ÂM NHẠC ĐẠI ĐẠO

Chương II:

NGHI THỨC NHẠC LỄ TRONG ĐẠI-ĐẠO

 

I- Thánh giáo Thầy dạy về Lễ Nhạc

II- Lễ Nhạc Đại-Đạo

  1. Nhạc hành Lễ
  2. Nhạc Đại đàn và Tiểu đàn tại Đền Thánh
  3. Nhạc cúng Tứ thời tại Đền Thánh
  4. Nhạc Cúng Đại Đàn tại Báo-Ân Từ
  5. Nhạc Cúng Tứ thời tại Báo-Ân Từ

III- Những phẩm tước về Nhạc tại Tòa-Thánh

  1. Bộ Nhạc
  2. Nguyên văn Thánh Lịnh
  3. Đạo phục của các Chức sắc Bộ Nhạc
    Thánh lịnh định khoa mục Nhạc sĩ
  4. Cảm tưởng Chánh-Phối sư ngày Khánh thành Bộ Nhạc
  5. Đức Thượng-Sanh ban Huấn từ ngày Khánh Thành thành Bộ nhạc
  6. Bá Nha - Tử Kỳ
  7. Đức Hộ-Pháp giải về: Nhạc là Hòa

IV- Những điều trọng yếu:

  1. Lễ Nhạc là gì?
  2. Thanh âm và tiết điệu của Nhạc
    1. Nhạc
    2. Nhạc là Hòa
    3. Lễ Nhạc là phần trọng yếu của Khổng-giáo
    4. Lời thỉnh giáo
  3. Chỉnh đốn các thức lệ Cúng kiến
  4. Vì sao Đạo Cao-Đài dùng cả Chuông trống?
    1. Cúng Đàn Đức Chí-Tôn đờn 7 Bài
    2. Cúng phải nghiêm trang
  5. Nguồn gốc đạo học của Lễ Nhạc

I- Thánh giáo Thầy dạy về Nhạc Lễ.

Ngày 18-5-Bính Dần.
(dl 27-6-1926)

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

Nhơn, con phải khởi sự kể từ ngày nay cho tới bữa Ngọc Đàn Vĩnh Nguyên Tự, tập Nhạc đủ lại hết. Như nhập Lễ thì đừng đánh trống Bát Nhã, mà đánh Ngọc Hoàng Sấm, nghĩa là mỗi hồi 12 tiếng, đổ xuống đủ 12 hồi, 3 lần như vậy.

Bạch Ngọc Chung cũng dộng ấy.

Khi nhập Lễ xướng “Khởi Nhạc” thì phải đánh trống và đờn Bảy bài cho đủ.

Chừng hiến Lễ, phải đờn Nam Xuân ba bài, vì Lễ Sanh phải hiến lễ bảy lái, đi chữ Tâm 心. Tới khi thài, thì đờn “Đảo Ngũ Cung”, rồi con lại bắt đầu đờn lại, cho chư Môn đệ tụng kinh.

Lịch, Tân-Luật con lập có Thầy giáng đủ Lễ hết. Vậy con truyền cho chư Môn đệ đặng chúng nó y theo mà hành lễ.

Nghĩa, con phải học xướng cho thuộc làu.

Biểu, Đức cũng vậy. Ba con phải nhớ lời Thầy dặn cho kỹ nghe.

Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Đức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:

Nghĩa, Đức đứng xướng ngoài, là tại bàn thờ Hộ Pháp; rồi Hậu, Tràng đứng cập kế đó; kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.

Còn ba bàn thờ trong thì biểu Lịch lập như vầy:

- Giữa Thượng Đàn,

- Hữu Ngọc Đàn,

- Tả Thái Đàn.

Còn Thánh vị của chư Môn đệ đã dĩ vãng thì tùy theo phái nó mà sắp kế theo bàn thờ Thầy.

Kỳ, Kim hầu xướng nội, là bàn thờ trong, biểu chúng nó đứng như vầy:

Kỳ bên mặt, Kim bên trái.

Còn Bản, Giỏi, một cặp Lễ Sanh đầu, đi giữa với một cặp nữa là Tỷ với Tiếp.

Tả thì Nhơn với Tương, hữu thì Giảng với Kinh.

Lập ngoài cho đủ ba bàn vọng, đều để chư Lễ Sanh hầu.

Chừng nào nội xướng, thì để cho Lễ Sanh điện lễ, cúng vật thì để sẵn ngoài ba bàn; chừng Lễ Sanh xướng, thì đem vô cho mấy vị chức sắc hiến lễ.

Trung, con phải cậy hai vị Lão thành Minh Đường hầu trong đặng tiếp lễ Thượng Đàn, Ngọc Đàn thì Kinh và Chương, còn Thái Đàn ngày ấy Thầy lựa.

Cười...

Minh, Thầy sẽ dạy nó đến.

Cười...

Ba bàn ngoài, thì mỗi bàn phải có hai viên chức sắc hiến lễ.

Tương và Tươi tại giữa Thượng Đàn.

Muồi và Vân bên Ngọc Đàn, còn Thái Đàn ngày ấy Thầy định.

Cười...

Bản, đứng dậy. Thầy vẽ đi chữ Tâm là sao, rồi Thầy mới dạy tiếp đặng.

(Phết trước mấy dấu ngón chơn mặt, giơ lên, phết qua một cái đặng làm cái chấm... Đứng hai chơn cho ngang nhau... Con phết đi, đứng thụt lại.)

Cư, con đi cho nó coi con.(1)

Các con coi Thầy đi đây nè.!

Hiểu lấy nước, con.

Con đi thế nào thành hai chữ Tâm lộn ngược như vậy. Cư đi trúng, đi lại nữa con.

Cư, giỏi con, phải vậy, như con muốn cho ra bộ lịch sự, thì khi chấm gót, con nhún bộ xuống một chút.

Cười...

Giỏi, Bản ... Thầy tiếp.

Đọc lại Nghĩa.

Như ngoại xướng điện “Trà”, “Quì”, Chức sắc đồng quì dưng Trà lên khỏi đầu.

Một cặp Lễ Sanh đầu ở giữa hầu đặng cầm song đăng bước lên. Khi xướng “Quì”, thì cũng phết chơn trái đá chơn mặt, quì xuống cho đều với ba cặp Lễ Sanh kia; chừng trống nhạc đổ, thì lần lần đứng dậy cho đều, day mặt vào Bửu Điện.

... Phải vậy con... Hễ đứng dậy rồi, xây mặt vào Chánh Điện, để song đăng và cúng vật xuống ngay ngực; chừng trống đổ lần thứ nhì, cung lên; nhạc lại khởi, thì xem nhịp mà đi bảy lái; chừng ấy Thầy dặn Nhơn nó nhịp lại cho các con đi.

Cười...Con Trung, con phải giữ y như Tân Luật mà hành Lễ.”

(1) Đây là điểm mà Ngài Bảo-Văn nói Đức Chí-Tôn nhập vô xác Đức Thượng-Phẩm dạy Ngài Cư đi Lễ chữ Tâm.

II- LỄ NHẠC ĐẠI- ĐẠO 禮 樂大道

* Nhạc hành lễ

* Nhạc Đại đàn và Tiểu đàn tại Đền Thánh

* Nhạc cúng Tứ thời tại Đền Thánh

* Nhạc cúng Đại đàn tại Báo Ân Từ

* Nhạc cúng Tứ thời tại Báo Ân Từ

A- Nhạc hành lễ 樂 行 禮

 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Lục Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH  TÂY NINH

 

Kính gởi : Chư vị Chánh Phó trưởng phiên Nhạc 1,2,3.
Chức sắc, chức việc và nhân viên thuộc ban Nhạc Tòa-Thánh.

Chánh yếu
Về việc cúng Đại Đàn, Tiểu Đàn và Tứ thời hai nơi Đền-Thánh và Báo-Ân-Từ.

Xin nhắc lại để đồ theo khuôn mẫu Lễ-nghi của các bậc Đại Đức tiền nhân ra công dạy dỗ Nhạc, Lễ, Kinh kệ buổi sơ khai, hôm nay chúng ta phải gia tâm chỉnh đốn cho y khuôn mẫu để khỏi phần thất lễ.

Nhạc hành lễ là âm nhạc diễn tấu trong Đại đàn và Tiểu đàn khi cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Sau đây là bài của Nhạc Sư Trần Thiện Niệm, cai quản Ban Nhạc Tòa Thánh, gởi cho các Chánh Phó Trưởng Phiên Nhạc, Chức sắc và nhân viên Bộ Nhạc, để thi hành về phần Âm nhạc trong Đại đàn, Tiểu đàn và Tứ thời khi cúng Đức Chí Tôn tại Đền Thánh và cúng Đức Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ.

B- Nhạc Đại đàn và Tiểu đàn tại Đền Thánh:

1- Toàn thể Chức sắc Chức việc tới Đàn vía phải mặc phẩm phục Chức sắc của mình. Đại đàn thì mặc Đại phục, Tiểu đàn thì mặc Tiểu phục, không có phẩm cấp thì không được ngồi vào băng Bán nguyệt, khi lên lầu Hiệp Thiên Đài đảnh lễ xong là 11 giờ 35 phút.

2- Gần tới giờ hành lễ, ban Nhạc phải ngồi vào băng Bán nguyệt, là nơi hành lễ trước 15 phút mà lo chu đáo các món Nhạc khí của mình. Đại đàn thì ở Nghinh Phong Đài và lầu Bát Quái Đài, Tiểu đàn thì tại lầu Hiệp Thiên Đài.

3- Khi Chức sắc và toàn thể nhập đàn đến Hiệp Thiên Đài thì Nhạc không khua động, chuyện vãn, thử kèn chi cả, do lễ đài báo hiệu.

4- Nhạc chấp sự các môn chánh phải là vị Chức sắc quan trọng hơn, nghiêm chỉnh thi hành, vì trước Đại điện Chí-Tôn, Chức sắc phải trọng vọng khiêm cung đảnh Lễ.

5- Trống Tiếp Giá phải là vị Trưởng ban y căn bản thủ vĩ phân minh. Các môn phụ phải tế nhị khiêm nhường, giọng kèn oai linh không lệch lạc. Tới đờn 7 bài, hay 5 bài, hay 3 bài, cần thúc lẹ.

6- Từng Hương, không đờn quá lơi và không đờn lớp trống Xuân, tới kinh Niệm Hương và Khai Kinh, đừng đờn cho đọc kinh lơi quá, lệch chữ Kinh cùng ảnh hưởng đến toàn thể mỏi mệt và giảm tinh thần Tín ngưỡng. Đờn Nam xuân cho đọc Kinh Ngọc-Hoàng và Tam giáo, đờn giữ mức trung bình, lẹ quá mất giọng Xuân, cũng không đờn lớp trống xuân, vì lớp trống xuân, Đức Chí-Tôn đã tiền định rồi.

7- Trống lập ban: đổ trống nhuyễn nhẹ ngắn, chờ gài thủ các môn phụ mới tiếp vào để không lấp câu xướng cũng không trễ lạy (nhứt là chờ nơi Lễ đài báo hiệu).

8. Trong ba tuần Dâng Tam bửu, không đổi người nhằm thủ vĩ bất động phách. Đàn nội tôn nghiêm gìn tiền hậu luật y nhứt mẫu khiến đàn nội không bị phóng tâm.

9- Thượng Tấu Sớ Văn: câu sớ quan trọng, điểm trống tỏ ý uy linh, kính cẩn hơn; câu trung bình thì điểm trung bình. Phần sớ (đốt sớ) có uy linh, trống chuyển qua thét.

10- Trống lập ban: ba lạy xong gài trống vô đờn lớp trống xuân tụng kinh Ngũ Nguyện, lạy xong dứt trống lập ban.

11- Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài nhập Nội nghi và Hộ Đàn Pháp Quân, Tả Hữu Phan Quân nhập Nội nghi, bái xong dứt trống lập ban, trở thét trung bình. Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài đi về tới chỗ, tiếng kiểng đổ, toàn thể đứng lên xá, rồi bày ban đứng chờ.

12- Toàn thể nghe tiếng chuông bãi đàn, nhạc gài thái bình, tiền bần hậu phú, tiễn bước Chức sắc đi ra, Nhạc dứt, tịch, ấy là đàn tràn viên mãn.

C- Nhạc cúng Từ thời tại Đền Thánh:

1- Khi lên từng lầu Hiệp-Thiên-Đài thì ban nhạc đảnh lễ một lượt cho rập ràng. Còn 10 phút trước khi khởi lễ thì ngồi vào băng bán nguyệt, soạn lên dây đờn nhỏ nhẹ, cần nghiêm túc thủ lễ tỏ sự tôn kính vì là trước đại điện.

2- Đúng giờ hành lễ, chuông nhứt, nhạc rao đờn, Chức sắc, Chức việc và toàn đạo tới cấp Hiệp-Thiên-Đài thì nhạc đờn bài Hạ.

3- Kế tiếp chuông nhì, Chức sắc, Chức việc đồng xá, vào ngồi thì dứt bài Hạ. Nhạc liền ra Ai, chuông thỉnh Thánh vừa xong là khởi đờn Nam ai, Giáo nhi và đồng nhi tụng kinh Niệm Hương. Lạy xong, tiếp tụng bài Khai Kinh. Hai bài giọng Nam ai nầy, đừng đọc kinh lơi quá, khiến tiếng kinh lệch lạc không đúng chữ Kinh và không đúng giọng nếu đờn lơi, cũng không đờn lớp mái Nam ai trong đờn kinh nầy.

4- Tới đờn Xuân, Giáo nhi và đồng nhi tụng bài Ngọc Hoàng Kinh và luôn trong các bài kinh giọng Xuân nầy, không lẹ quá mà mất phù ba của giọng xuân, cũng không xen lớp trống xuân vì lớp trống xuân thể pháp đờn cho Năm câu nguyện, đặng dứt thời cho cúng đàn mà thôi.

5- Tới đờn Dâng Tam bửu, Giáo nhi đồng nhi chờ qua nhịp mới thài, đều đúng câu đờn nào cũng vậy. (Lời dạy của Đức Phạm Hộ Pháp vì chánh pháp môn nhịp điệu).

6- Thời cúng có Dâng Sớ, khi mãn thài thì đờn bài Hạ, tùy mau chậm, dứt để đọc sớ. Khi phần sớ, nhạc rao xuân, lạy 3 lạy xong thì nhịp vô lớp trống xuân đọc Ngũ Nguyện, dứt thì trở đờn bài Hạ. Nếu có Chức sắc Hiệp Thiên-Đài lên Nội nghi lạy thì chờ, khi về tới chỗ thì đứng lên bài ban, Nhạc và Giáo nhi đồng nhi lạy. Nghi lễ kệ chuông bãi đàn.

7- Cúng thời Ngọ, Nhạc còn đờn để Giáo nhi và đồng nhi tụng kinh Tuần Cửu, khi dứt kinh đến niệm Câu chú của Đức Chí Tôn, nhạc không được đờn nhái theo mà được đờn xuân tới cho ăn nhịp mà thôi.

8- Mỗi thời cúng Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, mỗi nơi có Chức sắc Bộ Nhạc để ủng hộ chư nhân viên trong thời cúng được nghiêm túc, tôn kính của Nhạc Thánh đường, đối với lòng tín ngưỡng của toàn đạo trong thời cúng, ấy là gương mẫu Nhạc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vậy.

9- Riêng về Chức sắc, Chức việc cúng thời Tý tại Đền Thánh phải mặc áo Tiểu phục cho nghiêm trang hơn.

Mong chư Chức sắc Chức việc chú ý khoảng nầy cho được chu toàn thiện mỹ.

D- Nhạc cúng Đại đàn tại Báo Ân Từ:

1- Tới 11 giờ 35 phút, ban nhạc lo chuẩn bị trước, nhứt là lo chỉnh soạn các môn nhạc khí và nhân viên của mình.

Còn 15 phút đến 12 giờ thì đến lễ bái mà ngồi vào băng bán nguyệt, so dây đờn nhỏ nhẹ, nhứt là kèn và trống cơm, muốn thử kêu rõ ràng thì phải tại cơ sở của mình, còn đến giờ cúng thử nhỏ cho biết ăn giọng âm thanh với đờn mà thôi.

2- Lên trước Đại Điện không được hút thuốc, nói chuyện ồn ào mất vẻ trang nghiêm, vì là nơi tất cả tịnh tâm đảnh lễ, còn hút thuốc cũng là trược đối với thiêng liêng, hơn nữa khi đi cúng cũng đã súc miệng sạch rồi.

3- Các môn chánh của nhạc phải là người có phẩm lớn và đạo hạnh mà làm chuẩn hướng.

Nhạc Tấu Quân Thiên, trống gài đầu trung bình, bạc không phép lướt trống, vì thúc lẹ thì lớp và âm thanh không phân minh, làm giảm uy hùng của Tiếp Giá. Còn đờn 3 hay 5 bài thì cần đờn lẹ lên, nhớ tôn Thánh ý Đức Phạm Hộ Pháp, không hối thúc Tiếp Giá mà hối thúc đờn.

4- Tới từng Điện Hương: đờn xuân điện không đờn lơi, cũng không đờn lớp trống xuân. Khi lễ quì, toàn thể nghe chuông thỉnh Thánh, nhạc rao đặng vô đờn Nam ai. Giáo nhi đồng nhi đọc kinh Niệm Hương, đừng đờn đọc kinh lơi vì trong giọng kinh quá trầm, chữ kinh lệch lạc, bổn đạo mỏi, giảm tín ngưỡng. Tới bài Khai Kinh cũng giọng Nam ai, hai bài nầy cần thúc nhịp lại.

5- Trống lập ban: trống nhỏ ngắn gọn, các môn tum bạc kèn và phụ chờ gài thủ vô sau nghe đúng pháp, còn đổ ồn lên một lượt làm lấp mất tiếng câu xướng của lễ sĩ, đổ kéo dài thời gian làm mất một lạy của tập thể.

6- Tới đờn Xuân, Giáo nhi đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh, giữ mức trung bình, lẹ quá mất giọng Xuân, cũng không đờn lớp trống xuân (vì như đã nêu ở phần trên), dứt, trống lập ban, lạy.

7- Lễ điện Tam bửu: qua những lớp bài Hạ và trống thét, lớp trống thét không đánh mỏ, bạc lẹ quá mất điệu thuần hậu trung dung, tới gài Đảo ngũ cung, giữ mực trung bình. Lễ tới Nội nghi, tới thượng Tam bửu, Lễ sĩ đổi sang thì nhạc thúc mực trung bình mà thôi, lẹ quá giảm giá nhịp điệu Nhạc Thánh đường.

8- Trống lập ban, lạy, một mình trống đổ nhỏ gài thủ thì các môn phụ lập vô thủ nhịp sau, còn đổ rầm lên lấp xướng, trễ lạy lụp chụp có khi lễ phải chờ vì Lễ hưng Nhạc tác.

9- Đến Thượng Tấu Sớ văn, từ xây tá đến thét ngắn. Lưu ý tới câu sớ quan trọng thì điểm trống, tôn kính uy linh hơn (đổ ro roi điểm ba), câu trung bình thì điểm trung bình (không ro mà điểm ba). Tới phần sớ, đổ trống phần sớ có vẻ tôn nghiêm dâng uy hùng, tiếp thét luôn. Lạy 3 lạy.

10- Đến Ngũ Nguyện, gài trống vô đờn, chừng mức hồi khởi đầu không lẹ không chậm (như đờn Xuân và Tiếp Giá mới vô nhịp ban đầu) tới đây mới đờn lớp trống xuân với năm câu Nguyện, cuối cùng tận tâm cầu đảo của toàn thể đặng mãn đàn. Khi 3 lạy xong, nghe chuông, toàn thể đứng lên xá và đứng lưỡng ban.

11- Nhạc còn trổi đều, cho Lễ sĩ, Giáo nhi, đồng nhi, Trật tự, Kiểm đàn lạy, còn Nhạc khi mãn Năm câu nguyện thì lo thi nhau mà lễ bái, đến đây đồng chờ tiếng kiểng và ba tiếng chuông.

12- Lễ sĩ xướng: Lễ thành, nhạc đổ trống gài lớp thái bình, tiền bần hậu phú rồi dứt, tịch, mãn lễ.

E- Nhạc cúng Tứ thời tại Báo Ân Từ:

1- Còn 20 phút tới giờ cúng, Nhạc phải ứng trực sẵn, đến chừng còn 10 phút, Nhạc vô bái lễ, xong vào băng bán nguyệt ngồi lên dây đờn nhỏ gọn và không nói chuyện ồn ào pha lẫn, thủ lễ nghiêm túc.

Tới giờ, Chuông nhứt, rao đờn vô bài Hạ. Chuông nhì, vô quì, dứt đờn bài Hạ, toàn thể nghe chuông thỉnh Thánh, nhạc rao đờn vô Nam ai, Giáo nhi đồng nhi đọc kinh Niệm Hương (đừng vô đờn và đọc kinh quá lơi). Dứt bài Niệm Hương, lạy 3 lạy. Tiếp đọc bài Khai Kinh. Hai bài Nam ai nầy đọc quá lơi sẽ có nhiều chữ kinh lệch lạc.

2- Dứt bài Khai Kinh, tiếp đờn Nam xuân cũng không quá lẹ, Giáo nhi đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh, nếu lẹ sẽ mất giọng phù ba của hơi xuân, nhạc cũng không đờn lớp trống xuân (như đã nêu ở phần trên), dứt bài xuân, lạy 3 lạy.

3- Nhạc rao Xuân nữ, vô đờn Xuân nữ, đờn mức trung bình, nhứt là thuần túy thung dung pháp Nhạc Thánh đường (chớ không phải cải lương sân khấu), Giáo nhi đồng nhi cũng không nên tụng bài kinh Tán Tụng Công Đức Phật Mẫu kéo dài, ngược lại vì kinh đọc cúng không phải nói lối của sân khấu mà tưởng sân khấu là phi pháp. Phi pháp là phi lễ.

4- Mãn bài kinh đờn giọng Xuân nữ, nhạc rao giọng Đảo, lạy 3 lạy xong, nhạc vô đờn bài Đảo, Giáo nhi đồng nhi chờ qua một nhịp mới khởi thài. Ấy là ý thức của Đạo nghiệp.

5- Ba lạy xong chờ gõ vô nhịp trở đờn lớp trống xuân một lớp, Giáo nhi đồng nhi tụng Ngũ Nguyện, dứt bài Ngũ Nguyện liền đờn bài Hạ, lạy 3 lạy xong, toàn thể đàn nội đứng lên. Nhạc dứt đờn. Toàn thể đứng lưỡng ban. Giáo nhi đồng nhi và Nhạc đi lạy, nghi lễ đánh chuông.

Lạy xong trở về vị trí.

6- Nghi lễ kệ chuông bãi đàn, bái mãn đàn.

III- Những phẩm tước về NHẠC tại Tòa-Thánh:

(Nhạc: Âm nhạc, âm thanh có tiết tấu hòa nhau nghe êm tai, để nói lên một ý nghĩa. Sĩ: Học trò. Sư: thầy).

Nhạc Sĩ  樂 士 là người chuyên về Âm nhạc.

Nhạc Sư 樂 師 là bực thầy về Âm nhạc.

Nhạc Sĩ và Nhạc Sư là hai phẩm Chức sắc trong Bộ Nhạc. Phẩm thấp nhứt là Nhạc Sĩ, phẩm cao nhứt là Nhạc Sư. Nhạc Sĩ đối phẩm Chánh Trị Sự và Nhạc Sư đối phẩm Giáo Sư.

Muốn được vào phẩm Nhạc Sĩ, người học nhạc phải qua một kỳ thi do Hội Thánh tổ chức và phải đậu kỳ thi nầy, có cấp bằng của Hội Thánh. Khi đủ công nghiệp, Nhạc Sĩ phải thi lên Bếp Nhạc.

Thể thức thi Nhạc Sĩ: Biết cầm một cây đờn và trọn hiểu nhạc khi có Tiểu đàn và Đại đàn, Nhạc trống Tiếp Giá.

Thể thức thi Bếp Nhạc là: Biết trọn nghi lễ và nhạc nghệ về tài tử.

A- BỘ NHẠC 部樂

A: Department of Music.

P: Département de Musique.

Bộ là một ngành. Nhạc: Âm nhạc. Bộ Nhạc là cơ quan chuyên môn đào tạo các Nhạc sĩ cổ nhạc của Đạo và tổ chức các Ban Nhạc trong việc cúng tế và lễ nghi trong Đạo.

Bộ Nhạc và các phẩm Chức sắc của Bộ Nhạc được chánh thức thành lập theo Thánh Lịnh số 25 của Đức Phạm Hộ Pháp ký ngày 29-3-Tân Mão (dl 4-5-1951).

B- Nguyên văn Thánh Lịnh:

 

HỘ PHÁP ĐƯỜNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng (Nhị Thập Lục Niên)
---ooo--- TÒA THÁNH  TÂY NINH
Số: 25

THÁNH LỊNH

HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng

Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;

Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.

Chiếu y Sắc Lịnh số 51 ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần phong thưởng cho Lễ Sĩ và Giáo Nhi đầy đủ 5 năm công nghiệp;

Nghĩ vì Ban Lễ đã định phận thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị.

THÁNH LỊNH

Điều thứ 1: Trong Bộ Nhạc của Tòa Thánh có 9 phẩm ân phong như sau nầy:

1- Nhạc sĩ 2- Bếp Nhạc 3- Cai Nhạc
4- Đội Nhạc 5- Quản Nhạc 6- Lãnh Nhạc
7- Đề Nhạc 8- Đốc Nhạc 9- Nhạc sư

Điều thứ 2: Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm đến thượng phẩm, mỗi cấp đều có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội Ban.

Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào đủ tài ứng thí thì được phép xin thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí vượt bậc.

Điều thứ 3: Nếu thi rớt vì không đủ tài thì ở lại phẩm cũ, chờ đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu ân phong.

Phẩm Nhạc Sư đủ 5 năm công nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết.

Điều thứ 4: Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với 9 phẩm của HIỆP-THIÊN-ĐÀI hay các phẩm khác của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện.

Điều thứ 5: Chư vị: Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Thượng Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng quản Phước Thiện, Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước Thiện, Nhạc Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.

Tòa Thánh, ngày 29 tháng 3 Tân Mão. (4-5-1951).

HỘ PHÁP

(ấn ký)

(*) Ghi chú:

Chỗ đối phẩm của Nhạc Sư trong Điều thứ 4 của Thánh Lịnh nầy, có điều chỉnh lại đúng theo lời dạy của Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ trong Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 25-6-Nhâm Tý (dl 4-8-1972), xin xem bên dưới.
Khi trước, Điều thứ 4 trong Thánh Lịnh ghi là: Nhạc Sư đối phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn (HTĐ), Phối Sư (CTĐ), Hiền Nhơn, Thánh Nhơn (CQPT). Điều nầy trái với Điều thứ 3 bên trên: "Nhạc Sư có đủ 5 năm công nghiệp mới được cầu thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết."
Vì có sự không khớp nhau giữa Điều thứ 3 và Điều thứ 4 trong cùng một Thánh Lịnh như thế, nên trong Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 25-6-Nhâm Tý (dl 4-8-1972) hồi 20 giờ 15 phút, Phò loan: Hiến Pháp và Khai Đạo, Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa bạch cùng Đức Phạm Hộ Pháp: "Theo Thánh Lịnh số 25/TL, Điều thứ 3 định phẩm Nhạc Sư sau 5 năm công nghiệp được cầu phong vào phẩm Phối Sư, nhưng qua Điều thứ 4, Nhạc Sư cho đối phẩm Phối Sư và Hiền Nhơn, Thánh Nhơn bên Phước Thiện. Hai điều đó không phù hợp nhau. Xin Đức Ngài chỉ dạy.
Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ đáp: Cho đối phẩm Giáo Sư, sau 5 năm được đối phẩm Phối Sư”.

Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với 9 phẩm của HIỆP-THIÊN-ĐÀI hay Cửu Trùng và Phước Thiện.

C- Đạo phục của các Chức sắc Bộ Nhạc:

“Ngày 22-8 Đinh-Hợi (6-10-1947) quí ông Nhạc Sư Võ Văn Chở, Đốc Nhạc Đinh Văn Biện và Đề Nhạc Hồ Văn Sai có Văn-bản thỉnh giáo Đức Hộ Pháp về Đạo phục của Chức sắc Bộ Nhạc, được Đức Hộ-Pháp bút phê, nguyên văn như sau:

“Bần-đạo đã dạy trước rằng, mặc sắc phục hồng (màu đỏ), áo đỏ, quần trắng, như các vị Võ sĩ cựu, có viền kim tuyến bạc nơi cổ, nơi tay, ngay ngực có mang ba màu Đạo, chính giữa thêu hình cây Đờn Tỳ-bà. Dưới cây đờn thì để chức tước của vị Chức sắc ấy, áo cụt khỏi trôn mà thôi. Từ Nhạc-Sĩ trở lên tới Quản-Nhạc viền kim tuyến bạc, từ Đề Nhạc đổ lên viền kim tuyến vàng”.

Ngày 27-11 Kỷ-Sửu (15-1-1950) Ngài Bảo-Thế, Thừa quyền Hộ-Pháp, có sao lời phê trên gởi cho Ông Phụ Thống Lễ Viện Phước-Thiện và Nhạc Sư Võ Văn Chở qua Đạo thư số 84.

Như vậy, Chức sắc Bộ Nhạc đều mặc Đại phục y như nhau theo lời dạy trên, chỉ phân biệt ở tước phẩm ghi phía dưới cây Đờn Tỳ-bà trên Tam sắc Đạo thêu nơi ngực và màu kim tuyến viền nơi cổ và tay. Đức Hộ-Pháp không có dạy về Mão và Tiểu phục của Chức sắc Bộ Nhạc, nhưng trên thực tế thì Chức sắc Bộ Nhạc đội Mão và mặc Tiểu phục như sau:

a) Mão đại phục: Gọi là Hỗn-Nguơn-Mạo có hình dáng như mão Ngưỡng-Thiên của Giáo-Hữu phái Ngọc nhưng thấp hơn một chút (cao khoảng 12 cm), giữa Mão, ngay trước trán có Tam sắc Đạo, gác xéo một cây Đờn Tỳ bà.

b) Tiểu phục: Từ Nhạc Sư đổ xuống Nhạc Sĩ đều mặc áo tràng trắng, có thắt ngang lưng một sợi dây nịt trắng như Tiểu phục của Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài từ phẩm Cải Trạng đổ xuống Luật Sự. Đầu đội Bán Nguyệt Mạo như cái calot trắng (giống Mão của Đầu Phòng văn), ngay giữa trán có huy hiệu hình chữ nhựt bằng kim khí, trên có Tam sắc Đạo và cây Đờn Tỳ-bà gác xéo”.

Năm 1952, Đức Phạm Hộ-Pháp ra Thánh Lịnh mở khóa thi tuyển Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số ứng dụng trong Đạo. Nguyên văn Thánh Lịnh ấy chép ra dưới đây:

 

HỘ PHÁP ĐƯỜNG ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Văn phòng (Nhị Thập Thất Niên)
---ooo--- TÒA THÁNH  TÂY NINH
Số: 13

THÁNH LỊNH

HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng

Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền;

Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (Dl 15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.

Nghĩ vì cần mở Khoa thi Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số ứng dụng trong cửa Đạo.

Do theo lời phê của Hộ Pháp ngày 6 tháng 10 Tân Mão phân định thể thức khoa mục Nhạc Sĩ và các cấp trong Bộ Nhạc.

THÁNH LỊNH

Điều thứ 1: Khoa thi Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc sẽ mở tại Tòa Thánh ngày rằm tháng chạp năm Tân Mão tại Báo Ân Từ đúng 3 giờ chiều. Những đơn xin thi phải đệ lên Văn phòng Hiệp-Thiên-Đài ngày 14 tháng chạp Tân-Mão là ngày chót.

Điều thứ 2: Thể thức thi Nhạc Sĩ là: Biết cầm một cây đờn và trọn hiểu Nhạc khi có Tiểu đàn và Đại đàn, Nhạc trống tiếp giá. Thể thức thi Bếp Nhạc là: Biết trọn nghi lễ và nhạc nghệ về tài tử.

Điều thứ 3: Ban Giám khảo trong cuộc thi nầy là:

  • Bảo-Thế Tổng thơ-ký Chánh trị đạo: Chủ tọa

  • Nhạc sư Võ văn Chở: Giám-khảo

  • Giáo-Hữu Thái-Hưỡn Thanh: Giám khảo.

  • Chí-Thiện Lê-văn-Phuông: Giám khảo.

Điều thứ 4: Vị Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo và Chức sắc có danh sách trong Ban Giám khảo, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.

Lập tại Tòa Thánh, ngày 9 tháng 12 Tân Mão. (dl. 5-1-1952).

HỘ PHÁP

(ấn ký)

Tiếp Dẫn Đạo Nhơn 接引道人

Có hai trường hợp:

1- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn

 
   

là một phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp-Thiên-Đài, kế dưới Thập nhị Thời Quân (Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước. Dẫn: dẫn dắt. Đạo Nhơn: người đạo).

Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: đối phẩm với Phối Sư của Cửu Trùng Đài. Nhiệm vụ, quyền hành, thăng thưởng và Đạo phục của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn được qui định trong Hiến Pháp Chức sắc Hiệp Thiên-Đài.

Vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đầu tiên của Hiệp Thiên Đài là ông Gabriel Gobron, người nước Pháp, là một nhà văn và nhà báo, có viết hai quyển sách về Đạo Cao Đài bằng Pháp văn để truyền bá Đạo Cao Đài nơi ngoại quốc là:

- Histoire du Caodaïsme (Lịch sử Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1948 tại Paris.

- Histoire et Philosophie du Caodaïsme (Lịch sử và Triết lý của Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1949 tại Paris.

2- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là vị Phật cõi Cực-Lạc

Thế Giới: Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là một vị Phật cầm phướn Tiếp Dẫn, tiếp rước các chơn hồn đắc đạo đến Cực lạc Thế Giới

. Trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, Đức Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn có giáng cơ cho một bài Thánh giáo sau đây: Ngày 2 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932).

THI:

Tiếp độ hiền lương bước thuận đàng,
Dẫn
vào cửa Phật tránh thương tang.
Đạo
thành muôn kiếp nhàn vui hưởng,
Nhơn
sự màng chi cuộc trái oan.

Tiếp Dẫn Đạo Nhơn

Diễn dụ:

Bần tăng tiếp đặng chiếu chỉ lâm đàn cho cả thiện nam tín nữ ít lời diễn dụ: Khuyên sớm lo tu hành, lo bồi âm chất, sửa mình cho vẹn vẻ, tam cang ngũ thường đừng sót.

Phàm muốn gần đặng Tiên Phật thì phải trì tâm học đạo, hiếu nghĩa vi tiên, tình sư nghĩa đệ vuông tròn, hóa nhơn mới thuận.

Cái Hội Long Hoa hầu gần, thi người đạo đức, thưởng phạt công minh, chừng ấy kẻ có căn Tiên thì Tiên rước, người có duyên Phật thì Phật đưa, còn những người vô đạo vô đức, Thần Tiên cũng thương xót nhưng không thể độ.

Nay Hội Tam Nguơn tuần hoàn sửa dựng, vớt bực hiền lương, đưa hàng thiện sĩ, phong cương sửa trị, lập hội thái bình, khuyên thiện nam tín nữ lo tu: trước tròn nhơn đạo, rồi mau tính tu hành, ngõ nhờ phước lớn, vượt qua khổ hải, sẽ gặp

Thiên đàng, chớ tưởng cuộc thế gian là quê cũ, mê đắm gây việc trái oan, sau khó trở về Cực Lạc.

THI

Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên thế lo tu kịp tuổi già.
Danh lợi đường đời như cụm khói,
Công thành cửa Phật tợ liên hoa.
Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
Bần tăng vội vã dắt thoàn qua.

Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.

THĂNG.

D- Cảm tưởng của Ngài Ngọc Chánh Phối Sư trong ngày Khánh thành Bộ nhạc

Ngày 25-10 Mậu-Thân (dl 14-12-1968) Bộ Nhạc khánh thành HỌC ĐƯỜNG BỘ NHẠC TRUNG ƯƠNG để đào tạo nhơn tài cho Bộ Nhạc và cũng để gìn giữ và phụng sự nền Âm nhạc cổ truyền của dân tộc Việt Nam.

Trong dịp nầy, Ngài Ngọc Chánh Phối Sư có đọc lời Cảm Tưởng, trích ra sau đây:

“Bởi truyền thống của mối Đạo là Nho-Tông Chuyển Thế, Đức Chí-Tôn dùng Nhạc để chế ngự lòng phàm, hóa lòng người, khiến cho được chí thiện chí mỹ. Trên sở năng hoát truyền Lễ Nhạc, người Nhạc sĩ nên ghi nhớ lời dạy của Đức Chí Tôn như sau: Ngày nào Lễ Nhạc được hoàn toàn thì Đạo mới mong thành lập, mà Lễ Nhạc tức nhiên Hội Thánh của Đức Khổng Phu Tử đó vậy.

Ấy vậy, Nhạc sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần mới thật là Đạo và trong Nhạc biểu tượng cho sự Lễ, như chúng ta đã thấy một bằng cớ là khi hòa đờn cùng nhau, mặc dù ngón đờn của mỗi người đều khác, sự hay dở, song cái nhịp trường canh là qui củ phải nương theo, nếu không tùng, chẳng khi nào hòa nhạc cùng nhau được, bởi khuôn khổ của Nhạc là hòa, ấy là Lễ vậy. Trong tương lai, nơi nầy sẽ là chỗ đào luyện tinh thần Lễ Nhạc điều hòa của Nho-Tông Chuyển Thế, vì Nhạc có thế lực rất mạnh về đường đạo đức để sửa lòng người cho ngay chính hòa thuận”.

E- Đức Thượng Sanh Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài ban Huấn Từ

Cũng trong dịp nầy, Đức Thượng Sanh Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài ban Huấn Từ, trích ra đây:

“Học Đường của Bộ Nhạc đã hoàn thành, đó là một công quả đáng ghi của Chức sắc Bộ Nhạc. Giờ đây, vị Chưởng quản và Chức sắc Bộ Nhạc phải gắng công đào luyện đàn em cho thành tài, đồng thời trau luyện nghệ thuật mình cho đến chỗ tận thiện tận mỹ, trước để phụng sự nền Đạo, sau để nâng cao phẩm giá của Âm nhạc là môn học rất trọng yếu của Khổng giáo.

Khi mới khai sáng nền Đạo, Đức Chí Tôn rất trọng Nhạc và Lễ, vì cái hay của Lễ là giữ trật tự bên ngoài, cái hay của Nhạc là tạo sự điều hòa để kềm chế tâm tình bên trong cho khỏi vọng niệm.

LỄ và NHẠC cùng hợp nhau và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được bao trùm một bầu không khí huyền diệu thiêng liêng khiến chúng ta cảm tưởng là có Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Đạo.

Trái lại, nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hòa, thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến lễ bái có một tâm trung xao xuyến, tinh thần bất định. Đó là một sự thất lễ đối với các Đấng thiêng liêng, và như vậy Đức Chí Tôn không khi nào giáng đàn, tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối. Trong nhiều đàn cúng lúc ban sơ, Chức sắc thường bị Đức Chí Tôn giáng cơ quở trách vì đàn không nghiêm, Lễ Nhạc còn khuyết điểm.

Trong năm Ất Tỵ (1965), Đức Hộ Pháp cũng có giáng cơ tại Đền-Thánh dạy Chức sắc Bộ Nhạc nên trau luyện Nhạc điệu vì nghệ thuật còn kém. Sự kém cỏi đó, có lẽ một phần do NHẠC SĨ thiếu tập duợt, hoặc có thụ huấn mà chưa nhuần nhã.

Tôi ước mong mỗi Chức sắc Bộ Nhạc nên lưu tâm để tự mình trau luyện cho đúng mức độ nghệ thuật. Thưởng thức một bài đờn hay như nghe một bài thi sắc sảo, một câu đờn tao nhã điêu luyện như một câu thi tuyệt bút, có mãnh lực gợi cảm làm xúc động tâm hồn.

Vì vậy thời xưa, các Đấng Đế Vương dùng NHẠC để cảm hóa lòng người trong đạo trị dân, vì NHẠC có thể khiến cho dân trở nên thuần hậu và có thể di phong dịch tục.

Nhạc là món ăn tinh thần đứng đầu trong bốn thú phong lưu của Thánh Hiền thời xưa: Cầm, Kỳ, Thi, Họa, và các bậc Thánh Hiền đã dùng NHẠC để đạt đến lý tưởng cao siêu, giúp ích cho sự an bang tế thế, xây dựng nước nhà. Vì Nhạc có cái thế lực quan trọng như vậy, nên Đức Khổng Tử soạn ra Kinh Nhạc và cho đứng vào hàng Ngũ Kinh là: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc. Về sau, Ngài làm bộ sách Xuân Thu, nhập với năm bộ sách trước gọi là Lục Kinh.

Sau khi Đức Khổng Tử mất, kế đến nhà Tần có việc đốt sách thì những Kinh ấy bị thiêu hủy hoặc thất lạc ít nhiều, nhứt là Kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có một thiên, sau đem nhập vào bộ Lễ Ký đặt tên là thiên Nhạc Ký, thành thử trong sáu bộ Kinh chỉ còn lại có Ngũ Kinh là: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.

Tánh của Đức Khổng Tử hay ưa thích đàn hát. Lúc Ngài ở nước Tề ham học Nhạc Thiều, trong ba tháng say mê cho đến đỗi ăn không biết mùi vị. Ngài nói: Ta chẳng ngờ học Nhạc vui đến như thế (Bất đồ vi Nhạc chi chí ư tư dã.)

Khi Ngài châu lưu khắp thiên hạ thì bên mình không khi nào rời cây đàn Ngũ huyền cầm. Quan niệm của Ngài là tiếng đàn thanh nhã có thể nâng cao tinh thần và trụ vững tâm chí siêu nhân của người quân tử. Lúc Ngài bị vây giữa khoảng nước Trần và nước Sái, bảy ngày không nấu ăn, chỉ ăn rau luộc suông, các đệ tử như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tử Cống , vv... đều băn khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.

Chúng ta thấy rõ Thánh nhơn trọng dụng Âm nhạc như vậy vì Nhạc nghệ là một bộ môn văn hóa cao đến tột độ và Nhạc Thiều có mãnh lực huyền bí cao siêu, giúp an dân trị nước, cải hóa xã hội.

Du Bá Nha đập nát Dao cầm, thề không đờn nữa vì người bạn tri âm là Chung Tử Kỳ đã mất thì không còn ai biết nghe tiếng đờn của mình. Khổng Minh Gia Cát Lượng mượn tiếng đờn mà lui giặc Tư Mã Ý. Trương Tử Phòng nhờ có giọng tiêu ai oán mà trong một đêm giải tán tám ngàn đệ tử của Sở Bá Vương tại Cửu Lý San để cho Lưu Bang diệt được kẻ thù chung của thiên hạ, lập nên cơ nghiệp nhà Hớn hơn 400 năm.

Công dụng của Nhạc Thiều thời xưa thì cao thượng như vậy. Ngày nay, người ta dùng Âm nhạc làm công cụ cho chủ nghĩa con buôn trên sân khấu, khiến nên Nhạc sĩ vì kế sanh nhai phải bán rẻ tài nghệ, làm cái giá trị của Quốc Nhạc phải bị hạ thấp đến cực điểm.

Trong cửa Đại Đạo, chúng ta phải nâng đỡ ngành Âm nhạc, phải bảo tồn nhạc điệu cổ truyền để lưu lại cho đất nước tinh hoa của một nghệ thuật thuần túy, mặc dù cái tinh hoa ấy nay chỉ còn phưởng phất chút dư hương do sự phế cựu hoán tân của giới nhạc sĩ trong nước. Đi ngược với trào lưu thoái bộ đó, chúng ta không nên coi thường môn Âm nhạc và phải cố tâm gìn giữ cái chơn giá trị của nó. Dù Nhạc Lễ hay Nhạc điệu tài tử cổ truyền, mỗi môn đều có cái hay riêng đặc biệt. Nếu học Nhạc dù là môn nào, phải cố gắng học đến chỗ cùng cực uyên thâm, năng luyện tập trau giồi để ngày càng thêm tiến triển mới đáng gọi là biết yêu nghệ thuật.

Từ đây, Bộ Nhạc Trung Ương đã có một ngôi Học Đường làm nơi đào tạo nhơn tài, Chức sắc đàn anh trong Bộ Nhạc phải ra công dìu dắt Nhạc Sĩ thế nào cho khỏi mang tiếng hữu danh vô thực.

Với sự mong ước nói trên, Tôi xin cầu chúc vị Chưởng quản và Chức sắc Bộ Nhạc thành công mỹ mãn để phục vụ cho nghệ thuật và cho nền Đại Đạo”

Nay kính.

THƯỢNG SANH Cao Hoài Sang

F- BÁ NHA - TỬ KỲ

Trong làng nhạc thì ai cũng biết qua đôi tâm hồn cảm kích nhau vì họ hiểu được nhau qua tiếng đờn. Đôi tri âm đó là Bá Nha và Chung tử Kỳ. Nhưng khi Chung Tử Kỳ mệnh bạc thì Bá Nha đờn trước mộ của Chung Tử Kỳ lần cuối, xong rồi đập vỡ đờn và nguyền rằng không bao giờ đờn nữa vì không còn một ai nghe được tiếng đờn. của mình.

 
(Hình ảnh trên được chạm khắc
trước Đền Thánh)
 

Trong văn chương Việt-Nam câu chuyện Bá Nha, Tử Kỳ đã trở thành một điển cố cho là tri âm, tri kỷ để nói lên tình bạn thâm thiết, nghĩa là tình thân mật của một người Bạn hiểu được lòng mình, nghe được cả tâm tư như chính mình vậy.

Truyền thuyết cho rằng Bá-Nha là một tay đờn điêu luyện, Chung Tử Kỳ nghe được và cảm được tiếng đàn ấy.

Bá-Nha người đời Tống làm quan đến chức Thượng đại Phu, có tài chơi đàn rất giỏi. Thường phàn nàn trong thiên hạ không ai có thể thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một đêm trăng sáng, nhân đi sứ ở nước Sở về, lại có gió mát, cảnh vật nên thơ, gợi hứng. Bá-Nha liền cho quân ghé thuyền vào bờ Hàm Dương lấy đàn ra khảy. Trên bờ sông, bấy giờ Tử kỳ vừa đốn củi về, nghe tiếng đàn trầm bổng liền đứng dừng lại trộm nghe. Cung đàn đang réo rắt đàn lại đứt dây. Bá Nha cho rằng nơi này vắng vẻ, non núi chập chùng, chắc là có bọn trộm đạo chi chăng, liền cho quân sĩ lên bờ tìm bắt. Tử Kỳ vội lên tiếng đáp:

- Tôi là người đốn củi, chợt đi ngang qua đây nghe Đại nhân gảy khúc đàn hay nên trộm lắng tai nghe chớ không phải là người bất lương!

Bá Nha không tin một gã tiều-phu trẻ tuổi lại biết thưởng thức tiếng đàn tuyệt diệu của mình. Liền hỏi:

- Ta đàn bản gì ban nãy đó?

Tử Kỳ không chút ngần ngại đáp:

- Ngài đàn bản Đức Khổng-Tử thương tiếc Thầy Nhan Hồi.

Bá Nha có ý trọng người am hiểu tiếng đàn của mình, liền mới xuống thuyền và lên dây gảy một bản đàn khác, tâm trí nghĩ mình đang ở chốn non cao. Tử Kỳ khen hay:

- Tiếng đàn cao vút, chí của Ngài vòi vọi ở chốn non cao (Nga nga hồ, chí tại cao sơn)

Bá Nha lại đàn một bản đàn khác, tâm trí lại nghĩ mình đang ở trên dòng nước chảy, Tử Kỳ lại khen hay:

- Chí của Ngài cuồn cuộn như dòng nước chảy (dương dương hồ, chí tại lưu thủy).

Bá Nha nhìn nhận Tử Kỳ là người Bạn tri âm của mình, biết thưởng thức tiếng đàn của mình, nên rất quí mến. Cả hai cùng đàm đạo rất thân mật và rất là tương đắc. Bá Nha mời Tử Kỳ về Kinh đô nước Tống để chung hưởng sang giàu. Tử-Kỳ từ chối vì còn cha mẹ già phải phụng dưỡng, không thể trái đạo làm con. Cả hai cùng hẹn nhau đến sang năm cùng hội ngộ ở nơi này.

Y hẹn, qua năm sau, Bá Nha vào triều xin với Vua về thăm quê hương, đến chỗ cũ đem đàn ra khảy, nhưng không thấy Tử-Kỳ đâu, tiếng đàn lại nghe như oán, như than. Bá Nha sinh nghi liền tìm đến nhà Tử Kỳ hỏi ra mới biết Chung-Tử-Kỳ đã chết. Bá Nha thương tiếc vô cùng, xin đến mộ để viếng thăm người Bạn xấu số một lần cuối

Đến phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha đem đàn ra khảy một bản đàn điếu nghe ra bi thảm, bày đồ tế lễ trước mộ Tử Kỳ. Bá Nha khóc than thảm thiết, đàn xong liền đập vỡ cây đàn, thề trọn đời không đàn nữa vì thiếu bạn tri âm.

Về sau, người ta dùng hai chữ “Tri âm” để nhắc đến Bá-Nha Tử-Kỳ. Tri âm có nghĩa là biết tiếng, biết thưởng thức tiếng đàn của mình.

Trong bài “Gửi phường hậu tử” làm trong phút sắp lâm chung; nhà Cách mạng Phan Bội Châu có câu:

Đàn Bá-Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng nghe qua khóc trộm lại thương thầm,
Chung-Kỳ chết ném đàn không gảy nữa.

G- Đức Hộ-Pháp giải rõ về chỗ hòa-hiệp: Nhạc là Hòa

“Chỉ hòa mới hiệp, hiệp mới có định; mà hễ có định mới có an, bằng chẳng vậy sẽ có phản-động-lực. Hễ không hòa tức giục cho phải nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly tức nhiên động; hễ động tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan-sát về đạo-lý-học, triết-lý-học, tâm-lý-học, cách trí-học, ta thấy quả quyết cơ quan taọ đoan hữu-hình trước mắt ta nếu không tùng khuôn luật điều hòa: Bần Đạo tưởng càn-khôn vũ-trụ này đã tiêu diệt. Dầu cho về đạo-lý-học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái nguơn-linh của Đức-Chí-Tôn không hòa-hợp với nguơn-âm của Phật-Mẫu thì Thái-cực chưa ra tướng; Hễ Thái-cực chưa ra tuớng tức nhiên càn-khôn vũ-trụ naỳ không ra gì hết.

“Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nữa nhứt điểm tinh-thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.

“Ấy vậy chúng ta nương nơi hòa khí đặng hay không? Cả cơ bí-mật của ta dầu cả hình thể tạo-đoan, ta ngó thấy con vật trước mắt ta nếu không hòa thì không có cảm-ứng, không hòa chắc cơ thể tạo-đoan không có nam nữ; cốt yếu sanh nam nữ đặng hiệp-hòa nhau tức nhiên sanh sản loài người. Ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu như không có điển-lực điều-hòa do thiêng-liêng định; tức nhiên Bần-Đạo dám chắc chưa có Thánh-Đạo. Bởi có ai thuận với ai đâu! Các chủng-tộc cũng nương theo khuôn luật hiệp-hòa ấy mới tồn-tại, mới hiệp chủng tộc được.

“Về triết-lý-học chúng ta ngó thấy nhiều phản-ảnh nó không thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền-năng của Đạo tỷ như: lửa và nước, hai món ấy không thế gì gần nhau được, như chúng ta thấy máy tàu, trước khi đã tìm ra năng-lực của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ có cái quyền lực xô đẩy cả sức nặng 30.000 tấn; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện tượng không thể chối đặng.

“Cái điển-lực thiên-nhiên, ta thấy khí âm đụng với khí dương thành ra sấm sét, lửa sét ấy do nơi điển dương đụng với điển âm biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế gì tưởng-tượng được. Đem điển âm để riêng ra cách bức điển dương, hai cái đụng nhau dữ dội lắm. Ta thấy áp-lực của hơi nước thế nào, tức nhiên ngày nay ta thấy không phải là điển-lực. Bây giờ ta có phương-pháp thâu đặng, thâu chúng lại làm ngọn đèn sáng-suốt.

“Cả tinh-thần quốc-gia xã-hội hay là Đạo-giáo, thiên-nhiên cũng vậy. Cái khuôn luật hòa là cái khuôn luật tạo ra càn khôn vũ trụ, có nhiều cơ-quan phản-khắc nhau. Ta có quyền nào làm cho nó hiệp lại thì cơ-quan tạo-đoan nắm trong tay, cũng như chúng ta ngó thấy, không thế tưởng-tượng hai khối sức mạnh thiêng-liêng làm ra ngọn lửa. Ngọn lửa ấy nó soi-sáng trong tâm-tình hiện tượng.

“Khi xưa xã-hội nhơn-quần trên mặt địa-cầu này ta ngó thấy, các bộ-lạc tàn-bạo cùng nhau. Tại sao? Tại nơi cơ thể hữu hình không làm thỏa mãn loài người.

“Hại thay! Cơ-quan hữu hình không làm thoả mãn tâm lý loài người, từ thuở đến giờ với tinh-thần ấy chỉ có nương theo Đạo-giáo và biết thật thi, biết định hướng, biết tự chủ, biết định-phận mình trong thân sống; ngày nay Đạo-giáo trên mặt địa-cầu này hết quyền-năng vi chủ, hoàn cảnh quá khổ não của lòai người, tuồng đời thảm khổ càng tấn tới, thấy cái sống càng khó-khăn, nền văn minh càng tiến lên một bước, thì khối thảm khổ của loài người càng thêm nữa. Hồi đương buổi bây giờ, ngó các chủng-tộc đối nại nhau, tranh sống với nhau, phản khắc nhau.

“Bần-Đạo đã nói hồi nãy, nếu không hòa nhau đặng, tất nhiên phải nghịch, hễ nghịch tất nhiên phải ly; hễ ly tất nhiên phải xao động; hễ xao động tất có loạn lạc.

“Bây giờ hỏi muốn tìm giải-pháp để cứu tình thế, chúng ta để thử tinh thần, trí não suy đoán xem ta thấy rằng: không hòa mới có nghịch, mới có ly, như không đồng tâm, đồng chí, đồng sống cùng nhau thì tức nhiên có xao động. Bần-Đạo nói cả vạn quốc đó vậy;Động tức nhiên phải loạn.

“Bây giờ muốn tìm phương-pháp trị loạn đặng phải phương chiêu an nơi đương động, mình phải giải thoát nó; đương ly cách mình tìm phương hội hiệp; bây giờ nó đương nghịch, mình tìm phương-pháp hòa nó vậy”.

IV-NHỮNG ĐIỀU TRỌNG YẾU

A- Lễ Nhạc là gì?

A: The rites and music.

P: Les rites et la musique

(Tham khảo thêm tài liệu của Hiền tài Hồng ba tiết 1, 2, 3)

Lễ Nhạc 禮樂 là Lễ nghi và Âm nhạc (Lễ là cách bày tỏ sự tôn kính bằng cử chỉ hay bằng cúng tế, cuộc lễ có nghi tiết. Nhạc: âm nhạc)

Lễ và Nhạc trong Đạo Cao Đài được Đức Chí-Tôn xem rất quan trọng, cho nên ngay từ khi mở Đạo, Đức Chí Tôn đã nhiều lần giáng cơ dạy về Lễ và Nhạc.

Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu từng phần một.

1- LỄ 禮

Chữ Lễ, trước tiên dùng với ý nghĩa là các hình thức cúng tế, cầu Thần linh ban phước và cúng tế Tổ Tiên. Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hạp với phong tục và tập quán của dân chúng trong việc quan, hôn, tang, tế. Sau nữa, chữ Lễ có nghĩa thật rộng, gồm cả quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của dân chúng cho thích hợp lẽ tự nhiên của Trời Đất.

Thế nên, Kinh Lễ của Nho-giáo viết rằng: “Lễ giả, Thiên chi tự” Nghĩa là: Lễ là cái trật tự của Trời. Do đó, Nho giáo rất chú trọng về Lễ và dùng Lễ vào 4 mục đích sau đây:

1/- Dùng Lễ để hàm dưỡng tánh tình.

Dùng Lễ để tạo thành một không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tập-quán tốt, khiến người ta làm điều phải một cách tự nhiên mà không cần suy nghĩ.

Vào nơi đền chùa, thấy khung cảnh cúng bái trang nghiêm, tự nhiên sanh lòng tôn kính.Vào chỗ đám tang, thấy cái không khí ảm đạm thê lương, tự nhiên sanh lòng bi ai.

Vậy nhờ Lễ mà con người được khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao thượng.

2/. Dùng Lễ để giữ tình cảm thích hợp đạo Trung dung.

Dùng Lễ để giữ tình cảm của mình không cho thái quá mà cũng không cho bất cập, theo đúng đạo Trung Dung. Nhờ vậy, thể xác và tinh thần của con người được quân bình, hành động lúc nào cũng được sáng suốt và chừng mực.

Đức Khổng Tử bảo Nhan Uyên là người đã hiểu rõ đạo Nhân hơn người là do Lễ: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. Nghĩa là không phải Lễ chớ nhìn, không phải Lễ chớ nghe, không phải Lễ chớ nói, không phải Lễ chớ làm.

3/- Dùng Lễ để định rõ lẽ phải trái, tình thân sơ và trật tự trên dưới phân minh. Nhờ Lễ mà ta phân biệt được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui định sự đối xử khác nhau rõ rệt. Do đó không còn chỗ hiềm nghi, định rõ lẽ phải trái.

Nhờ Lễ mà định được Chính danh, có Chánh danh mới định phận cho thích hợp. Do đó có tôn ti trật tự, phép tắc luân lý từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự thái bình.

4/- Dùng Lễ để tiết chế lòng dục.

Dục vọng của con người thì không cùng và lúc nào nó cũng đòi hỏi phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu không dùng Lễ để chế giảm, tất dục vọng sẽ làm con người hư hỏng. Dùng Lễ để chế giảm mà còn hướng dẫn dục vọng vào chỗ cao thượng nữa.

Lễ và Pháp luật đều có mục đích ngăn chận sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có ưu điểm là nó có thể ngăn cản những việc lầm lỗi chưa xảy ra, còn dùng pháp luật là để trừng trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ hơn trọng hình phạt. Pháp luật tuy phải đặt ra, nhưng dùng sự giáo hóa về Lễ mà ngăn chận trước sự phạm tội mới là ưu việt.

Tóm lại: chữ Lễ trong nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về mặt giáo hóa và ngăn ngừa sự hư hỏng, phạm tội; còn Luật pháp thì chú trọng trừng phạt những hư hỏng và phạm tội đã xảy ra.

Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì, không nên làm điều gì và tại sao như thế. Còn Luật pháp thì cấm không cho làm việc nầy, việc nọ, hễ vi phạm thì bị trừng phạt.

Người làm trái Lễ thì bị chê cười, có tính cách trừng phạt về mặt tinh thần, người làm trái pháp luật thì bị trừng phạt về thể xác.

Thánh giáo:

Lễ là hạnh nết của Thần Tiên,
Phải giữ lễ nghi thật vững bền.
Trước mắt phàm tuy trông chẳng thấy,
Chín từng lồng lộng Đấng bề trên.

2- NHẠC:

Nhạc là sự hòa hợp của các thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm của lòng người đứng trước ngoại vật, hay nói khác đi, chính sự rung cảm trong lòng người mới tạo thành tiếng Nhạc.

Khi người buồn thì tiếng nhạc có âm điệu bi ai; khi người vui-vẻ phấn chấn trong lòng thì tiếng nhạc nhanh, dồn dập, vui tươi; khi ngoại cảnh sanh lòng yêu mến thì tiếng nhạc hòa nhã dịu dàng. Ngược lại, tiếng nhạc có thể cảm hóa lòng người, khiến người nghe rung động theo nó, như khi nghe nhạc réo rắc thanh tao thì người nghe có ý nghĩ cao thượng, khi nghe nhạc giựt gân, dâm ô thì người nghe có ý nghĩ thấp hèn.

Nhạc có thế lực rất quan trọng như thế nên bực Đế Vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để hóa dân, khiến dân trở nên lương thiện.

Sách Nhạc Ký có viết: Nhạc là cái vui của Thánh nhân, mà có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và làm cho phong tục dời đổi được.

Cho nên Tiên Vương mới đặt ra việc dạy Nhạc.

Nhạc cũng phải giữ lấy đạo Trung dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất cái chánh, dẫu buồn cách mấy cũng không làm mất cái hòa. Như thế Nhạc mới điều hòa tánh tình của con người.

3- SỰ PHỐI HỢP NHẠC và LỄ:

Nhạc và Lễ đều có cái chủ đích chung là sửa đổi tâm tánh con người cho ngay chánh, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu. Nhưng mỗi bên có cách thức riêng biệt.

- Lễ cốt ở sự cung kính để giữ cho trật tự phân minh,

- Nhạc cốt ở sự điều hòa khiến cho tâm tánh được tao nhã.

Do đó, Lễ và Nhạc cần phải phối hợp với nhau thì mới thành tựu mục đích tốt đẹp. Nếu có Lễ mà không có Nhạc, tức là có Kính mà không có Hòa, thì nhơn quần ở với nhau có sự phân biệt thái quá, nên chia rẽ xa cách. Nếu có Nhạc mà không có Lễ, tức là có Hòa mà không có Kính, thì thành ra dễ dãi khinh lờn.

Vậy nên, có Lễ phải có Nhạc, có Nhạc phải có Lễ, để cho cái nầy bổ khuyết cái kia thì mới tạo được sự điều hòa tốt đẹp và một trật tự ổn định trong xã hội.

Lễ và Nhạc có ý nghĩa rất sâu xa và có tác dụng mạnh mẽ về đường đạo đức, vì một đàng khiến cho tâm tánh ở bên trong và một đàng khiến cho sự hành động ở bên ngoài, cốt cho trong ngoài hòa thuận. Trong hòa là làm cho tâm tánh được điều hòa, ngoài thuận là làm cho hành vi cử chỉ thuận theo đạo lý, hợp lòng người. Trong và ngoài được như thế thì cái tà tâm và dục vọng không có cơ hội phát triển và dần dần sẽ biến mất, nhường chỗ cho Thánh tâm và những dục vọng thanh cao.

Nhưng Đức Khổng Tử lại nói: “Nhơn nhi bất nhơn như lễ hà? Nhơn như bất nhơn như nhạc hà?” nghĩa là:

Người mà không nhơn đức thì làm sao dùng Lễ được?

Người mà không nhơn đức thì làm sao dùng Nhạc được?

Ý của Đức Khổng Tử nói rằng: Dầu Lễ và Nhạc có hay đến bực nào đi nữa mà người dùng Lễ và Nhạc không có lòng nhơn đức thì cũng không có hiệu quả gì. Có nhơn đức tức là có tình cảm dồi dào, có trực giác mẫn huệ, rồi lấy Lễ Nhạc mà khiến thì công dụng của Lễ Nhạc rất hay; còn nếu không có nhơn đức mà đem dùng Lễ Nhạc thì chỉ là cái hư văn kiểu cách trống rỗng mà thôi, không có tác dụng gì.

Đức Khổng-Tử chủ trương Lễ Nhạc cũng phải trung dung, không nghiêng hẳn về bên Lễ, cũng không nghiêng hẳn về bên Nhạc, vì: Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp tánh tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc.

Lễ Nhạc còn có địa vị trọng yếu trong phép trị nước và được đặt ngang hàng với Hành chánh và Hình pháp.

Lễ để chỉ đạo ý chí, Nhạc để điều hòa thanh âm, Hành chánh để thống nhứt hành động, Hình pháp để ngăn ngừa tội ác. Lễ Nhạc, Hành chánh, Hình pháp có mục đích cuối cùng là một, tức là thống nhứt lòng dân để thực hiện nền thạnh trị”.

Ý của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần lần, từ đời nọ qua đời kia, Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sái hết cả.

Lễ thì biến ra thêm phiền toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ đủ loại mà không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc Lễ hướng dẫn và kềm chế nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố sâu vực thẵm.

May mắn thay cho nhơn loại! Nhứt là hữu hạnh cho dân tộc Việt Nam, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại nước Việt-Nam, Đức Chí-Tôn rất chú trọng về Lễ Nhạc, nên Đức Ngài đến để chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn.

Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Đức Chí Tôn dạy về Lễ Nhạc rất kỹ, đôi khi Đức Chí Tôn phải giáng linh vào Cao Thượng Phẩm để biểu diễn về Lễ cho các Môn đệ nhìn thấy tận mắt rõ ràng mà học tập làm theo.

Lễ và Nhạc do Đức Chí Tôn lập ra, trên nền tảng cái cũ là Cổ lễ và Cổ nhạc của Nho giáo, để làm ra cái mới, khiến cho cũ và mới hoàn toàn dung hợp nhau, làm cho Lễ Nhạc trong Đạo Cao Đài có những nét độc đáo, sử dụng có hiệu quả nhứt, để đưa nhơn loại trở về con đường đạo đức chơn chánh.

Nơi Văn Phòng Lễ Nhạc Đường trong Nội Ô Tòa Thánh có đôi liễn Lễ Nhạc:

LỄ dĩ địa trần minh định nhân gian tôn trật tự

NHẠC do Thiên tác tuyên thông thế giới chủ điều hòa

禮 以 地 陳 明 定 人 間 尊 秩 序

樂 由 天 作 宣 通 世 界 主 調 和

- Lễ lấy sự bày ra trên mặt đất mà chế thành, định rõ phẩm bực con người nơi thế gian, kính trọng sự trật tự,

- Nhạc do Trời làm ra, bày tỏ cho thế giới thông hiểu nhau, chủ yếu là sự điều hòa.

B- Thanh âm và tiết điệu của Nhạc:

1- NHẠC (Fr : MUSIQUE)

là thanh âm có tiết điệu dễ nghe Như hát, đàn, trống, kèn. Một âm LẠC là vui mừng. Đủ thấy Nhạc là một sự thoải-mái, vui hứng trong lòng.

NHẠC là một trong Ngũ-Kinh: THI, THƯ, LỄ NHẠC, DỊCH, XUÂN THU nhưng qua thời đại của Tần Thủy-Hoàng với chánh sách « Phần thư khanh Nho» tức là đốt sách chôn học trò, nên ngọn lửa Tần đã thiêu rụi tất cả chỉ còn lại bộ KINH DỊCH mà thôi, vì nhà Tần cho rằng đây chỉ là sách bói toán, không đáng quan ngại.

Thật ra:

“Bộ kinh NHẠC của KHỔNG-TỬ đã san định, nay chỉ còn có một ít trong thiên Nhạc-Ký, chép ở trong bộ Lễ Ký. NHẠC được hiểu theo ý của cổ-nhân: NHẠC là do ÂM mà sinh ra. Cho nên mới hình ra ở cái THANH, những thanh tương ứng cùng nhau rồi biến ra thành phương, tức là thành cung bực, trong, đục, cao, thấp, gọi là ÂM..

Âm chia ra làm năm bực là: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ (Năm âm ấy theo luật Hoàng-cung gọi là năm chính thanh và hai biến thanh là biến Cung và biến Chủy, có khi gọi là thanh Văn và thanh Vũ, gồm tất cả là bảy thanh, nhưng khi nói ÂM-NHẠC thì thường chỉ 5 âm chính, chứ không nói bảy thanh. Đem các âm so vào những Nhạc-khí để đánh ra tiếng: Kim, Thạch, Ty, Trúc: những đồ múa là Can 干 (khiên), thích 戚 (búa), vũ 羽 (lông chim sẻ), mao 旄 (lông đuôi bò) và những thi phú ca vịnh, gồm tất cả gọi là NHẠC.

Vậy nghĩa chữ NHẠC nói chung cả chuông trống, đàn địch, múa hát và văn thơ.

NHẠC với lòng người cảm-hóa lẫn nhau:

- Một là bởi lòng người cảm xúc ngoại cảnh mà thành ra tiếng NHẠC.

- Hai là tiếng NHẠC cảm lòng người rồi khiến lòng người theo tiếng NHẠC mà biến đi, như:

- Khi ngoại cảnh đau đớn thì lòng người thương xót, trong lòng đã thương xót thì thanh âm nghe tiêu-sái.

- Khi ngoại cảnh tốt lành tất là trong lòng vui-vẻ thì thanh-âm nghe thong-thả, êm-đềm.

- Khi ngoại cảnh thỏa thích, trong lòng hớn-hở thì thanh âm nghe hể-hả.

- Khi ngoại cảnh có điều không lành, trong lòng tức giận thì thanh âm nghe thô-thiển dữ tợn.

- Khi ngoại cảnh trông thấy tôn-nghiêm thì thanh âm nghe chánh-trực, nghiêm-trang.

- Khi ngoại cảnh làm cho sanh ra lòng yêu mến thì thanh âm nghe dịu dàng, hòa nhã .

2- NHẠC LÀ HÒA

Nhân-lọai hòa không theo định-luật của vũ-trụ và vạn-vật.

Vì ở đây không phải trạng-thái Âm Dương. Hòa để sanh-hoá. Nhân-loại hòa để thuận; hòa nhưng vẫn giữ nguyên sắc-thái riêng nên gọi là Tập-thể-hòa.

Trạng-thái tập-thể-hòa giống như sự hòa đàn, hòa nhạc (Hòa âm, lập ngôn). Trong dàn nhạc, mỗi Nhạc-sĩ tự do phát huy tài-nghệ; nhạc-cụ tự-nhiên trổi giọng thanh tao, nhưng đồng theo nhịp nhàng trầm bổng, tạo nên một bản hòa tấu êm tai, phấn chí.

“Thầy nói: Vạn vật trong càn-khôn vũ-trụ có tác dụng tương-đối nhau. Vật nầy ảnh-hưởng đến vật kia một cách mật-thiết cho đến đỗi trước mắt Thầy tất cả là một bản nhạc đại-hòa tòan năng toàn thiện, để riêng rẻ thì không một vật nào hoàn-toàn, nhưng hợp nhất lại thành một khối linh-diệu vô cùng. Lẽ Đạo là như thế.

“Giữa các con và một hạt cát, chưa một vật nào hơn một vật nào. Vạn-vật thảy đều có cái lý riêng của nó. Càng phân-tích lại càng chia rẻ, mà càng hòa-hiệp lại càng qui nhứt. Cười! Lý Đạo nhiệm-mầu như thế, con hãy rõ cái lý chơn thật để suy gẫm.

“Một mùa Xuân không phải chỉ gồm có mây lành, trăng sáng, hoa đẹp, gió trong mà gồm cả những đám hoa gai gốc, những ánh nắng gay-gắt lẫn dịu-dàng, những dòng sông uốn khúc, những tấm lòng hớn-hở cũng như những nỗi-niềm đau thương. Xuân là tất cả những hương sắc của đất trời hòa-hợp lại. Xuân là tất cả những nét đẹp và xấu hòa lẫn nhau trong đó thể hiện sâu xa nhất cái đẹp vĩnh-cữu và ngự trị trên ấy một ánh dương quang. Tóm lại Xuân là khoảng thời-gian thịnh sáng của một chu-kỳ thời gian lẫn không gian. Đó lý Đạo nhiệm-mầu là thế.

“Trong tốt có xấu, trong xấu có tốt, nhiều cái xấu tạo nên cái tốt, nhiều cái tốt tạo nên cái xấu mới lại do những cái gọi là xấu ấy hòa-hiệp nhau thành điểm tốt hoàn-toàn.

“Còn phân tán là còn luân lạc ra đi, khi hòa-hợp là lúc đầm-ấm trở về. Đi, về mãi mãi cho cùng tận càn-khôn để chơn-linh mãi cao-trọng đó là lý chơn-chánh nhất của Đạo-mầu.

“Tôn-giáo ở địa-cầu tuy nhiều như thế và dường phản-khắc nhau nhưng sự thật vẫn hòa-hợp lẫn nhau. Nếu không có sáo, không trống, không kèn, không đàn, không nhịp phách, không dễ chi tạo bản Đại-hòa.

Nhiều chơn linh tấn-hóa không đồng đều thì có nhiều Tôn-giáo mở ra để thích hợp cho trình-độ của họ, Thầy cho mở Đạo cùng khắp các nơi không khác nào Thầy cho nhiều trẻ đi học từng phần, từng cách xử-dụng nhạc cụ, để một ngày nào đó họp lẫn nhau lập thành một phiên Đại-Nhạc-hội.

- Phiên Đại-hội ấy ngày nay chính là Hội Long-Hoa.

- Bản Hòa-tấu ấy là bản Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ.

- Nơi Đại-hòa-tấu ấy là Tòa-Thánh Tây-ninh tại nước Việt-Nam của các con”.

Ngày nay, Đức Chí-Tôn mở Đạo dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc. Lại nữa linh-hồn của Đạo phải kể đến: Nhạc, Lễ và Đồng-nhi, tức là hồn của thi thơ đó vậy. Lời tựa trong kinh Thi đã diễn-tả được tinh-thần ấy:

“Khi hoài-bão còn ở trong tâm của người là Chí, phát ra lời là Thi.

Tình động ở trong mà diễn ra bằng lời, lời thấy chưa đủ thì ta ta-thán. Ta-thán thấy chưa đủ, thì ta ca vịnh. Ca vịnh thấy chưa đủ, thì bất-giác tay ta múa, chơn ta nhảy.

Tình cũng phát-động ở trong mà diễn ra bằng âm thanh. Âm-thanh thành bài gọi là âm-nhạc:

- Nước trị thì âm-nhạc yên và vui, chánh-trị được điều-hòa,

- Nước loạn thì âm-nhạc oán và nộ, chánh-trị bị ngang trái,

- Nước mất thì Âm-nhạc buồn và rầu, dân-tình khốn đốn.

Bởi vậy, chính-đính còn hay mất, làm động đến thiên địa, cảm đến quỉ thần, không gì bằng Kinh Thi”.

Từ khi mới mở Đạo, Đức Hộ-Pháp đã chú-ý đào luyện cho bộ Nhạc về môn Âm-nhạc cổ-truyền, Đức Ngài ban Thánh-lịnh cho Chức-sắc Bộ Nhạc để đi hành Đạo địa-phương và giải-thích về giá-trị cần-thiết của Nhạc:

Nhạc 樂 là cái gì đặt bên trên âm-thanh.

Thanh 聲 là một tiếng kêu nào bất cứ. Khi tiếng kêu đó có văn-vẻ, tiết-điệu thì gọi là Âm 音. Khi âm đó đưa tới Đức gọi là Nhạc.

“Thanh văn chi vị âm, đức âm chi vị nhạc”

聲 聞 之 謂 音 德 音 之 謂 樂

Con vật mới biết thanh mà chưa biết âm (tạm nói theo thông lệ). Người thường chỉ biết âm mà chưa biết nhạc. Chỉ có bậc quân-tử mới biết được Nhạc tức là cái đức của âm-thanh. Cái Đức đó là Hòa.“Nhạc dữ thiên địa đồng hòa” 樂 與 天 地 同 和

Cái chính cốt của Nhạc là ở chỗ Hòa với thiên-điạ. Muốn cho “chí đức” “chí Hòa” thì phải thấu triệt cả cái hòa hàng ngang cũng như hòa hàng dọc. Chính là chữ thập 十 đó vậy.

3- LỄ NHẠC là phần trọng-yếu của Khổng-Giáo

LỄ-NHẠC quan hệ đến luân-lý, phong-tục và chính-trị rất mật-thiết lắm, cho nên các Nho gia tìm cái căn nguyên ở trong đạo tự-nhiên của trời đất.

- LỄ là trật tự của Trời Đất

- NHẠC là cái điều-hòa của Trời Đất.

Hai bên dung-hòa nhau thì mới hòan-toàn được. Nếu có LỄ mà không có NHẠC thì nhân quần ở với nhau thành ra phân-biệt thái-quá nhân tình bất thông; có NHẠC mà không có LỄ thì thành lưu đãng, khinh nhờn.

Vậy nên có LỄ phải có NHẠC, để cái nọ chế cái kia thành điều-hòa. Vì một đường thì khiến tâm-tình ở trong, một đường thì khiến sự hành-vi ở ngoài, cốt cho trong HÒA ngoài THUẬN.

- Cái cùng-cực của NHẠC là HÒA

- Cái cùng-cực của LỄ là THUẬN

Nếu trong lòng mà tính-tình điều-hòa và ở ngoài mà hành-vi thuận hợp nghĩa-lý thì cái tà-tâm vọng niệm còn vào thế nào được lòng người ta nữa.

Vậy nên Thánh-Nhân dạy người cốt lấy LỄ-NHẠC làm trọng (ĐHP)

4- Lời Thỉnh giáo:

 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Tam Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH  TÂY NINH

 

Kính Đại-Huynh Tiếp-Pháp Hiệp-Thiên-Đài.

 

Tệ-sĩ Tiếp Lễ Nhạc-Quân trân trọng giải đáp 3 câu hỏi của Đại-Huynh sau đây.

1. Dàn-Trống-Quan nghĩa là gì?

2. Tại sao từ Phối sư trở xuống đưa linh-cữu có Dàn Bắc?

3. Tại sao có khác nhau?

Xin giải đáp:

1- Dàn-Trống-Quan là môn Võ-Quốc-Thiên tối cổ của Việt Nam.

  1. Đời thì từ Đế vương trở xuống Tam-Công
    Đạo thì từ Đầu-Sư trở lên đến Giáo-Tông và Hộ Pháp được ngự hưởng bài Trống Quan

  2. Định nghĩa của Dàn-trống-Quan dùng trong nghi lễ đưa và rước.v.v...

2- Từ Phối-Sư đổ xuống khi qui vị phải còn hành nghi lễ chèo-hầu và chèo đưa.

Khi chèo đưa, những tổng-trạo và Dàn-đờn trên thuyền Bát-Nhã thay cho Dàn-Nam, đó vậy. Dàn-Bắc là tiền phong hướng đạo.

3- Chỗ khác nhau

là từ Đầu-Sư trở lên khi qui vị kỵ Long-Mã, không chèo hầu, không chèo-đưa phải có dàn Nam thay cho Tổng Trạo v.v...

Từ Phối-sư trở xuống còn chèo-đưa nên không được dùng Dàn-Nam, để tránh sự gây rối thinh âm giữa Dàn-nam và Dàn đờn trên thuyền Bát-Nhã.

Thưa Đại huynh,

Lời Lẽ Tệ sĩ biện minh trên đây là chính mình Đức Hộ-Pháp khi xưa đã dạy Tệ-sĩ với khẩu lịnh.

Bởi, từ ấy đến nay tuân theo khẩu lịnh Đức Ngài mà thi hành chớ không có Văn chỉ truyền ký.

Thành thật kính đệ Ngài ngự lãm.

Nay Kính, Tòa-Thánh, ngày 20-09-63

TIẾP LỄ NHẠC QUÂN

(Ký tên đóng dấu)

C- CHỈNH ĐỐN CÁC THỨC LỆ CÚNG KIẾN

Đạo Sử của Bà Hương-Hiếu có ghi:

CHÚ GIẢI: Ngoài các thức-lệ chỉnh đàn hành-lễ phải cho y một kiểu vở, phải định thêm lễ-nghi về quan, hôn, tang, tế, buộc các nơi phải tùng theo một luật-lệ, pháp giải-oan, phép tắm-thánh cũng vậy

Về NHẠC cũng phải chỉnh-đốn, nhứt là giọng đọc kinh của đồng-nhi phải phân biệt ba giọng: Ai, Xuân và Đảo Ngũ Cung. Hơi đọc kinh có ảnh-hưởng nhiều về sự HÒA-BÌNH êm-tịnh và phát thạnh của THÁNH-THẤT sở tại, cứ tụng một hơi ai-oán thì không khác nào cầu sự khổ não cho THÁNH-THẤT mình (Đạo sử II).

Thầy dạy:

“LỄ NHẠC chẳng hoàn-toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi lượm-lặt sách xả rác hủ Nho, mong bài bác đặng vinh mặt. Thầy bây giờ chỉnh để phúc Thiên-Điều hành luật, ai biết nguồn cội vội sửa mình mới mong thoát khỏi tà ma, mà đi cho cùng bước Đạo.

Uổng thay! Nền Đạo chẳng phải hư, ngày nay không phương tái lập, THẦY giao cho mấy đứa, vì Đạo vì đời khá hiệp trí chung lo, họa may mới với người đặng muôn một.

Con được phép cho mấy anh… coi Thánh giáo của THẦY. Thầy cho các con hay rằng: Đại-Lễ TÒA-THÁNH chẳng hoàn toàn theo cách thức dạy trước đây thì khá biết rằng: có tà-quái chứng mà thôi nghe! (9-1 Canh Ngọ)

Bảo-Văn-Pháp Quân bạch: ...

- Được! nhưng còn sơ sót, món nào liệu chẳng có ích, thì nên chế giảm, trừ ra NHẠC phải giữ cho toàn, đi LỄ cho có vẻ nghiêm-nghị, ấy là hai món đại khái đó.

“NHẠC còn chưa đủ thể cách, đờn để rước chư TIÊN THÁNH không phải vậy là đủ, người Nhạc-công phải ăn mặc tinh-khiết. Sắp đặt vào khởi NHẠC phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải muốn đờn bài chi cũng đặng, ấy là trái Thánh-ý đó. Phải sắp đặt lại nghe à!

Nơi Đàn nào mà khác hơn Thánh-giáo và bày biện nhiều trái cách thì Đạo hữu không phép tham-dự. (TNHH 18-7-1928 )

“Từ thử đến giờ, trên mặt địa cầu này có nước Tàu là Đức KHỔNG PHU TỬ chỉnh-đốn hoàn bị nên LỄ NHẠC có phương thế làm môi giới, làm khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi này” (ĐHP)

“NHẠC LỄ là phép nhà NAM, THẦY muốn giữ gìn sao cho trọn vẹn, các con hiểu ?” ( 21-8 Bính Dần ĐCT)

“LỄ NHẠC là hai điều trọng hệ của ĐỨC CHÍ TÔN, khi Ngài đến vẫn chú ý hai điều ấy (ĐHP).

Nhứt là Đức CAO THƯỢNG PHẨM sanh tiền buổi nọ, lấy con Đờn mà làm bạn thiết, hết thảy ngôn ngữ thường tình đều khinh rẻ (ĐHP)

LỄ NHẠC sản xuất do nơi HUỲNH ĐẾ với CHÂU CÔNG (ĐHP)

Chính cái tác-dụng mãnh-liệt của NHẠC đó mà cổ nhân đã giáo dục con người bằng cách chế ra “NHẠC”. NHẠC là cái vui của Thánh-Nhân mà khiến cho lòng dân trở nên tốt lành; có thể cảm lòng người rất sâu và di phong dịch tục được, cho nên Tiên-Vương mới đặt ra dạy NHẠC.

“Từ hàng CHƯỞNG-PHÁP đổ lên mới đặng “NHẠC CÔNG KHỞI NHẠC”, còn từ Đầu Sư đổ xuống, lễ xướng “CHỨC SẮC TỰU VỊ”, lễ xướng “giai quì” thì nhạc khởi.

NHẠC SĨ là một chức phẩm của Bộ Nhạc trong nền ĐẠO CAO-ĐÀI, NHẠC SĨ là phẩm cấp sau cùng về nhạc, đối phẩm với CHÁNH-TRỊ SỰ bên CỬU TRÙNG-ĐÀI”

NHẠC là hưởng ứng của cả khối sanh quang của càn khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-Đông có câu: "Biều, thổ, cách, mộc, thạch, kim, dữ ty, trước nãi Bát âm”. Các vật vô năng mà nói đặng, có trật-tự niêm luật hòa nhau là đoạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng Kinh mình đọc là âm thinh nghĩa là con người cùng vạn-vật đồng thinh hiến lễ”

“Mấy Em phải biết cái tinh-túy mà người ta có thể đo lường NHẠC cao thấp mà hiểu được.

Mình biết tinh-túy của mình, trọng hay khinh là do nơi mình; nếu mình biết trọng thì họ trọng, nếu mình khinh thì họ khinh” (ĐHP).

“Ta nói cho chúng sanh biết: gặp TAM-KỲ PHỔ ĐỘ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.

Tại đây là một nơi ta khởi chế sự TẾ LỄ THỜ PHƯỢNG lại” (TNHH).

Ý nghĩa hai câu liễn về Bát hồn:

Hai câu liễn này xuất xứ trên Ngọc-Hư Cung, từ phía tả qua phía hữu của Ngôi Trời, nói lên tinh thần của Lễ Nhạc.

BÁT HỒN VẬN CHUYỂN CA HUỲNH LÃO

VẠN VẬT ĐỒNG THINH NIỆM CHÍ TÔN

八 魂 運 轉 歌 黃 老

萬 物 同 聲 念 至 尊

Giải nghĩa:

Câu 1: Bát hồn tức là tám phẩm cấp chơn hồn là: vật-chất-hồn,thảo-mộc-hồn, thú-cầm-hồn, nhơn-hồn, Thần hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn và Phật hồn, luôn luôn có sự vận chuyển để tiến-hoá, đều ca tụng danh của Đức Thượng-Đế (Huỳnh-Lão) là Đấng mở Đạo vàng (bởi Cao Đài là Phật Giáo chấn-hưng).

Câu 2: Cả muôn loài vạn-vật đều đồng niệm danh Thầy tức là Chí Tôn Đại-Từ-Phụ, Chúa tể vạn-vật trong càn khôn thế-giới.

D- Vì sao Đạo Cao-Đài ngày nay dùng cả Trống và Chuông?

 
   

Đạo Cao-Đài ngày nay là Cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn, nên Ngài đến độ cả xác lẫn hồn, độ sanh và độ tử, độ cả Nữ và Nam, nói chung là cả Cơ Âm Dương Tạo-hóa. Thế nên tiếng Trống tượng cho Dương, mà tiếng Chuông tượng cho Âm. Bất cứ nền Tôn-giáo nào có đủ Âm Dương thì Tôn-giáo đó mới tồn tại, mới lâu dài được.

Đạo Khổng dạy: “Tác ư Lễ, hưng ư Thi, Thành ư Nhạc” tức là hình thức làm tác động đến cảm quan của con người không gì bằng LỄ, làm hưng khởi phấn chấn cõi lòng không điều gì hay hơn THI và sự thành công chính là ở NHẠC. Do vậy mà ngày nay Đức Chí-Tôn đến mở Đạo đã:

“Khởi chế sự Tế lễ thờ phượng lại, mọi hình thức lễ nghi điều chỉnh do nơi Đức Chí-Tôn sắp đặt thật trang hoàng”

Vì vậy, Đạo Cao-Đài có ba bộ môn chính yếu là “LỄ, NHẠC, ĐỒNG NHI” để phục vụ, điều hành việc Hôn, Tang, Tế-sự theo nghi thức của Đại-Đạo. Nghi thức Tôn giáo thì có đủ Chuông và Trống:

- Tiếng trống để Giác mê chúng sanh qui bổn thiện.

- Tiếng chuông để cảnh tỉnh nhơn tâm hướng thiện.

Thế nên:

- Thời Nhứt kỳ Phổ-độ: Phật pháp thịnh hành nên nhà Chùa dùng trống. Tiếng trống để phá tan bức màn vô minh cho dân tộc Á-Châu này.

 
   

- Qua thời-kỳ thứ hai: Phật pháp lại phát triển mạnh thêm như Đức Phật Thích Ca Chưởng giáo Đạo Phật, mà Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ, Châu Á. Kế đến Khổng, Mạnh, Lão, Trang…đều phát xuất từ Trung-Hoa cũng là châu Á. Tuy nhiên để làm quân bình cán cân Đạo pháp, cũng là ảnh hưởng của văn-minh tinh thần từ Á-châu lan rộng qua khắp Âu-châu, như giọng ngân của tiếng chuông làm Âm-hưởng nên Đức Chúa Trời (Đức Thượng đế) mới phái Đức Chúa Jésus Christ đến Âu-châu để lập thành Thiên-Chúa-Giáo hầu thức tỉnh dân tộc Âu châu biết nhìn nhận chân lý tuyệt đối của đạo-mầu, chính Ngài là Đức Chúa con đã đến đây thi hành mệnh lệnh. Từ đó nơi Nhà thờ là nơi qui tụ con Chiên của Chúa chỉ dùng tiếng Chuông để cảnh tỉnh nhơn sanh mà thôi. Đó là “Tiếng chuông Giáo Đường”.

- Nay qua thời Tam-Kỳ Phổ-Độ: tức là giáp một vòng của trời đất gọi là “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thủy” thì trở lại điểm ban đầu. Đức Chí-Tôn cảm cái Nghĩa của những Tín-đồ trung kiên của Phật, Tiên,Thánh, Thần, của những con chiên trung thành của Chúa, mới mở cơ tận độ Kỳ ba nên đấy là lúc âm-thanh vang rền của Chuông Trống đồng vang vọng lên như thôi thúc tất cả đều hướng về Thượng-Đế để được cứu rỗi trong thời mạt pháp này. Vì hầu như thời gian làm cho nền Chánh giáo của Đông Tây cũng bị lệch lạc cho đến thất kỳ truyền.

1- Đặc biệt là nghi thức cúng Đàn dâng Lễ Chí-Tôn đờn bảy bài

Trong các thời Đại-đàn dâng lễ Đức Chí Tôn có đờn bảy bài, do Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy về ý-nghĩa của bảy bài đàn ấy, bởi trong các bài đàn này là thể hiện đủ tám món Nhạc khí của dân-tộc Việt-Nam. Chỉ duy hiến lễ cho Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế mới có bảy bài ấy là:

1- Xàng xê là khi trời đất mới sơ khai, chưa phân thanh trược, thuở còn hỗn độn.

2- Ngũ Đối thượng hay là bài Thượng, là khí thanh bay lên làm trời.

3- Ngũ đối hạ hay là bài Hạ, là lúc khí trược lắng xuống thành đất .

4- Long đăng là mặt nhựt chiếu sáng, sức nóng làm cho nước bốc lên thành mây.

5- Long ngâm là lúc mây gặp khí lạnh nên tụ lại thành mưa, từ trên trời rơi xuống.

6- Vạn giá là muôn vật đã định rồi, ấy là lúc nước hợp với đất biến sanh, khiến sản-sanh ra vạn-vật, gọi chung là chúng-sanh.

7- Tiểu khúc là những vật nhỏ-nhít đều có định luật của nó, khi đất biến ra ngũ-hành sanh ra kim-thạch, thảo mộc, thú cầm đến loài người …

Đức Hộ-Pháp thỉnh giáo: Vì sao phải đờn bảy bài?

Đức Chí-Tôn dạy:

“Thầy thích nghe những bản ấy, vì nó có ý-nghĩa của sự Tạo thiên lập địa, là buổi mới có Trời đất. Còn Đảo ngũ cung có ý-nghĩa là qui trở lại, tức là qui cổ: đó là Vạn thù qui nhất bổn”.

Đức Hộ-Pháp bạch tiếp:

Nếu lấy những bài đó hiến lễ thì Thầy tư-vị dân tộc Việt-nam sao?

Đức Chí-Tôn phán dạy rằng:

“Trên thế-gian này chưa có nền Âm-nhạc cổ nào để rước Thầy mà đủ ý-nghĩa như âm-nhạc cổ của Việt-Nam; nên Thầy chọn nó làm tiêu-biểu cho toàn cầu, cho nhân loại noi theo” (18-5-Bính-Dần 1.926)

Xin lập lại một lần nữa lời Đức Hộ-Pháp nói:

“ĐẠO CAO ĐÀI là nền Đạo qui pháp cả cái sống của Bát hồn mà dâng lễ trả cái sống. Khi mới phôi thai càn khôn do nơi hai khối khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho CHÍ-TÔN tức là qui pháp cho khối sanh-khí ấy, tức là CHÍ-TÔN vui và duy nhứt mà thấy sự sống trả lại cho Ngài.

Toàn đạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm mầu đạo lý ấy mà lần lần đạt cho được chơn pháp của CHÍ-TÔN.

NHẠC là hưởng ứng của cả khối sanh-quang của càn-khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-đông có câu “Biều, thổ, cách, mộc, thạch, kim dữ tư, trước nãi bát âm”. Các vật vô năng mà nói đặng, có trật-tự niêm luật hòa nhau là đạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến-lễ." (TĐII/80)

Chú thích

Bát âm là tám loại âm thanh phát ra từ tám nhạc khí cổ ở đông phương. (Bát: Tám, thứ tám. Âm: Tiếng, âm thanh. Tám thứ âm thanh vang ra từ Nhạc)

Bát âm tương ứng với Bát Quái, là:

1. Kim: Tiếng chuông thuộc cung Đoài.

2. Thạch: Tiếng khánh thuộc cung Cấn.

3. Ty: Tiếng dây đàn thuộc cung Ly.

4. Trúc: Tiếng sáo tre thuộc cung Khảm.

5. Bào: Tiếng sinh, kèn thuộc cung Tốn.

6. Thổ: Tiếng trống đất thuộc cung Khôn.

7. Cách: Tiếng trống da thuộc cung Càn.

8. Mộc: Tiếng mõ cây thuộc cung Chấn.

Bát âm là chỉ âm nhạc nói chung.

Bát âm là tám thứ tiếng về nhạc: Biều 瓢 (tiếng sên), Thổ 土 (tiếng trống đất), Cách 革 (tiếng trống da), Mộc 木(iếng mõ gõ), Thạch 石 (tiếng đá), Kim 金 (tiếng chuông đồn), Ty 絲 (tiếng dây đàn), Trúc 竹 (tiếng ống sáo tre) (dữ là cùng với. Tiếng Pháp là Avec)

2- Cúng phải nghiêm trang:

Đức Hộ-Pháp cũng ân cần dặn dò:

“Khi vô Đền-Thánh, Đền nầy gọi là Đền-Thánh, thì thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh Qua ôm hết dâng lên cho Đức Chí-Tôn. Dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái Thiên-thiều; Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái Thiên-tinh. Có như vậy thì địa cầu nầy mới an tịnh, mới thái bình được. Mấy em ôi! Nếu cúng mà giọng đọc thô bĩ, không đồng một nhịp nhàng thì mong gì cái thiều-quang của Càn Khôn Vũ Trụ điềm-tĩnh đặng an hưởng”.

E- Nguồn gốc Đạo học của Lễ Nhạc:

LỄ NHẠC sản-xuất do nơi Huỳnh-Đế với Châu Công. Thế nên Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Chí-Tôn lập ba ban: Lễ, Nhạc, Đồng-nhi cốt lấy chữ hòa làm gốc, cũng là pháp qui Tam-bửu qua hình-thức:

- Lễ thuộc về TINH để thể hiện chữ TÂM.

- Đồng-nhi đọc kinh hòa giọng là KHÍ.

- Nhạc là THẦN.

Nói chung đây là hồn Đạo. Do vậy mà Thể-pháp là tượng hình của Bí-pháp, phải chỉnh-đốn các thức lệ cúng kính, không được chế cải.

1- Đức Chí-Tôn mở Đạo dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc

Ngày nay, Đức Chí-Tôn mở Đạo dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc. Lại nữa linh-hồn của Đạo phải kể đến: Nhạc, Lễ và Đồng-nhi, tức là hồn của thi thơ đó vậy. Lời tựa trong kinh Thi đã diễn-tả được tinh-thần ấy:

“Khi hoài-bão còn ở trong tâm của người là Chí, phát ra lời là Thi.

Tình động ở trong mà diễn ra bằng lời, lời thấy chưa đủ thì ta ta-thán. Ta-thán thấy chưa đủ, thì ta ca vịnh. Ca vịnh thấy chưa đủ, thì bất-giác tay ta múa, chơn ta nhảy.

Tình cũng phát-động ở trong mà diễn ra bằng âm thanh. Âm-thanh thành bài gọi là âm-nhạc:

- Nước trị thì âm-nhạc yên và vui, chánh-trị được điều-hòa.

- Nước loạn thì âm-nhạc oán và nộ, chánh-trị bị ngang trái,

- Nước mất thì âm-nhạc buồn và rầu, dân-tình khốn đốn.

Bởi vậy, chính-đính còn hay mất, làm động đến thiên địa, cảm đến quỉ thần, không gì bằng Kinh Thi”.

Từ khi mới mở Đạo, Đức Hộ-Pháp đã chú-ý đào luyện cho bộ Nhạc về môn Âm-nhạc cổ-truyền, Đức Ngài ban Thánh-lịnh cho Chức-sắc Bộ Nhạc để đi hành Đạo địa-phương và giải-thích về giá-trị cần-thiết của Nhạc

“Qua lấy một bằng cớ rõ-ràng, người Pháp đã nói: “La Musique adoucit les Moeurs”

Nhạc làm cho phong-hóa, luân-lý tốt đẹp dịu-dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, mà các liệt quốc Âu-Châu đều cũng nói.

Nhạc 樂 là cái gì đặt bên trên âm-thanh.

Thanh 聲 là một tiếng kêu nào bất cứ. Khi tiếng kêu đó có văn-vẻ, tiết-điệu thì gọi là Âm 音. Khi âm đó đưa tới Đức gọi là Nhạc.

“Thanh văn chi vị âm, đức âm chi vị nhạc”

聲 聞 之 謂 音 德 音 之 謂 樂

Con vật mới biết thanh mà chưa biết âm (tạm nói theo thông lệ). Người thường chỉ biết âm mà chưa biết nhạc. Chỉ có bậc quân-tử mới biết được Nhạc tức là cái đức của âm-thanh. Cái Đức đó là Hòa.“Nhạc dữ thiên địa đồng hòa” 樂 與 天 地 同 和.

Cái chính cốt của Nhạc là ở chỗ Hòa với thiên-điạ. Muốn cho “chí đức” “chí Hòa” thì phải thấu triệt cả cái hòa hàng ngang cũng như hòa hàng dọc. Chính là chữ thập 十 đó vậy.

2- Hai câu liễn về Lễ Nhạc:

Hai câu liễn về LỄ NHẠC đã minh định tôn chỉ và lập trường của LỄ NHẠC quan trọng đến mức độ nào rồi.!

LỄ xuất phát từ nơi cõi trần này để làm sáng tỏ đức độ của con người phải biết tôn trọng sự trật tự, lớn nhỏ phân minh.

NHẠC do thiên nhiên tác động để truyền bá rộng rải khắp toàn cầu với mục đích duy nhất là sự điều hòa

LỄ dĩ Địa trần minh định nhơn gian tôn trật tự

NHẠC do Thiên tác tuyên thông thế giới chủ Điều Hòa

禮 以 地 塵 明 定 人 間 尊 秩 序

樂 由 天 作 宣 通 世 介 主 調 和

Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài lấy NHO TÔNG chuyển thế mà Đạo Nho lấy LỄ NHẠC làm trọng yếu. Thế nên ba ban LỄ, NHẠC, ĐỒNG NHI là bộ phận chủ yếu của NHẠC Đại-Đạo ngày nay.

3- Những âm-thanh trong vũ-trụ tạo thành Tam-bửu của Nhạc:

Cái vi-diệu của Nhạc là HÒA. Cái gốc hòa phát nguyên từ trời, đất và người, gọi là Thiên, địa, nhân làm cái gốc của vạn-vật:

- Trời sinh ra vạn-vật,

- Đất nuôi vạn-vật,

- Người làm thành vạn-vật.

Người cảm-thông cái nghĩa của đất trời mà lý hội:

* Trời sinh ra vạn-vật bằng hiếu đễ.

* Đất nuôi vạn-vật dưới hình-thức ăn uống.

* Người hoàn-thành bằng LỄ NHẠC.

Tuy nhiên làm sao thấy được nhạc?

Vì nó từ trong lòng vũ-trụ, Từ trong lòng vạn-vật,

Từ trong lòng mọi người.

Nếu cả tiếng côn-trùng không tấu lến làm sao nghe được âm-thanh rộn-rã. Tiếng gió không khua động cành lá làm sao nghe được rì-rào? Lòng người không cảm hoài, vui buồn ai-oán thì làm sao có được khúc nhạc lòng.

Tất cả hòa thành Nhạc của vũ-trụ vạn-vật. Nếu được tinh-ba chắc lọc hòa-đồng với vũ-trụ sẽ thành Thiên thiều.

Sự tinh-ba đó là điều-hòa nên mới sinh ra Lễ tức là trật-tự, ngăn-nắp, khiêm-cung, hòa-ái.

LỄ NHẠC là hai điều trọng-hệ của Đức Chí-Tôn. Khi Ngài đến vẫn chú-ý đến hai điều ấy.

Thầy nhấn mạnh: Nhạc Lễ là pháp nhà Nam. Thầy muốn giữ-gìn sao cho được trọn vẹn, các con hiểu?”

►Xem tiếp CHƯƠNG 03: >>>>>

 

Cập nhật ngày: 06-03-2009