của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Tập II |
Cái chánh-nghĩa của Hiệp-Chúng-Quốc ngày nay thiên-hạ đều ngó thấy trên con đường duy nhứt phải đi, và con đường ấy có thể tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại, phải có sự hiệp một cùng nhau không còn tranh quyền lợi giai cấp, họ sẽ đi đến một cảnh hòa-bình trong bác-ái, trong công-chánh, cũng như Đạo Cao-Đài đã theo giỏi từ ban sơ đến giờ. Biết đâu cái cơ-quan Hiệp-Chúng-Quốc là một tổ-chức Quốc-Tế, để giúp cho chơn-pháp của Đạo Cao-Đài được thực-hiện, tức nhiên để giúp Đạo Cao-Đài làm tròn phận-sự, hiệp nhứt con cái Đức Chí-Tôn vào lòng yêu-ái vô-tận vô-biên của Ngài.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh, đêm 24-9 năm Tân-Mão (1951). Trong dịp Lễ Hiệp Chủng Quốc Tổ Chức Quốc Tế để bảo thủ Hoà-Bĩnh Thế Giới.
Đêm nay Bần-Đạo giảng cái chơn hạnh-phúc của kiếp sanh chúng ta thế nào ? Và chúng ta sẽ gặp nó tại nơi đâu ?
Chúng ta đã quá biết rằng : Ta sống nơi thế này chẳng hề buổi nào gặp được chơn hạnh-phúc, vì nếu chúng ta gặp nó một cách dễ-dàng, thì dám chắc thuyết Tứ-Diệu-Đề của Đức Phật Thích-Ca không có giá-trị chi hết.
Sống nơi cảnh khổ mà tìm hạnh-phúc khó lắm, hạnh-phúc ấy có hay chăng. Bần-Đạo để dấu hỏi ? Có chớ, thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?.
Chúng ta thấy trước mắt dầu cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này họ đã khác tánh-đức, tinh-thần, tâm-lý với nhau, cái gì cũng khác hết, chỉ có cái cười và cái khóc là giống nhau mà thôi. Tại sao cái cười và cái khóc của con người lại giống nhau ? Cười ấy phải chăng là tượng-trưng cho hạnh-phúc. Khóc phải chăng tượng-trưng cho sự đau-khổ của loài người.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?.
Ấy vậy, chơn hạnh-phúc của ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh-phúc của các bạn đồng sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ thì làm sao họ có cái cười hạnh-phúc được ? Chúng ta phải làm thế nào, cho họ hưởng được hạnh-phúc, mặc dầu hạnh-phúc ấy mảy-mún, chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái cười hạnh-phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi-mãi hạnh-phúc, dù hạnh-phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thoảng hay một đám sương sa, mà có hưởng, còn hơn không có chi hết.
Khi chúng ta ngó thấy người bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã làm cho được hạnh-phúc vui-vẽ, cái đó phải chăng là cái hạnh-phúc của ta đây.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?.
Hại thay ! Đâu có người nào có cái tâm yêu-ái vô-tận vô-biên hy-sinh mình đặng tạo hạnh-phúc cho kẻ khác, họ chỉ ngó thấy cái khổ của họ và họ chỉ tìm cách đạt cái hạnh-phúc giả-dối của họ mà thôi, họ dám lấy cái khổ trọn kiếp sanh mua trận cười giả-dối, họ chưa biết lấy khổ-nhọc của đời thiệt-hiện một trận cười hạnh-phúc cho bạn đồng sanh của ho, thản như chúng ta thấu-đáo được triết-lý ấy chúng ta nên để cái trí-não tinh-thần, chúng ta hy-sinh tạo hạnh-phúc cho con-cái Đức Chí-Tôn, tức nhiên tạo hạnh-phúc cho toàn-thể nhơn-loại, thì cái hạnh-phúc mà họ hưởng mỗi người đó, có thể tổng-số lại làm cái hạnh-phúc lớn cho ta chớ có mất đâu.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?.
Hại thay ! Nhơn-loại chỉ vì tranh-sống, thay vì họ gieo rắc-rối trong tâm-hồn bạn đồng-sanh của họ, cái cười hạnh-phúc ấy, trái lại họ chỉ làm cho đổ lụy mà thôi, cái suối cửu-tuyền kia, nếu chúng ta ngó thấy được cái suối cửu-tuyền là nước mắt của nhơn-sanh đã thống-khổ, thì dám chắc rằng kiếp-sanh của chúng ta không có hạnh-phúc gì hết. Chỉ giành cái sống mà tạo khổ cho nhau, chớ chưa hề biết hy-sinh mình đem cả tâm-hồn bác-ái từ-bi vô-tận vô-biên đặng tạo hạnh-phúc cho người, làm nên cho người, họ chỉ giành hạnh-phúc ấy mà hưởng được hay không, không biết, cứ giành để mà hưởng cái hạnh-phúc giả-dối mà thôi. Nếu thế họ chẳng hề buổi nào hưởng được chơn hạnh-phúc.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?
Bần-Đạo đã nói hôm nay con-cái của Đức Chí-Tôn Nam, Nữ cũng vậy, sẽ có hạnh-phúc. Bần-Đạo nói quả-quyết điều ấy, Bần-Đạo để lời hỏi, tỉ như ngày giờ nào con-cái Đức Chí-Tôn hoàn toàn thay thế hình-ảnh cho Ngài, dám hy-sinh mình đem lòng thương-yêu vô-tận vô-biên, tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại. Để dấu hỏi ? cả thảy con cái Đức Chí-Tôn suy-gẫm.
Bần-Đạo thú thật những người chỉ lo tạo hạnh-phúc cho gia-đình, gầy con cháu tông-đường sum-hiệp lại với nhau gọi là hạnh-phúc. Hạnh-phúc ấy bền vững hạnh-phúc chăng? Không bền vững được, chỉ như ngọn gió thoảng qua mà thôi. Biết bao nhiêu gia-đình ở mặt thế-gian này sang cả, mà họ hưởng được cái thiệt hạnh-phúc hay chưa ? Bần-Đạo nói : họ hưởng đặng tạm-thời trong giây-phút mà thôi.
Bây giờ kiếm nó nơi đâu mà có ? Bởi chúng ta có thể đến trước mặt Đức Chí-Tôn mà nói rằng : Thưa Thầy, con đã làm tròn bổn-phận của con đối với Thầy, Thầy muốn con thay thế hình-ảnh cho Thầy đặng tạo hạnh-phúc cho con-cái của Thầy, con đã làm đặng. Rồi day lại nói với các bạn đồng-sanh của chúng ta rằng : Nầy các bạn, tôi xin kiếu từ các bạn và trông đợi các bạn. Lúc nào tâm-hồn cũng rung-chuyển cho mấy người. Giờ phút này tôi còn trông-mong nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia, là nơi chúng ta hưởng được hạnh-phúc thiệt-thọ với nhau, Tôi mong các bạn đến đó đặng tạo dựng một hạnh-phúc lâu dài. Tôi xin đợi mấy người tại chỗ đó.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951) Về “Cái chơn hạnh-phúc của kiếp-sanh chúng ta thế nào?.
Cái kiếp sanh của chúng ta nơi thế-gian này có hai sự-nghiệp :
- Sự nghiệp về linh-hồn của chúng ta, nói rõ ra là cái sự-nghiệp do nơi năng-lực của tâm-hồn ta gầøy tạo.
- Cái sự-nghiệp phần đời của chúng ta, nẽo đời nơi cõi thế này duy có mấy điều trọng-yếu : Công-danh, quyền-lợi. Chúng ta nên xét-đoán tìm thử coi công-danh thể nào bền vững chắc-chắn, công-danh thể nào là tiêu-hủy, mơ-hồ bóng-dáng.
…
Chúng ta xét cổ-kim, chúng ta đã ngó thấy thiên-hạ sống trong vinh-hiển đã nhiều, đời sang giàu ai cho bằng Thạch-Sùng, Vương-Khải, ai mà giàu sang quyền thế đạt một ngôi vị Đế-Vương, giàu có bốn biển, thống nhứt cả nước Trung-Hoa buổi nọ, Kiệt, Trụ, Sở Bá-Vương, Tần, mà chúng ta thử xem lại coi cái công-danh phú-quí sang trọng ấy giờ phút này còn tồn-tại chi chăng? Cái sống trong vinh-hiển của đời này nó phải tùng theo khuôn-luật, hình-chất của con người, còn thì công-danh phú quí ấy vẫn còn, mà mất thì công-danh phú-quí ấy vẫn mất.
Hại thay ! Còn mất ấy nó ở trong đời tạm con người một trăm năm là quá cao rồi.
Chúng ta đã ngó thấy một người ăn-mày với một bình-bát đi xin đặng độ nhựt, đặng sống vì Đạo, cái bình-bát ấy nó đựng cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái bình-bát ấy nó "đựng" cả tinh-thần tâm-hồn toàn-thể nhơn-loại là Đức Phật Thích-Ca.
Một kẻ bị xử án, tội nhơn chết trên cây Thánh Giá không có một manh áo, chỉ trơ mình tấm thân trần-lỗ, kẻ ấy hôm nay làm Chúa của toàn thiên-hạ trên thế-gian này. Hai công danh tôi tưởng không cần gì để lên mặt cân mà lường … chúng ta biết lựa con đường ấy biết cái trọng, cái kính, khôn ngoan hơn hết, bỏ cái khinh giữ cái trọng.
Chúng ta thử nghĩ, chúng ta vì gia-đình là cho Tông-đường ta và ông cha ta, tưởng ra nó còn lại với một cái tình yêu-ái của toàn-thể thiên-hạ, cái nào hơn, cái nào thua, cái nào trọng, cái nào khinh, chúng ta không nói cũng có thể hiểu được.
Ước-mong đoàn em biết cái lập-trường quí-báu của mình, đứng trong lập-trường ấy thế nào đặng vững tinh-thần giữ danh-thể, giữ cái oai-võ của mình cho toàn-vẹn giá trị mình.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh, đêm 12-10 năm Tân-Mão (1951) Về: “Đại Công Nghiệp Của Đức Quyền Giáo Tông”.
Hôm nay là ngày Hội Quốc-Liên, là ngày kỷ-niệm tuyên-dương của Hội Nhơn-quyền. Nhơn-Quyền của Hội Quốc-Liên hôm nay do căn-bản của Hội Nhơn-Quyền do Pháp đào-tạo và là cái danh-dự cao-trọng của Pháp hơn hết. Y như lời Bần-Đạo đã thuyết-minh ngày lễ của Hội Quốc-Liên về cái danh-dự tạo Hội Nhơn-Quyền cho nhơn-loại, cái danh-dự nước Pháp đã đạt đặng và đã đem lại cái danh-thể cho nước Pháp thêm lớn-lao với toàn cả thiên-hạ, là chính nước Pháp đã đề-xướng Nhơn-quyền. Phàm mỗi việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn, mỗi sự chi ở thế-gian này, vận-mạng con người vẫn do theo cái luật tiến triển của tinh-thần của hình-thể, của năng-lực cả toàn nhơn-loại trên mặt địa-cầu này. Ban sơ tại sao và do nơi cớ gì đã xuất-hiện Hội Nhơn-Quyền của nước Pháp buổi nọ ? Có một vị sĩ-quan kia tên Dreyfus bị cường-bức phải mất chức và bị lao-tù, nhưng cái lẽ bất-công ấy một người không thể chi minh-oan đặng. Các bạn đồng kiếm phương giải cứu. Một khối người họ nghĩ cũng chưa đủ, thế nên họ phải đề-xướng lên làm thế nào cho toàn cả quốc-dân nước Pháp phải chung hiệp với họ, đặng quyết-định thâu-hoạch nhơn-quyền, các Hội-viên của Hội Nhơn-Quyền gọi danh là Dreyfusards, thành thử buổi nọ có nhiều trường-hợp chiến đấu kịch-liệt, một bên nhà cầm-quyền, một bên nhứt định phản-kháng cái bất-công của chánh-phủ làm phương nào cứu đặng Dreyfus ra.
Họ chiến-đấu một cách khó-khăn nhưng mà họ đã đắc-thắng. Ngày hôm nay cả toàn thể thiên-hạ tức-nhiên các liệt-cường điều nhìn-nhận rằng : Tổ-chức ấy rất trọng-yếu, chánh-đáng cho toàn-thể nhơn-loại được hưởng vậy, vì cớ cho nên Hội Quốc-Liên mới tuyên-dương ra các nước dân-chủ trên mặt địa-cầu này, cả thảy điều tùng theo cái tổ-chức ấy là thiệt-hiện cho toàn thể quốc-dân hưởng quyền sở-hữu làm người của họ. Cái sở-năng của họ muốn cho nhơn-quyền đạt đặng làm thế nào cho cả toàn thể dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội nhơn-quần điều đặng tự-do tư-tưởng, tự-do sinh-sống, tự do định-phận của mình đối với mọi người bất cứ xã-hội nào, cần-yếu là trọng tự-do ấy họ có cái đặc-phận đối với xã-hội của họ mà thôi.
Ấy vậy, hôm nay tại sao chúng ta là Đạo Cao-Đài mà làm lễ long-trọng dâng sớ cho Đức Chí-Tôn, cầu-nguyện Thiêng-Liêng bảo-hộ, binh-vực cái tổ-chức ấy được thiệt-hiện nơi mặt địa-cầu này. Bởi chúng nó là khuôn-luật cho nhơn-đạo, nó phải có để giúp Đạo Cao-Đài dìu-dắt nhơn-loại đi đến đại-đồng thiên-hạ trong bác-ái công-bình.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 11 tháng 11 năm Tân-Mão (1951) Trong Ngày Lễ Của Hội Quốc Liên Nhơn Quyển.
Bao giờ cái phản động-lực của mình cũng do nơi quyền-năng vô-đối của năng-lực nhơn-quyền Thiêng-Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất-công, vì có đau-khổ, của những kẻ cô-thế bị cường-quyền áp-bức, họ không biết nương tựa nơi đâu đặng họ tự-vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất-công ấy dẫy-đầy nơi mặt thế-gian này. Vì cớ mới sản-xuất phản-động chủ-nghĩa, phải có một phương-pháp chi bảo-vệ nhơn-quyền của họ, bằng chẳng vậy cái lẽ bất-công trên mặt địa-cầu này, chúng ta đã đoán-xét thấy một tấn-tuồng trước mắt làm cho thiên-hạ đau-khổ không thể gì giúp đặng, nên mới sản-xuất ra phản động-lực mạnh-mẽ bảo-vệ Hội Nhơn-Quyền. Phải có một năng-lực bảo-vệ đặng đối-thủ với lẽ bất-công xã-hội ấy đã làm cho thiên-hạ phải thống-khổ, làm cho thiên-hạ phải ly-loạn, phải tương-tàn tương-sát với nhau, sanh ra một cơ tận diệt.
Muốn đem lại hạnh-phúc hòa-bình, hòa-bình thiệt-hiện được, phải bảo-vệ quyền-hành cho cá-nhân, cho xã-hội và cho toàn-thể nhơn-loại, tất phải đem lại công-chánh bác-ái để nơi mặt thế-gian này mới đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn khiến Hội Quốc-Liên dung-nạp cái tổ-chức Hội Nhơn-Quyền của Pháp tuyên-dương cùng toàn mặt địa-cầu đặng thiệt-hiện đại-đồng thiên-hạ đó vậy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 11 tháng 11 năm Tân-Mão (1951) Trong Ngày Lễ Của Hội Quốc Liên Nhơn Quyền.
Đêm nay Bần-Đạo giảng về cái quyền-lực đạo-đức nhơn-nghĩa. Chúng ta đã hạnh-phúc nhờ Đấng Đại-Từ-Phụ đã đến chung hiệp cùng chúng ta và giao-phó cho chúng ta một cái sứ-mạng Thiêng-Liêng, là làm thế nào cho toàn thể con cái của Ngài, tức-nhiên là Vạn-Linh hiệp-đồng làm một cùng nhau. Vì cớ cho nên Ngài đã dạy cho ta hiểu rõ cả cái thể Tạo-đoan cái quyền-lực thiên-nhiên Đại Từ-Phụ đã vạch rõ cho chúng ta thấu hiểu, thấu-đáo đặng huyền-vi-mầu-nhiệm ấy, sao là sanh, sao là tử, sao là còn, sao là mất ? Chúng ta đã hiểu rõ rằng : Cuộc thế này nó ở trong khuôn-luật tiến-hoá, buộc vạn-vật và các đẳng linh-hồn phải tiến-triển mãi thôi, cơ-thể tiến-triển của nó muôn hình ngàn tướng đạo-pháp vô-biên, chúng ta chẳng vì lẽ không theo kịp sự tiến-triển của nhơn-loại hay là các xã-hội nơi mặt địa-cầu này mà tủi phận.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 14 tháng 11 năm Tan-Mão (1951).Về: “Quyển-Lực của Đạo-Đức Nhơn-Nghĩa”.
Chúng ta lấy làm hãnh-diện rằng : Đối với Đạo Cao-Đài cả cơ-thể của Đạo không có chi là lạ, không có làm cho họ ngạc-nhiên chút nào hết. Bởi họ hiểu thấu huyền-vi mầu-nhiệm sống chết còn mất của họ, nếu lấy đạo-đức làm căn-bản bảo-sanh cho họ, thì chúng ta bất quá giống như kẻ bàng-quang kia; vì thế đối với một nhơn-vật mà họ không biết cái sống của họ, họ chưa định giá-trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ, chúng ta nên để lòng khuyên-nhủ dìu-dẫn vậy thôi, còn nên đặng hay hư của họ vốn là chuyện chúng ta có thể gọi rằng do họ tự quyết. Vì đạo-đức nhơn-nghĩa giá-trị thế nào mà thiên-hạ lại không ngó thấy rõ, hiểu cho thấu-đáo, biết tận-tường giá-trị của nó thế nào đặng lợi-dụng lấy nó làm cái phương sống của mình.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 14 tháng 11 năm Táân-Mão (1951).Về: “Quyển-Lực của Đạo-Đức Nhơn-Nghĩa”.
Trên xã-hội nhơn-quần nơi mặt địa-cầu này, xét ra thì họ bỏ cái quí, mà họ ham cái khinh, họ biết rằng : Trong kiếp sống của họ muốn bảo-tồn cho đặng không thế gì họ xa đặng đạo-đức nhơn-nghĩa. Từ thượng-cổ đến giờ, dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn-thể nhơn-quần, hỏi nếu họ muốn sống cho yên, cái sống của họ đặng hạnh-phúc, cái sống của họ bền-bỉ ta thử để dấu hỏi : Họ có xa được đạo-đức nhơn-nghĩa hay chăng ?
Nói vậy cá-nhơn chẳng cần gì luận tinh-thần, hành-vi quân-tử, trượng-phu, ta tỷ lại một kẻ tiểu nhơn, kẻ tiểu-nhơn hèn-tiện kia hỏi muốn bảo-vệ cái sống của nó, nó có buộc mình phải giữ đạo-đức nhơn-nghĩa hay không chớ? Dầu cho nói thiệt hay giả, đạo-đức nhơn-nghĩa thiệt hay giả, nó cũng phải nương đạo-đức nhơn-nghĩa mà sống.
Luận xa hơn nữa, thiên-hạ tưởng cái võ-lực của họ là hơn hết, nếu võ-lực quả-nhiên bảo-thủ cái sống của họ còn tồn-tại, thì Sở-Bá-Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn bền-bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn-nghĩa thì cái nghiệp Hớn không còn tồn-tại tới 800 năm, không có thượng-cờ nhân-nghĩa thì nhà Châu chưa hề cướp đặng cái Đế vị của nhà Trụ. Lấy nhơn-nghĩa mà luận thế-gian này, giờ phút này, dầu cho liệt-cường nào họ cũng phải dùng màu nhơn-nghĩa đứng trước thiên-hạ đặng làm bá-chủ thiên-hạ, họ cũng phải mượn màu nhơn-nghĩa, chúng ta đã ngó thấy hiện-tượng.
Ấy vậy, đạo-đức nhơn-nghĩa là cái huờn thuốc sống của kiếp-sanh nhơn-loại, dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn thể nhơn-quần cũng vậy, nếu họ bỏ đạo-đức nhơn-nghĩa tức nhiên họ tự-diệt lấy họ, họ tự kêu án tử-hình lấy họ. Chúng ta thử để mắt coi cái con đường của nhơn-loại họ tàn-ác khởi dậy quá lẽ tưởng-tượng, hung-bạo ấy nó sẽ đi đến mức nào cho biết ! Nếu có còn đi tới nữa sẽ tự-diệt, nhơn-loại sẽ bị tự-diệt, mà nếu muốn sống còn của nó, Bần-Đạo nói quả-quyết rằng: Nó phải trở lại, sống trở lại với lẽ đạo đức nhơn-nghĩa mới bảo-tồn sanh-mạng đặng.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 14 tháng 11 năm Tan-Mão (1951).Về: “Quyển-Lực của Đạo-Đức Nhơn-Nghĩa”.
Đêm nay là ngày kỷ-niệm của Đức Chúa Jésus-Christ tức nhiên Chúa Cứu-Thế Giáng-Sinh.
Bần-Đạo lấy lời triết-lý của Ngài đã nói lưu trong thánh-ngữ của Ngài để lại cho các Thánh-Tông-Đồ có câu nói cao-sâu bí-ẩn mà thiết-thật làm sao, hay làm sao. Ngài nói rằng :
“Biết hy-sinh cái chết đặng đạt cho đặng cái sống”.
Vì lời thánh-giáo ấy mà những kẻ tìm Đạo thường hay bàn-luận tìm cái nghĩa-lý của nó, Đức Chúa Jésus-Christ đã sanh ra thì bị cường-bức, Đạo của Ngài truyền-giáo thiên-hạ không hiểu thấu và người ta đã bắt-bớ, người ta đã đè-nén, người ta đã âm-mưu hại Ngài, cho nên lời nói ấy cốt-yếu giục các môn-đệ của Ngài quyết chiến-đấu và quyết thắng, điều ấy chưa phải lẽ.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 26 tháng 11 năm Tân-Mão (24/12/1951)Trong Lễ Kỷ Niệm Đức Chúa Jésus Christ.
Bần Đạo đã thuyết-minh tới đây, kẻ thì nói Đức Chúa Jésus Christ lập nền Thánh-Giáo của Ngài, Ngài lập cái đền-thờ thiêng-liêng Đạo-Giáo của Ngài tại thế-gian này, Ngài xưng mình là con chiên hy-sinh đặng làm con tế-vật của Đức Chúa Trời, để cứu rỗi tội-tình thiên-hạ, tức nhiên con chiên chí-thánh, sanh-mạng của Ngài, thi-hài của Ngài chịu hết trên cây Thánh-Giá, cốt-yếu làm con tế-vật ấy để dâng cho Đức Chí-Tôn đó vậy. Sự hy-sinh của Ngài làm con tế-vật ấy là Thánh-Thể, tức-nhiên của toàn cả tín-đồ tin-tưởng nơi Ngài, đã thọ phép chơn-giáo của Ngài coi như Đấng Chí-Thánh. Vì lẽ ấy nên Ngài thuyết câu đó, cốt-yếu Ngài dám hy-sinh tử-đạo đặng bảo-thủ chơn-truyền của Ngài, cũng có lý nhưng chưa phải lẽ, cái bí-mật trong lời nói ấy là vầy :
“Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết làm sao cái sống là thật”.
Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả chăng chúng ta sanh ra có hai cái sống và có hai cái chết. Chúng ta ngó thấy xác-thịt của chúng ta không phải là cái sống, bởi vật-thể nó phải chết tiêu-hủy tức-nhiên nó phải chết mà thiệt cái chết của nó, chẳng phải chết gì cái xác-thịt mà thôi, mà chết vì danh-giá, kiếp sống của mình, cái lời nói là chết.
Còn bây giờ cái sống không phải cái xác-thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt, bất quá con người sanh ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mắt.
Ấy vậy cái sống thật ở chỗ nào ? Cái sống thật của chúng ta là cái sống về tinh-thần hiện-tại của chúng ta cho trường-tồn, tức-nhiên nó về linh-hồn chúng ta vậy. Cái đó mới thiệt sống, cái sống với linh-hồn là cái sống thật, sống với xác-thịt tức-nhiên sống giả.
Bây giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn-loại, cả cái sống đại-đồng sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta phải hiệp làm một cùng vạn-loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái sống của nó. Cái sống ấy là cái sống của Đức Chí-Tôn nắm trong tay của Ngài đó vậy. Cái sống trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước khi ta đến đầu kiếp làm con người ở mặt thế-gian này, cái sống ấy phải sống.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 26 tháng 11 năm Tân-Mão (24/12/1951)Trong Lễ Kỷ Niệm Đức Chúa Jésus Christ.
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus-Christ, phải biết hy-sinh cái chết, mới tìm cái sống. Đạo-giáo nào kiếm mắc-mỏ khó-khăn, chớ Đạo-giáo Cao-Đài Đức Chí-Tôn để bí-pháp ấy trong Thánh-Thể của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh-Thể của ta nơi mặt thế-gian này. Cả toàn Thánh-Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo Hữu phải chết, chết vì đời rồi sống lại, sống vì Đạo. Tức nhiên Đức Chúa Jésus-Christ nói cao sâu rằng :
“Nếu ai đã biết ai, đã biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy-sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường-tồn vĩnh-cửu, tức nhiên Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Cha ta đã dành để”.
Bần-Đạo thuyết điều ấy cốt-yếu nói cả toàn-thể con-cái của Đức Chí-Tôn, dầu cho hàng tín-đồ nam nữ dĩ chí Đại Thiên-Phong cũng vậy, mỗi phần-tử Thánh-Thể của Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can-đảm hy-sinh cái chết, cái thi-hài thúi-tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh hằng sống và chúng ta đặng ngôi-vị Thiêng-Liêng Hằng-Sống nơi cửa Thiêng-Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại-nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi đứa con. Đức Chí-Tôn nói rằng :
“Thầy đành để đaị-nghiệp cho các con, Thầy không có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy mới có quyền đem cho kẻ khác mà thôi”.
Cái sống đó mới sống thật, sống trường-tồn sống vĩnh-cửu. Sống Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Đức Chí-Tôn mới thật sống đó.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh đêm 26 tháng 11 năm Tân-Mão (24/12/1951)Trong Lễ Kỷ Niệm Đức Chúa Jésus Christ.
Đêm nay Bần-Đạo giảng một cái đề cũ mèm mà toàn-thể đều nghe, là buổi giảng về chữ Đạo.
Chúng ta đã ngó thấy các nền Tôn-Giáo xưng mình là Đạo, chúng ta thấy họ lạm-dụng Đạo quá lẽ, nhưng chúng ta không thể gì cải chối được tại lý-do nào?
Bần-Đạo thuyết-minh chữ Đạo, từ khi tạo thiên lập địa có loài người đến giờ, thì vì trí khôn-ngoan linh-hoạt của chúng ta thấy trạng-thái của Càn-Khôn Vũ-Trụ vô-biên vô-tận, vô-đoán và thấy cái bí-ẩn huyền-linh đang điều-động cả cơ-thể tạo-đoan mà chẳng có một ngôn-ngữ miệng lưỡi nào đặt ra tên cái huyền-linh ấy đặng, nên để chữ Đạo, tức nhiên chúng ta đã giải rõ là cưởng danh viết Đạo (Không biết đặt tên gì nên để chữ Đạo) trong cái trạng-thái ấy, chúng ta ngó thấy nó có động, có tịnh, động tức nhiên (Dương-quyền) Dương quyền biến sanh Càn-Khôn Vũ-Trụ, trong sanh-hoạt của nó, chúng ta ngó thấy có khi nó ổn-định đặng nó đào-luyện cái thể-chất của nó tức là (Âm-Quyền) đó vậy.
Bần-Đạo lấy tỷ-thí con vật chúng ta dễ hiểu hơn hết là con tằm, khi nó còn là con sâu tức nhiên Dương, nó vận-động đặng sống, nó ăn, nó lớn rồi chín, nó kéo tơ làm ổ, bây giờ tới Âm, tức nhiên đặng biến ra nhộng bất động, đặng nó định cái thể của nó.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951)
Trong vạn-vật ở mặt địa-cầu này có hai trạng-thái luôn luôn, cái sanh của nó, phải tùng theo khuôn-luật tạo-đoan, nó phải phù-hạp lại với hình-thể, tức-nhiên cái sống phải phù-hạp với cái chết đặng biến hình, cũng như con nhộng bất động, nếu đem tay nắm lấy nó thì nó chết. Vì như vậy là trái với khuôn-luật tạo-đoan, tức nhiên nghịch lại Đạo.
Linh-hoạt vô-biên vô-tận, là không-gian thời-gian biến-chuyển không ngừng, Đạo để pháp-luân thường-chuyển, nó do nơi không-gian, thời-gian biến ra hình trạng chớ không khi nào trong thời-gian ấy dìu-dẫn cho nó biến chuyển. Vì cớ cho nên trong kinh Phật-Mẫu để :
“Thập thiên-can bao hàm vạn tượng, tùng địa-chi hóa trưởng Càn-Khôn”.
Tùng Vũ-Trụ là do nơi đại-thể của nó trong vạn-vật, cái đại-thể của nó thế nào, là cái tiểu-thể cũng vậy, một khuôn-luật ấy mà thôi, nó phải tùng theo khuôn-luật đã định, tức-nhiên pháp-luân ấy người xưa không biết hình-trạng, không hiểu quyền-năng thế nào nên để chữ Đạo.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951)
Ấy vậy, Đạo tinh-thần, vì thể-chất của vạn-vật hữu-hình mặt thế-gian này đặng nó sống, biết định cái chết, định cái sống, hay biết định cái thể của nó, cái thể định vận-mạng, cái thể định tính, hai cái đó tương-hiệp với nhau, phù-hạp với nhau một khuôn-luật là Đạo, bằng trái lại là nghịch Đạo, mà hễ nó thuận thì nó còn, nó nghịch nó phải tiêu-diệt.
Bây giờ luận, họ lấy một triết-lý của cơ-thể tạo-đoan trong pháp-luân thường-chuyển mà định giáo-lý của họ, nhưng có một điều trọng-yếu hơn hết là toàn cả cơ-thể tạo-đoan tức nhiên Đạo, mà mỗi một điều chi cũng đều để Đạo, chữ Đạo họ không biết, chúng ta không thể cải chối, trong hình-thể đó họ lợi-dụng, nhưng sự thật Đạo của họ chỉ có một phần ngàn trong chữ Đạo mà thôi, chớ không phải thật Đạo.
Bây giờ Đức Chí-Tôn để trong nền Tôn-giáo của Ngài hai chữ Đại-Đạo, đó là Ngài để hình-tượng bao trùm toàn-thể vô-biên đó là Đại-Đạo, nếu Ngài không nói thì chúng ta không làm sao biết được, suy-đoán được. Ngài luận chữ Đạo thì nó bao trùm hết, vì cớ cho nên có cơ-quan sanh-hóa, Đức Chí-Tôn đã tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ trong quyền-năng ấy. Chúng ta nhìn biết có một chủ-quyền đặng định khuôn-luật của nó, nếu không có chủ-quyền duy-nhứt thì cả vạn-vật trên Càn-Khôn Vũ-Trụ không thể gì còn.
Trong cái hình-thể tối-thiểu của nó, từ tiểu nguyên-tử và đến các tinh- đẩu trong thế-giới nó vẫn định ở trong đại-thể linh vô-đối của Đấng đã cầm quyền tạo-đoan thì không có ai làm chủ nó được, vì cớ cho nên chúng ta đã ngó thấy quyền-năng ấy định quyền người chủ của nó.
Ấy vậy, Bần-Đạo nói, Giáo-lý của mỗi nền Tôn-giáo đều khác nhau, nhưng nó có hình-ảnh của một nền Tôn-giáo, cho nên họ xưng mình là Đạo, chúng ta không thể cải chối, duy chúng ta nên biết rằng pháp-luân đạo-pháp vô-biên kia, hình-ảnh kia, vô-biên vô-tận, thì chúng ta chỉ nhìn rằng: Một Tôn-giáo nào đã tùng theo khuôn-luật tạo-đoan đúng mực thước về danh lý của nó, biến tướng của nó theo một khuôn-luật tối thiểu, thì chúng ta nhìn. Còn ngoài ra, trái lại chữ Đạo, chúng ta có quyền giục họ tiến hay không, hay cứ để họ tự tiến vậy thôi. Chúng ta không thể gì cải chối được, chúng ta không có quyền công-kích hay sửa-cải được.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951).
Ta biết Đạo, ta hiểu rõ mối Đạo là ta sống, nếu chúng ta trái Đạo ấy thì chúng ta dầu có sống tự-do đi nữa, thì cũng như chúng ta đã lên án lấy cái chết của ta, tức- nhiên chính mình chúng ta đã lên án lấy mình.
Nếu nói kẻ kia vô Đạo, người nọ thất Đạo hay là họ chối Đạo. Họ làm sao chối cái sống của họ được ? Chúng ta chối được hay chăng là chối cái hình-ảnh của họ và cái thể-xác của họ mà thôi.
Trong vạn-vật có quyền cải chối cái sống của họ chăng ? Mà gọi họ chối Đạo ? Có người không biết chữ Đạo là gì xưng rằng nghịch Đạo, cải Đạo là mâu-thuẩn, là dốt-nát, chính mình họ không biết họ, thì luận với ai chớ.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951).
Trong thể-pháp tinh-thần của chúng ta, chúng ta sống trong hai cái: sống với hình-thể, sống với tinh-thần, là ta đã đặng một đặc-ân của Đức Chí-Tôn ban cho. Hại thay trong cái đặc-ân ấy, Đức Chí-Tôn cốt-yếu để cho chúng ta đau-khổ, sống trong cảnh đau-khổ đặng biến hình, biến thể, mà biến sanh hoặc chúng ta thấy kiếp sống mà đi tới, đi từ con đường phàm dĩ chí Phật vị, là ngôi vị của Đức Chí-Tôn dành để cho mỗi đứa con. Chúng ta có thể đi tới phẩm vị Trời nữa mà chớ.
Hễ luận theo cái khuôn-luật tạo-đoan, đặng định tiến-triển của ta, thì ta thuận đạo, đạt đạo, còn trái lại thì theo con đường vật-loại, là Đời. Tinh-thần mà ta bỏ, tức nhiên chính mình chúng ta từ chối địa-vị thiêng-liêng ta có, hay là chúng ta tự lên án cho chúng ta.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951).
Ai đã chối Đạo theo thường tình gọi là bỏ Đạo, là người đó họ chối cái phận-sự làm người, tức-nhiên từ-chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, điều đó không có phi-lý. Chúng ta đặng hạnh phúc, Đấng cầm quyền tạo-đoan hôm nay đến chung sống cùng ta. Cái hạnh-phúc của ta còn gì hơn nữa. Trong cái sống cũng thế, chết cũng thế, sống dầu cho khỗ não bao nhiêu chết mất đi nữa, chúng ta cũng an vui với bạn đồng sanh của chúng ta nơi mặt thế-gian này.
Có một điều đau thảm hơn hết, thay vì ngó thấy cái khổ của nhau họ lại phụ rãy nhau, tận-diệt nhau, họ không biết tôn-trọng mạng sống của bạn đồng-sanh đặng định phận của mình, kẻ đã đoạt đặng cái "Tứ" của Trời đất, hiểu thấu-đáo huyền-vi của Đạo, dòm thấy bạn đồng-sanh, con mắt họ không buổi nào ngớt giọt nước mắt.
Cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn cốt-yếu để an-ủi nâng-đỡ tinh-thần đàn em, cả Chức-Sắc Thiên-Phong thay thế hình-ảnh cho Ngài để nâng đỡ cái sống của chúng nó. Bần-Đạo nói thật, chúng ta không có quyền làm cho đau-khổ kiếp-sống của chúng nó, bởi nó đã sống đau-khổ nhiều rồi.
Trích Thuyết Minh Chữ Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951).
Đêm nay là đêm giao-thừa, cuối năm Tân-Mão bước qua đầu năm Nhâm-Thìn, Bần-Đạo nhớ lại năm Bính-Dần, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo, làm lễ khai-Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần tới năm Đinh-Mão, tức nhiên cũng giờ giao-thừa này, Đức Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo phò-loan, Đức Chí-Tôn đến kêu toàn thể con-cái của Ngài nam nữ, lớn nhỏ, dặn rằng : Hễ Thầy đưa cái cơ lên, các con chun ngang qua đặng Thầy ban ơn cho nghé! Rồi Ngài xách Bần-Đạo và Cao-Thượng-Phẩm đứng dậy ra giữa Thiên-Bàn đưa cơ lên, cả con-cái của Ngài đều chun ngang qua, Ngài đã làm một tấn-tuồng cảm-mến mà chỉ có cây cơ không mà thôi, tấn-tuồng ấy làm Bần-Đạo cảm-xúc quá lẽ. Hễ mỗi người chun ngang qua cái cơ làm như thế vuôùt-ve mươn-trớn vậy. Hạnh-phúc thay ! cho những người ngộ-đạo đã được ân đặc-biệt ấy. Tiếc thay lúc đó con-cái của Ngài không đông nhiều như bây giờ. Bần-Đạo tiếc chớ phải chi cả thảy toàn-thể con-cái của Ngài hôm nay được Ngài ban-ơn như thế ấy, chỉ nghĩa với một phương-pháp cụ-thể hữu-hình của Ngài, tỏ cái tình thương-yêu vô tận.
Tuy vẫn biết và Bần-Đạo dám quả-quyết rằng : Giờ phút này Đại-Từ-Phụ đã chung ở với chúng ta. Ấy vậy toàn thể con-cái của Ngài định tâm cầu-nguyện đặng cho Ngài ban ơn (Toàn thể đều thành-tâm cầu-nguyện).
Hạnh-phúc cho chúng ta đã sanh ra lại ngộ đạo. Đấng đã cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ nơi tay, làm Chúa cả cái sống cái chết của Càn-Khôn Vũ-Trụ đến chung ở chúng ta. Một ông cha thương-yêu vô-tận, cái hạnh-phúc ấy, cái vinh-diệu ấy còn chi hơn nữa. Bởi thế cho nên khi Ngài đến cầm cây linh-bút đặng mở chơn-truyền của Ngài, những kẻ phàm-tâm kia lấy làm lạ-lùng và không có thể tưởng-tượng đặng, và không có thể tin đặng. Ôi ! Một trường ngôn-luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ chê-bai, khinh-rẽ là thế nào. Trong một bài thơ Ngài than như vầy :
"Cười khan mà khóc bởi thương
bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy,
Biết phận già không chờ chống gậy.
Nương theo con dại mới ra vầy"
Thật vậy, Ngài quá thương con-cái mới ra nông-nỗi đó, tưởng lòng thương-yêu vô tận ấy không thể gì ta tưởng-tượng đặng, không thể gì chúng ta biết đặng cái giá-trị nồng-nàn yêu-ái vô-biên vô-tận ấy, chỉ "vì thương con dại mới ra vầy" câu ấy nồng-nàn thấm-thúy đau đớn làm sao, câu nói đó là vì thương con dại của Ngài, mà toàn-thể anh em chúng ta có hiểu cái tiếng dại ấy là thế nào không ?
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Giao Thừa Cuối Năm Tân Mão, Đầu Năm Nhâm Thìn tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 12 năm Tân-Mão (1952).
Bần-Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus-Christ đã nói hạnh-phúc thay cho những kẻ khờ-khạo, vì nó được quyền-năng của ông Cha của Thiêng-Liêng kia binh-vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái dại ấy mà nó cô-độc, bởi vì nó còn ông Cha oai-quyền vô-tận vô-biên, Ổng thay thế cái khôn cho nó. Hạnh-phúc thay cho những kẻ yếu-hèn, những kẻ yếu-hèn với những người sang-cả, khi trở về cùng Cha của họ nơi nước Hằng-Sống của Đức Chí-Tôn đã dành để cho con-cái đau-khổ của Ngài, cái giá-trị vẫn khác.
Nếu quả- nhiên sắp con của Ngài phải chịu hèn-hạ khổ-não, ngu-khờ là tại Ngài muốn vậy, Ngài muốn dành để cái oai-quyền binh-vực của Ngài cho chúng nó.
Khốn-khổ thay cho những kẻ miệt-sát kẻ yếu-hèn, khốn-khổ thay cho những kẻ áp-bức, hiếp đáp những người cô-thế, trẻ con, góa-bụa, tật-nguyền, bởi vì nó miệt-sát nhục-mạ con-cái của Ngài, tức là nhục-mạ Đấng Tạo-đoan, như vậy là còn tội-tình nào lớn hơn điều ấy.
Ấy vậy muốn tránh khỏi chỉ có một điều thôi, phải thương-yêu con-cái của Ngài được như Ngài vậy, nếu được cái tình thương-yêu vô-tận tại thế này, được cái tình thâm yêu-ái vô-biên ấy là một kiếp-sanh hạnh-phúc của chúng ta hơn hết. Cả thảy đều tịnh-tâm cầu-nguyện cho Bần-Đạo ban phước lành (Đức Hộ-Pháp ban phước lành).
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Giao Thừa Cuối Năm Tân Mão, Đầu Năm Nhâm Thìn tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 12 năm Tân-Mão (1952).
Bần-Đạo nói : dù sang-cả nơi mặt thế-gian này, ngày chúng ta qui rồi với một cái hòm, với một khoảnh đất, với một cái lổ mà thôi. Sang trọng vinh-hiển mà làm gì ? giàu có mà làm gì ? Phải kiếm món quí-báu hơn nữa là kiếm cái quyền Thiêng-Liêng Hằng-Sống của mình đấy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Giao Thừa Cuối Năm Tân Mão, Đầu Năm Nhâm Thìn tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 12 năm Tân-Mão (1952).
Đêm nay là đêm Lễ Vía Đức Chí Tôn. Bần Đạo sẽ nói, Đức Chí Tôn là ai ? Nhưng cốt yếu Bần Đạo nhắc lại đây là nhắc cho con cái của Ngài để Đức Tin nơi Ngài đặng siêu-rỗi.
Đức Chí-Tôn chúng ta đã gọi là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Đấng Thượng-Đế dầu cho các nước, các sắc dân-tộc trên mặt địa-cầu này có đặt tên của Ngài khác nhau, nhưng Đấng làm Chủ-Quyền Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ, tạo-dựng thi-hài và hồn-phách của chúng ta. Đấng ấy là Đấng vô-đối mà bao-giờ con người cũng gởi tâm-hồn nơi Ngài.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 8 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Về: Đức Chí Tôn là ai ?.
Bần Đạo thuyết: vì cớ nào con người từ tạo Thiên lập Địa đến giờ vẫn cố-tâm tầm Đạo, tiếng tầm Đạo là tầm cái gì chớ ? Họ có biết chữ Đạo ấy, họ đặt tên là gì chăng ? Thật sự ra họ tầm nguơn-lý đã sản-xuất ra họ, hay là cái năng-lực chủ-quyền đã tạo-dựng nên hình-hài và tâm-hồn của họ. Bần Đạo đã thuyết chữ Đạo là thế nào cả thảy đều nghe và hiểu rồi không cần lập lại.
Thật sự ra, con người có tâm tầm Đạo ấy mà chi ? Bần Đạo xin giải rõ: Vả chăng chúng ta đã sanh ra cõi thế-gian này, chúng ta tự biết rằng : Nếu chủ-quyền nơi ta buộc ta phải sống đặng nuôi cái hình-hài xác-thịt này, sống nơi cõi này chịu đau-đớn khổ-não mọi đường thì chúng ta chẳng khi nào khứng chịu mà chớ. Vì cớ cho nên chúng ta đặng rủi sanh, chúng ta đã biết có chủ-quyền, có đủ năng-lực cầm linh-hồn chúng ta đã có mặt nơi thế-gian này, nhưng lại chịu đau-khổ ấy, chúng ta muốn hiểu giá-trị ấy đối với Đạo vì cớ gì ? Tìm hiểu giá trị ấy đặng chi ? Đặng an-ủi tâm-hồn của ta đồng sanh chịu trong "Tứ Diệu Đề" chơn-lý của nhà Phật đã để và chúng ta đã nhìn, chúng ta không chối-cãi, chúng ta đau-khổ, chúng ta không biết gởi nơi ai.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 8 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Về: Đức Chí Tôn là ai ?.
Bây giờ chúng ta kiếm ai ? Đặng gởi cái đau-khổ ấy, kiếm ai có năng- lực đặng an-ủi ta. Để dấu hỏi tức-nhiên phải trả lời : Đấng đã tạo sanh ra ta, ta không biết mà ta đã hiểu rằng Đấng Tối-Linh cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ. Chúng ta quả-quyết rằng Đấng ấy đã sanh ra ta và tạo đoan cả hình-hài và linh-hồn của chúng ta đó vậy. Chúng ta đã biết chúng ta có một phương-thế mà thôi, chúng ta không hiểu nguyên-do thế nào chúng ta đã sanh ra đây, chúng ta vẫn khổ, chúng ta tìm người sanh ta đặng gởi tâm-hồn ta và nếu quả-nhiên Đấng ấy đã có hiển-nhiên như tâm-linh của ta đã định, Đấng ấy sẽ có phận-sự an-ủi ta, bởi Đấng ấy đã sanh ta làm chủ ta ; làm chúa ta, làm chúa chẳng phải làm chúa xác-thịt mà thôi, có quyền-năng kiềm-thúc ta, trừng-phạt ta, có quyền diệt thi-hài này dìm linh-hồn ta xuống địa-ngục. Đấng ấy quyền-năng như thế, chúng ta còn tuyển-chọn nơi ai khác hơn Ngài đặng ta gởi tâm-hồn ta chăng ?.
Ấy vậy, nếu ĐấngThượng-Đế ấy có theo cái tâm phàm của Đời đã biếm-nhẻ, đã chối cải, nếu quả-nhiên Đấng ấy có hay không có, mà ta gởi cho Đấng Tạo- Đoan cái linh-tâm của ta chịu khổ-não nơi trần này đau-đớn quá đổi, không ai bênh-vực, không ai an-ủi, ta cứ gởi lúng cho Đấng đó mà ta quả-quyết rằng : Người đó làm Chủ ta, ta gởi cho Người đó có thể đem chủ-quyền của mình có năng-lực, có quyền-hành định phương-pháp an-ủi tâm-hồn ta đặng.
Ấy vậy ta gởi tâm-hồn ta cho Đấng đó tức-nhiên ta tầm Đạo đó vậy.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm mùng 8 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Về: Đức Chí Tôn là ai ?.
Hôm nay là ngày Rằm Thượng-nguơn, thừa dịp Nguơn trọng-hệ đối với các Đẳng linh-hồn tiền-vãng, hậu-vãng, nên Bần Đạo giảng cái đề thiệt-phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa, là đối với toàn-thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này.
Vả chăng chúng ta, mỗi cá-nhân đều đặng một quyền vinh-diệu tức- nhiên là cái quyền làm phần-tử của nhơn-loại. Ta là một phần tử, nói rõ ra tức-nhiên ta là một phần trong 2.500 triệu con người ở mặt địa-cầu này mà chúng ta gọi là Đời ấy, chúng ta ít nữa cũng phải biết Đời là gì ? Rồi mới định-phận của mình đối với họ trong mực-thước chuẩn-thằng, đặc-phận của mình, nếu mình không biết giá-trị của toàn-thể nhơn-loại, e cho chính mình không biết cái giá-trị của mình nữa mà chớ.
Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh, đêm 14 tháng 1 Nhâm Thìn (1952) Lễ Thượng Nguơn Về: “ Thiệt phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa”.