PHẦN THỨ NHỨT
VÕ TRỤ THIÊN ĐỊA
Đây chúng tôi muốn nói về Võ Trụ đạo đức tâm linh, nghĩa là chúng tôi muốn tìm hiểu đạo tự nhiên tạo lập Càn Khôn, hóa sanh vạn vật; lưu hành trong không gian, thời gian và có liên đới quan hệ với đời sống của người, để rồi theo đó chỉnh đốn lẽ sống của mình, hầu tránh khỏi hệ lụy trần ai; không vướng mắc trong luật Nhơn quả; chung quy, cầu sự giải thoát kiếp Luân hồi.
Thế đạo tự nhiên ra sao?
Chúng tôi đã giảng diễn trong quyển Đại Đạo Giáo Lý rồi, đây không nhắc lại, mà chỉ nghị luận thêm hai chương như sau, để giúp cho sự học hành được sáng tỏ thêm hơn.
- Đấng Tạo Hóa
- Luật Nhơn Quả, Luân Hồi.
Theo lẽ thường, hễ trông thấy một tòa nhà nguy nga, đồ sộ, chúng ta liên tưởng đến vị kiến trúc sư, phác họa và tạo tác ra nó. Trông thấy một đứa bé ngộ nghĩnh, chúng ta nghĩ ngay đến cha mẹ nó. Cũng như trông thấy võ trụ bao la, trên có trời che, dưới có đất chở, sơn xuyên thủy tú, thảo mộc muôn màu, lại ngẫm đến vạn vật, thiên hình vạn trạng, và mỗi mỗi đều an bày một cách tuyệt diệu thì chúng ta nghĩ ngay đến Đấng Sáng Tạo thế giái vạn hữu. Vậy thử hỏi Đấng ấy là ai?
Chúng tôi xin đáp ngay: Đó là Đấng Tạo Hóa. Mời quý ngài cùng chúng tôi tham khảo như sau:
Tham cứu kinh điển xưa:
Bà La Môn giáo có giảng cái thuyết: "Tam vị nhứt thể". (Brahma, Vishnou, Shiva). Đạo giáo có nói lẽ ứng hóa Tam Thanh (Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh). Thế thì đủ rõ một vị là Đấng Thượng Đế ứng hóa Tam Thể.
Tham cứu lễ nghi thờ phượng:
Tôn giáo nào cũng sùng bái một Đấng cao cả hơn hết trong Càn Khôn Võ Trụ, tức Đấng Tạo Hóa, nhưng mỗi Giáo, tùy cách lập ngôn mà xưng tụng một danh từ riêng biệt như: Phật giáo Đại Thừa thờ A Di Đà Phật, tức Đức Phật sanh trước muôn vàn Đức Phật khác. Đạo giáo thờ Đức Thái Thượng, tức vị Tiên tối cao. Nho giáo thờ Đức Thượng Đế, tức vì vua Thượng giới, nay Khai Đại Đạo, Đức Ngài tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT. Danh từ tuy khác, song tựu trung chỉ có một Đấng Chí Linh.
Tham cứu thực tế:
Người thế nhơn, chưa mấy ai nghe lời của Trời nói; chưa mấy ai trông thấy Thiên thể của Trời, song, mỗi khi lâm nạn ai ai cũng kêu Trời cầu cứu. Vậy đủ biết lòng tín ngưỡng Đức Chí Tôn chẳng phải mới phát minh ngày nay, mà thật đã có từ ngàn xưa, nhơn loại vẫn còn truyền thống cho nhau.
Rất may cho nhơn loại, ngày nay Đức Chí Tôn dùng huyền diệu Tiên gia, khai mở mối Đạo Trời. Nhờ đó, chúng ta xác nhận sự hiện hữu của Thái Cực Thánh Hoàng (1) được rõ ràng hơn. Xem như hai vị Đồng tử phò Ngọc cơ ở giữa đàn tế lễ trong giây lát Ngọc cơ chuyển động, viết ra chữ. Thử hỏi tại sao Ngọc cơ viết ra chữ: Ấy là khi tế lễ, người hầu đàn thành tâm cầu nguyện cảm ứng Đức Chí Tôn, rồi Đức Ngài dùng Thần lực, giáng điển linh, huy động Ngọc cơ viết ra chữ.
(1) Đức Thượng Đế ngự trên ngôi Thái Cực nên gọi là Thái Cực Thánh Hoàng. Hơn nữa, bài Ngọc Hoàng Kinh có câu: "Đại La Thiên Đế, Thái Cực Thánh Hoàng".
Để minh xác rõ ràng thêm nữa, chúng tôi theo sách Ấn Độ, chép chuyện người con hỏi cha về chân lý như sau:
Người con nói: - Thưa cha, xin cha giảng chân lý cho con nghe.
- Được, con lấy một nắm muối bỏ vào chậu nước, đến sớm mai ngày sau, con trở lại xem.
Người con cứ theo lời dạy mà làm. Và hôm sau người cha bảo nó:
- Muối mà con bỏ vào nước hôm qua, con mang lại đây cha coi.
Bây giờ người con vớt mãi mà chẳng thấy muối, vì muối đã tan rã và hòa với nước rồi.
- Con hãy nếm nước trong chậu, trên mặt xem thế nào?
- Thưa cha mặn.
- Hãy nếm nước ở giữa chậu.
- Thưa cha mặn.
- Nếm cho thật kỹ rồi lại đây cha bảo.
Người con nếm đi nếm lại và nói:
- Thưa cha, vẫn thế.
Người cha bây giờ, trịnh trọng nói:
- Thế đó con ạ! Con không phân biệt cái thực thể tinh vi tạo dựng võ trụ, sanh hóa vạn vật, vì nó đã hòa hợp với thế giái vạn hữu, cũng như muối tan rã và hòa hợp với nước kia vậy.
Chuyện nầy đại ý cũng như câu Thánh ngôn Đức Chí Tôn nói rằng: "Các con đủ hiểu rằng mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do chơn linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy. "Thầy là Cha sự sống, vì thế mà lòng háo sanh của Thầy vô cùng tận".
Hoặc, cũng như kinh Upanishads nói rằng: "Tất cả cái gì hiện hữu ở thế gian đều có Thượng Đế bao bọc. Cái thực thể ấy là nguồn sống tràn ngập Trời Đất. Từ các vì tinh tú vận chuyển bình hành trong vòng trật tự, cho đến các loài cầm thú, thảo mộc, đều nương nhờ nguồn sống vô biên đó".
Có điều khó cho người thế nhân, là vì Đức Chí Tôn ngự trên ngôi Thái Cực tuyệt đối, im lìm lặng lẽ. Người ta không dùng trí phàm ngẫm nghĩ được; không dùng ngôn ngữ nói rõ được, thành thử, nhiều người bán tín; bán nghi. Trái lại, người có đức tin thì mặc khải, cảm thông với Đức Chí Tôn một cách tinh tường. Các nhà chơn tu nhờ lòng tín ngưỡng ấy mà đạt được chơn lý hoàn toàn.
Kể từ thuở Âm Dương tương hiệp, tạo thành Càn Khôn; hóa sanh vạn vật thì không gian vô tận, vô biên, không hình không sắc, tức Đạo, giữ vững cơ định quả; còn thời gian chịu luật định hình. Nghĩa là thời gian chiếu theo luật định của không gian rồi vận chuyển; chuyển vận định hình muôn vật. Vậy, sự sanh thành muôn loài không phải ngẫu nhiên, mà thật có Nhơn trước rồi sau mới có Quả.
Sau đây chúng tôi lược khảo Luật Nhơn Quả và Luân Hồi.
Nhơn chỉ về hột giống; Quả chỉ về trái mới sanh. Nhơn quả nghĩa đen là trồng cây nào thì hái trái ấy. Về Đạo pháp nhơn quả có nghĩa bóng là làm lành thì có phước trả lại; làm dữ thì họa đến chẳng sai. Luật báo ứng định: Hễ có Nhơn thì có Quả, cũng như trồng cây thì hái trái, như đã kể trên. Kinh Phật thường lấy sự trồng dưa, để cắt nghĩa luật báo ứng. Chúng tôi xin phân tách như sau, để rồi nương theo mà nhận thức Luật Nhơn Quả đối với kiếp người.
Hột dưa gieo xuống đất là Nhơn.
Đất, nước, gió và hơi nóng mặt trời là Duyên.
Trái dưa mới sanh là Quả.
Nhơn, Duyên, Quả là ba yếu tố cấu sanh muôn loài vạn vật. Đối với kiếp người thì tư tưởng, lời nói, việc làm, sau khi động tác rồi, còn lưu lại trong không gian một dấu vết ấy là Nhơn.
Tinh thần của Võ Trụ là Duyên.
Phước họa trả lại là Quả.
Theo lẽ nầy mà suy ra, chúng ta hiểu rằng: những điều phước họa bây giờ là kết quả của sự hành động trước, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc trong kiếp quá khứ. Còn những hành động bây giờ sẽ là Nhơn ngày sau, hoặc mau thì trong kiếp nầy; hoặc lâu thì trong kiếp vị lai. Kinh Phật thường ám chỉ sự báo ứng liên tục trong ba đời, cho nên nói rằng: kiếp hiện tại vừa trả quả cho kiếp quá khứ; vừa tạo nhơn cho kiếp vị lai, rồi Nhơn kia, Quả nọ; Quả nọ, Nhơn kia liên kết thành một đoàn dây duyên nghiệp, ràng buộc chúng sanh trong bánh xe luân hồi, hằng xoay mãi không lúc nào ngừng.
Đã hiểu như thế, nay muốn giải thoát Kiếp Luân Hồi thì tất nhiên phải tránh Luật Nhơn Quả, nghĩa là chẳng tạo ác nghiệp thì ắt chẳng có ác quả. Mà hễ không nghiệp quả tiện thị chẳng có kiếp luân hồi.
Người Phật tử ý thức rằng: một kiếp sống của người ta có hai giai đoạn: Sanh và Tử. Sanh là mối bắt đầu của tử. Tử là chỗ khởi thỉ của sanh, cũng như mùa xuân ngấm ngầm nẩy nở trong mùa đông. Kiếp sống ấy chẳng phải đến với người ta một đôi lần, mà nó đã trải qua nhiều lắm rồi và nó còn sẽ còn đến nữa mãi mãi và mãi mãi nếu người ta không giác ngộ.
Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy rằng:
THÁNH NGÔN: "Các con sanh trưởng nơi thế nầy, khi tử hậu các con đi đâu. Chẳng có một đứa nào hiểu cơ mầu nhiệm ấy.
Thầy nói cả kiếp luân hồi của chúng sinh, Thầy đổi từ vật chất ra thảo mộc, từ thảo mộc ra côn trùng, từ côn trùng ra thú cầm. Loài người phải chuyển kiếp ngàn ngàn muôn muôn lần mới đến địa vị Nhơn phẩm.
Nhơn phẩm chia ra nhiều hạng: Bậc Đế Vương nơi địa cầu nầy chưa bằng bậc chót của Nhơn phẩm địa cầu 67. Nhơn phẩm chia ra nhiều cấp, số địa cầu càng cao, nhơn phẩm càng quý trọng; mãi đến đệ Nhứt cầu, Tam thiên Thế giới, Tứ đại Bộ châu, rồi mới vào Tam thập lục Thiên, qua Tam thập lục Thiên, còn phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới vào Bạch Ngọc Kinh, Phật gọi là Niết Bàn.
Một kẻ kia, tuy chưa có chưn trong Tôn giáo, song đã làm tròn Nhơn đạo, tức làm xong bổn phận Người, thì buổi chung quy, cứ theo nấc trên mà tiến lần. Trên đường về Thầy, các con thử nghĩ ngày nào mới đến? Vì vậy, Thầy ban cho nhơn loại một quyền hành rất rộng. Nếu các con sớm tỉnh ngộ, một đời tu cũng có thể trở về cùng Thầy. Nhưng tiếc thay, Thầy chưa từng thấy kẻ ấy".
Sau đây, chúng tôi thể theo Thánh ngôn của các Đấng Trọn Lành giáng cơ dạy, lược giải Luật Luân Hồi đối với ba xác thân người ta là:
-
Nhục thân
-
Chơn thần
-
Chơn linh.
Cả cơ chuyển sanh, biến kiếp, đều do khí Âm Dương, Ngũ hành, diệu hợp mà nên thể chất và trưởng thành. Nghĩa là từ buổi thành hình trong thai bào, đến khi ra đời và nên vai, nên vóc, lúc nào cũng nhờ Âm Dương, Ngũ hành sanh hóa, trưởng dưỡng. Mãi đến khi thể xác mãn kỳ sanh thọ, thì thể xác tiêu tan. Lúc bấy giờ, các yếu tố lại hườn nguyên về bản chất tự nhiên của nó, để rồi chuyển hóa hình hài khác nữa.
Vậy, nhơn thân vốn tạm khí chất của năm hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ cấu thành. Cho nên người phải vay nợ của các giống ấy, gọi là nợ tiền khiên. Đó là Luật Nhơn Quả đã định cơ vay trả, trả vay, dầu ai muốn chối cũng không chối được. Mà Nhơn quả là nguyên nhân sanh kiếp Luân hồi. Tôn giáo thành lập ở thế gian, mục đích giúp phương tiện cho người thanh toán mối nợ tiền khiên đó.
Chơn thần cũng gọi là Thần quang, cái thể bán hữu hình ấy có một sức mạnh thiêng liêng và có bổn phận dìu dẫn nhục thân hành động theo Thiên lý.
Trong lúc sanh tiền, nếu Chơn thần kiềm chế được nhục thân hành động trọn vẹn theo Đạo thì Chơn thần sẽ được hiệp một với Chơn linh, tạo nên một thể khí vô vi, chẳng những khi tử hậu được siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn tương đối, mà buổi sanh tiền cái thể khí ấy cũng có thể xuất ngoại vân du khắp cõi Ta bà nữa. Người tu đến đây gọi là đắc đạo. "Thân ngoại hữu thân". Trái lại, nếu trong lúc sanh tiền, Chơn thần không kiềm chế được nhục thân, để nó buông lung theo phàm trần; phóng túng theo vật chất, gây ra tội tình, ác nghiệp thì chung quy, khi nhục thân tan rã dưới mồ rồi, Chơn thần phải chuyển kiếp khác, để tạo dựng một nhục thân khác thô kệch thấp hèn hơn, đó gọi là thối hóa.
Chơn linh người ta là điểm sáng của Trời phú cho. Nó hằng nương theo Chơn thần đặng dự trường thi công quả tại thế gian. Chơn thần có phận sự chế ngự nhục thân. Chơn linh lại phải gìn giữ Chơn thần.
Trong kiếp hiện tại, nếu Chơn thần không chế ngự được nhục thân; Chơn linh không gìn giữ được Chơn thần chăm theo Luật pháp Chơn truyền thì sau khi nhục thân tiêu diệt, Chơn thần phải chuyển kiếp. Còn Chơn linh thì phải chờ mãi đến khi nào Chơn thần tạo được một nhơn hình khác; đầy đủ thiện quả thì Chơn linh mới đến cùng Chơn thần hiệp nhứt, tạo nên thể khí Vô vi như đã nói trên, tiếng thông thường gọi là đắc vị thiêng liêng.
Theo luật tự nhiên, người tu hành phải tạo kỳ được thể khí vô vi nầy, thanh khiết, diệu huyền, thì mới có thể siêu thoát ra ngoài vòng Càn Khôn tương đối và trở về với Thái Cực tuyệt đối, ấy là Luật Luân Hồi của Chơn linh.
Tóm lại, cõi thế gian là một trường học lớn và là một trường thi công quả của cả chúng sanh. Đắc thì về cõi thiêng liêng hằng sống; thất thì ở lại trần gian. Đắc thì giải thoát kiếp sanh tử; thất thì còn lẫn lộn, chen lấn cùng các vật thể hữu vi trong cõi trần hoàn tương đối, để định cơ chuyển luân, tấn hóa; mà then chốt là Luật Nhơn Quả và Luân Hồi. Chữ Nhơn quả và Luân hồi, thường đấp đổi lẫn nhau mà cắt nghĩa cuộc sanh tử của chúng sanh. Bởi vì có Nhơn quả mới có Luân hồi. Hoặc có Luân hồi mới có Nhơn quả. Ấy vậy, nên hễ ngày nào, chúng sanh chẳng tạo Nhơn quả thì ắt chẳng có Luân hồi, mà hễ chẳng có Luân hồi thì cũng không gây ra Nhơn quả. Không Nhơn quả, không Luân hồi tiện thị là giải thoát kiếp sanh tử.

Xem tiếp phần thứ hai: VÕ TRỤ DỊCH LÝ