều ít về văn chương, ngôn ngữ mới có đủ hầu sắp đặt theo thứ tự khép và lâm giọng của Nhạc-pháp, ngôn từ mới âm điệu, lời lẽ mới thanh tao, mà nói năng cho vừa lỗ tai người trong khi giao tiếp với nhơn quần xã hội để tượng trưng phép điều hòa y theo nguyên pháp của Đại Đạo.
Vì LỄ NHẠC là Đạo-pháp điều hòa của Đấng Hóa công đã gây nên để un đúc tinh thần cho nhơn loại hầu khêu gợi gieo rắc sự cảm hóa với nhau mà lập thành cơ hiệp chủng, cũng vì đó quốc-dân Pháp thường nói: La musique adoucit les moeurs. Nghĩa là: Âm nhạc để giúp đời được thuần phong mỹ tục.
Dường ấy thì những Chức-sắc có trọng trách dìu dẫn Nhạc sĩ và Lễ sĩ, chúng vẫn là đoàn em sẽ có nhiệm vụ thể hình Lễ Nhạc, chư vị cần phải do theo trình độ cao thấp của chúng mà gây nên, cần nhứt là tùy phương châm mà tạo lập lấy chương trình Nhạc Lễ cho có mục văn chương, trạch cử một vị Giáo-sư để dạy về văn từ, nhưng phải liệu lượng thế nào cho vừa với trí não của đoàn em mà dẫn lối, chúng nó mới có đủ tinh thần mẫn đạt mà tập rèn hầu lần hồi tiến bước vào nghệ thuật cho có vẻ thanh cao.
a/- Về NHẠC PHÁP:
Vậy thì cứ thể hình Nhạc pháp hai phương Văn Võ khác nhau: các thức đờn đều thuộc về Văn ban, vì có sẵn bản của hiền xưa đã sắp đặt. Trong mỗi bản đều có lớp có lang tùng theo nhịp nhàng nội ngoại ứng biến mà diễn tả bài Nhạc của nghệ sĩ thế nào cho có đủ câu Âm câu Dương đúng với niêm thức của bản, mới có thể hòa âm với các giống đờn khác, chẳng khác nào như các nhà văn sĩ cần chủ tâm, tùy nơi âm vận, niêm, luật, phá, thừa, trạng, luận, chuyển, kết, cho đúng mà hành văn mới tác thành những áng thi phú văn từ đáng giá.
Hơn nữa, Nhạc sĩ cần phải thấu hiểu rằng: tuy nhà văn sĩ đã chung họa thi văn với nhau trong một đề chủ, nhưng tinh thần trong bài văn đều do nơi khí phách riêng của mỗi người, tùy nơi tâm chí cao thấp mà biến tướng, nhờ đó mà ngoại nhân rõ thấy tài hay dở của văn sĩ. Nghệ thuật của Nhạc sĩ cũng vẫn dường ấy, vì cũng do nơi giọng đờn thanh cao tao nhã hay là thô bỉ sượng sùng mà người nghe hiểu được trình độ tiến hóa của Nhạc sĩ là thế nào.
Khó hơn nữa là dầu cho thức đờn hay dở thế nào cũng đều phải khép vào khoảng mau chậm của nhịp do nơi lá phách của ban võ lược, tức là cặp trống và đồ ngang đã ra ni, mới có vẻ rập ràng của các giống đờn.
Cặp trống Nhạc và các món như: mõ, bạc, trống cơm, bồng, kèn, v.v..., tục gọi là đồ ngang, đều đứng vào ban Võ lược vì cả thảy đối chọi với nhau mà xây dựng nên nhịp, mỗi món vẫn có phận sự riêng, khi thì minh, lúc lại ẩn, phải tùy cơ ứng biến cho đúng phép mà làm cho rập ràng nhau mới vững đặt nhịp nhàng.
Nói tóm tắt là cả hai bên Văn ban, Võ bị đều phải tương đắc với nhau, giọng hòa Âm của thức Nhạc mới có thể trợ giúp vẻ trang nghiêm cho cuộc lễ.
b/- Về LỄ PHÁP:
Theo Lễ pháp thì Lễ sĩ phải thấu hiểu rằng: Lễ đã dạy kỹ, bước bằng chữ Tâm 心 tức là giữ trọn tấm lòng thành, đi đứng có mực thước, tùy theo nhạc chầu 7 lá phách mới bước vào một bước, ấy là trạng thái bước LỄ đi đứng có vẻ tề chỉnh, còn hiến dâng Tam bửu: Bông, Rượu, Trà, tức là tạm dùng ba món để thể hình: Tinh, Khí, Thần, nghĩa là chúng ta hiến lễ cho Đấng Chí-Tôn với tấm lòng chí thành thường chứa ba tôn chỉ của Tam giáo là: Bác ái, Công bình và Điều hòa, tương tự như nơi cơ bí truyền có thể hình tam giác đóng khuôn bao quanh lương tâm (huệ nhãn).
Tóm tắt cả ý nghĩa là trong mỗi cuộc Lễ hiến cho Đức Chí-Tôn hoặc các Đấng thiêng-liêng hay là các bậc Tiền Hiền đã quá vãng, cả hành vi của mấy em Lễ sĩ và Nhạc sĩ biểu diễn vốn để tượng trưng cái phép cư xử theo LỄ cho nhơn loại dõi chước.
Nếu muốn yên vui với nhau nơi cõi tạm nầy, nhơn loại cần phải cộng sự với nhau bằng tấm lòng thành thật, tâm hằng giữ vững ba món báu là:
- Yêu đương với nhau,
- Đoan chánh với nhau,
- Hòa nhã với nhau, hầu được tránh khỏi mọi nỗi sai lầm với nhau trong bước đường đời. Ấy là đúng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn, vì Chí Tôn đã có dạy chúng ta nhiều lần với câu Thánh giáo nầy:
- “Chẳng cần chi hơn là Thầy thấy các con để tâm hòa nhã với nhau. Đó mới thật là Lễ long trọng các con hiến cho Thầy”.
Mà đó cũng là ba tôn chỉ của Nho, Thích, Đạo, do nơi thi văn Đức Kim Mẫu đã dạy rằng:
THI
Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Đạo tầm.
Những yếu điểm nầy, chẳng những để cho Nhạc sĩ, Lễ sĩ tìm hiểu đặng trau luyện nghệ thuật, mà toàn người trong Đại Đạo cũng cần phải chú tâm về đó, hầu giồi mình cho đắc pháp mới đáng gọi là Môn đệ của Đức Cao Đài Thượng Đế.
c/- KẾT LUẬN:
Lời lẽ Tiểu Dẫn nầy, tuy sơ lược, song cũng có nhiều ít ý nghĩa nhiệm mầu của phép Lễ Nhạc. Vẫn có thể được dễ hiểu cho các Chức sắc và mấy em học sinh nơi Lễ Nhạc Đường.
Vậy xin chư vị nên ký tâm về mấy lời vắn tắt nầy. Nếu muốn cho đoàn hậu tấn học tập Lễ Nhạc cho rập ràng thì rất dễ, còn trau luyện nghệ thuật cho ra vẻ thanh cao (nghĩa là được thanh tao và cao thượng) để dẫn lối thuần phong mỹ tục cho Việt chủng là việc rất khó, ta cần phải un đúc đoàn em về văn từ cho nhuận thấm thì nghệ thuật của chúng mới trở nên thuần túy mà biểu diễn trong các cuộc lễ, mà cũng vẫn có đủ tánh cách nho nhã cho mấy em, trong khi ra ngoài tương tiếp với nhơn quần xã hội, đáng mặt một học sinh nơi Lễ Nhạc Đường của Đại Đạo, vì Lễ Nhạc là hai quan điểm đặc sắc của Nho tông để đoạt phép điều hòa nâng cao hồn nước.
Chư vị phải để ý cẩn thận về đó cho lắm mới khỏi hổ lòng với lời Thánh giáo của các Đấng thiêng liêng đã dạy câu: Nho tông chuyển thế nơi cửa Đại Đạo.
Làm tại Trung Tông Đạo Tòa Thánh Tây Ninh.
Ngày 1 tháng 8 Nhâm Thìn (dl 19-9-1952).
BẢO VĂN PHÁP QUÂN
Cao Quỳnh Diêu (ấn ký)
4- LỄ NHẠC là hai điều trọng hệ của Đức Chí-Tôn.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết đạo tại Bộ Nhạc-Lễ đêm 16- 09 Canh Dần (1950) lúc 8 giờ 40 tối. Trong buổi tiệc của Nhạc sĩ Tân-Khoa.
“LỄ NHẠC là hai điều trọng hệ của Đức Chí-Tôn. Khi Ngài đến vẫn chú ý về hai điều ấy, chúng ta cũng vẫn biết, nền Đạo Cao-Đài là Nho-Tông chuyển thế, thì tức nhiên của toàn cả xã-hội nhơn quần nơi mặt địa cầu này nhờ Đạo Nho sửa đoan chỉnh đốn thiên hạ lại, chúng ta thấy xã hội tinh túy đạo đức của họ dường như đảo ngược lại khủng hoảng tinh thần mà ra vậy.
Nho đạo đã lập xã hội ở Á Đông từ Tam Hoàng qua tới nhà Châu rồi Ngài Châu Công chỉnh đốn Tân Dân.
Lễ Nhạc sản xuất do nơi Huỳnh Đế với Châu Công; Ấy vậy mình phải biết Nhạc khi nào cầm cây đờn, năm mười cây hòa lại nó một giọng thì tức nhiên chữ Hòa do nơi Nhạc sanh ra vậy.
Lễ Nhạc do nơi âm thinh, bởi thế nên chúng ta thấy Vạn Quốc giờ phút nầy, dầu văn minh thế nào mà hiểu đặng nền tăng tiến của Trung-Hoa thì đều khen ngợi. Từ thử đến giờ, trên mặt địa cầu này, có nước Tàu là do Đức Khổng-Phu-Tử chỉnh đốn hoàn bị nên Lễ Nhạc có phương thế làm môi giới, làm khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi nầy. Lấy tư cách lễ độ làm ngoại giao, tưởng chắc không nghịch nhau, chúng ta thấy tấn tuồng của vạn quốc họ đều thất lễ ấy, mà thế giới khởi chiến tranh.
Mấy em Nhạc tự biết mình chẳng phải làm nghề sơ lược của bọn đờn thổi ngoài đời như họ vậy, thành ra hèn hạ, còn nếu muốn biết tánh cách quan trọng của nó thì dở lịch sử ra xem mới biết, dầu nước văn minh nào ở mặt địa cầu nầy cũng không thể cải bỏ Nhạc được.
Mấy em phải biết cái tinh túy mà người ta có thể đo lường Nhạc cao thấp mà hiểu được, vì cớ cho nên mỗi nước có bản Quốc-thiều. Qua nói cùng mấy em rõ, giờ phút nầy mấy em cầm cây đờn, giữ giá trị riêng để tự trọng lấy mình. Qua nói rõ hồi lúc Qua học đờn tài tử, Qua đờn không cần ai khen, không sợ ai chê, hễ cầm cây đờn lên giọng đều như nói chuyện về tinh thần với cây đờn của mình, nhứt là Đức Cao Thượng Phẩm sanh tiền buổi nọ, lấy cây đờn mà làm bạn thiết, hết thảy ngôn ngữ thường tình đều khinh rẻ. Qua nghe từ ngôn ngữ của Nhạc, Qua biết nó là bạn tri âm, tri kỷ, cao thâm hoạt bát của nó, nên lấy trí luận thì từ trước kia Bá Nha là bạn tri âm của Tử Kỳ, biết tri kỷ đặng để làm gương. Hễ cầm cây đờn thì phiêu phi ở giữa lừng trời. Nhiều khi tiếng đờn hợp với tinh thần, thấy dường như tượng trưng ra khỏi xác thân để giúp tinh thần cường liệt vô đối, cái năng lực của cây đờn là ấy vậy, kẻ ngoài bàn luận, phê bình tánh cách hòa nhã mà thôi, mình biết tinh túy
của mình, trọng hay khinh là do nơi mình, nếu mình biết trọng thì họ trọng, nếu mình biết khinh thì họ khinh, mấy em tưởng tượng nghe đờn của mấy em, giờ phút nầy mấy em có thể nghĩ nó có giới hạn và có thể làm bạn với ta.
Từ thượng cổ, từ bực yếu trọng, họ nói là bạn với nó vậy, chí hướng tự trọng của nó, từ trước kia những bực tiền nhân của chúng ta là bạn thế nào, thì ngày nay chúng ta cũng làm bạn như thế ấy. Mấy đứa thi đậu kỳ nầy, con đường Thánh Thể của Đức Chí-Tôn đã mở rộng cho mấy em cứ khoan thai bước tới. Qua để hy vọng tương lai kẻ nào cầm vận mạng của nó phải biết giá trị và tánh chất hòa hợp với tiếng đờn yểu điệu, hiền từ, lịch lãm, khí khái của mấy em đã đào tạo. Ngày kia nó có giá trị và ảnh hưởng cho cả Quốc hồn là cây đờn của mấy em, nó sẽ là tương lai vận mạng của nước, nhớ từ đây sắp về sau phải biết tự trọng lấy mình, mà biết tự trọng lấy mình thì sau thiên hạ mới trọng mình vậy”.
5- Hôm nay Bần Đạo giảng về ý nghĩa Lễ Nhạc.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Từ thử ai cũng cho âm thanh sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc mà chính Đạo Tam Kỳ là Nho Tông chuyển thế thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào?
Đôi phen chúng ta không hiểu được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí-Tôn lúc Nhạc Tấu Quân Thiên, hết lớp trống, qua đến Bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Đạo cũng vậy vì nghĩ rằng: Chí Tôn tư vị quốc dân Việt Nam nên tiền định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn Đại-đồng Thế giới mà có Lễ Nhạc nầy luôn luôn khi dâng Lễ thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.?
Bởi cớ nên khi mới Khai Đạo, Bần-Đạo đến tại Thánh Thất Thủ Đức của ông Thơ tạo lập, Bần Đạo không tin nên hỏi Đức Lý Giáo Tông, Ngài dạy rằng, trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn:
| Phía hữu: |
Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão. |
| Phía tả: |
Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn. |
| |
八 魂 運 轉 歌 黃 老 |
| |
萬 物 同 聲 念 至 尊 |
Bần-Đạo cũng không hiểu là gì, lần lần Bần-Đạo hỏi nữa, Bần-Đạo lại được dạy mà hiểu rằng:
“Kể từ phôi thai Càn Khôn vạn vật nầy, Chí Tôn là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng Âm, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Đạo Phật sửa lại thành Úm (Úm ma ni bát rị hồng ) nhờ tiếng nổ ấy Bát hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người.!
Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi. Bởi cớ nên dùng những vật Bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn là tấm da trâu đã chết mà với sự khôn ngoan của loài người nó mới có tiếng kêu được tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Đức Chí-Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Quân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn qui pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài.
Nên chi từ đây, khi Nhạc Tấu Quân Thiên chúng ta xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lỡ đi nửa chừng trong Đền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn thì lễ ấy giảm điều kính trọng dâng cho Chí-Tôn mà không nên.
Khi ấy là vận chuyển Bát hồn đảnh lễ Đức Chí Tôn, vì cớ Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí-Tôn không phải là tư vị nước Việt-Nam mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát hồn và Ngài vẫn vui nhận lễ ấy. Ấy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn nhơn loại được, thì danh ấy không phải là quá đáng.
Xin khuyên toàn Đạo từ đây nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhạc Tấu Quân Thiên”.
6- NHẠC TẤU QUÂN THIÊN 樂 奏 壎 天
Đức Hộ-Pháp giảng giải rằng:
Bên Á Đông, trong nền Đạo Cao Đài có trống có chuông, còn bên Âu Châu có chuông mà không có trống là tại sao? Tại sao Á Đông dùng trống còn Âu Châu dùng chuông?
Trống là âm thinh của Đạo. Thuở chưa có càn khôn vũ trụ, Đạo giáo có dạy: Hai lằn nguơn khí đụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Đức Chí Tôn. Khi nào Trời sét nổ, chúng ta nghe sao? An Nam mình kêu “Ầm” còn theo Đạo pháp kêu “Ùm”, vì cớ phép Phật sửa lại là “úm” (Úm ma ni bát rị hồng) câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả quyền năng vũ trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân là tiếng chuông.
Ấy vậy nguyên căn của Đạo Giáo do bên Á Đông nầy, có tiếng trống ngân bay qua Âu Châu, nên các Đạo giáo Âu Châu đều là hưởng ứng theo Phật Giáo mà Phật Giáo xuất hiện nơi Á Đông. Vì vậy mà các nền tôn giáo phụ thuộc không đúng theo nguyên tắc căn bản.
Còn tại sao khi vô làm lễ, lúc “Nhạc Tấu Quân Thiên” tức là lễ hiến dâng sự sống cho Đức Chí Tôn là Thầy của cả càn khôn vạn vật, Bần Đạo thường nhắc nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang, của càn khôn vạn vật đồng thinh. Nơi Á Đông có câu “Biều, Thổ, Cách, Mộc, Thạch kim dữ Tư Trước nãi bát âm”.
Các vật vô năng mà nói đặng có trật tự niêm luật hòa nhau là đạt đạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung có đôi liễn:
“Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão.
“Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.”
Khi nhạc trổi, cả thảy phải im lặng, hiến cả âm thinh sự bí mật ấy gọi là Phi Tướng Lễ, chủ ý là trình tấu với Đức Chí Tôn rằng :Các con biết được mầu nhiệm nguyên căn của Cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như dâng Tam Bửu vậy. (TĐII/80)
7- Quyền hành Tiếp Lễ Nhạc Quân.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là một phẩm Chức sắc cao cấp, thay quyền cho Bảo Văn Pháp Quân, Chưởng quản về Nhạc và Lễ, Khách Đình và Nhà thuyền.
(Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước. Lễ Nhạc: lễ nghi và âm nhạc trong cúng tế. Quân: người, ông)
Phẩm Nhạc Sư, phẩm cao cấp nhứt trong Bộ Nhạc, sau 5 năm công nghiệp đầy đủ, được cầu thăng lên phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân khi phẩm nầy bị khuyết.
Phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân được cầu thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân khi phẩm Bảo Văn Pháp Quân bị khuyết.
Nhạc Sư đối phẩm Giáo-Sư Cửu-Trùng-Đài, còn Tiếp Lễ Nhạc Quân thì đối phẩm với Phối Sư Cửu-Trùng Đài.
Chú giải Pháp Chánh truyền có dạy:
“Ngoại Pháp-Chánh-Truyền, dưới quyền Hộ-Pháp thì còn Bảo-Văn Pháp-Quân (Art et Belles Lettres), trước Thầy phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị, đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo”.
Phận sự của Tiếp Lễ Nhạc Quân được Đức Phạm Hộ Pháp ấn định trong Thánh Lịnh số 23 ngày 22-4 Quí Tỵ (dl 14-5-1953) khi thăng cấp cho Nhạc Sư Võ Văn Chở lên làm Tiếp Lễ Nhạc Quân.
Đây nguyên văn Thánh Lịnh nói trên:
| HỘ PHÁP ĐƯỜNG |
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ |
| Văn phòng |
(Nhị thập bát niên) |
| ---ooo--- |
TÒA THÁNH TÂY NINH |
| Số: 23 |
|
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (Dl 15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Chiếu y Thánh Lịnh số 23, ngày 27 tháng 1 Nhâm Thìn (Dl 22-2-1952) ân tứ cho Nhạc Sư Võ Văn Chở được thăng phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân.
THÁNH LỊNH
Điều thứ 1: Phận sự của Tiếp Lễ Nhạc Quân Võ Văn Chở được gia tăng như sau nầy:
1. Chưởng quản Khách Đình.
2. Cai quản Ban Tổng Trạo và toàn nhơn viên Đạo Tỳ.
Điều thứ 2: Người trọn quyền sắp đặt và phân công trong các Ban Lễ, Nhạc và Trạo cho mỗi vị, các tư kỳ phận.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ sự tang tế thì mỗi khi có Lễ, Lễ Viện Hành Chánh và Lễ Viện Phước Thiện phải cho người hay liền.
Điều thứ 3: Tiếp Lễ Nhạc Quân được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện và cầm sổ sách thâu xuất cho phân minh mọi khoản. Sổ nầy mỗi cuối tháng phải có Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh và Lễ Viện Phước Thiện chấp thuận và ký tên mới đủ lẽ.
Điều thứ 4: Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chưởng quản Phước Thiện, Tiếp Lễ Nhạc Quân, Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước-Thiện, Cai quản các Ban Lễ, Nhạc và Trạo, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 22 tháng 4 Quí Tỵ (14-5-1953).
HỘ PHÁP
(ấn ký)
Trong quyển LỜI PHÊ của Đức Hộ Pháp, nơi trang 15, Đức Phạm Hộ Pháp có phê như sau:
“Lễ sĩ, Giáo nhi, Nhà thuyền với nhơn viên Nhà thuyền là thuộc quyền của Tiếp Lễ Nhạc Quân quản suất, còn đào huyệt thuộc về phần nhơn viên dưới quyền Nhơn Quan Đạo tỳ.”
Nhiệm vụ của Tiếp Lễ Nhạc Quân được Đức Phạm Hộ Pháp qui định là:
- Cai quản các Ban, Bộ: Bộ Nhạc, Ban Lễ sĩ, Ban Giáo nhi và Đồng nhi.
- Chưởng quản Khách Đình.
- Cai quản Ban Nhà Thuyền, Ban Tổng Trạo và toàn nhơn viên Ban Đạo Tỳ.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ về Tang Tế nên được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện, làm sổ thâu xuất phân minh.

►Xem tiếp CHƯƠNG 02: >>>>>