PHẦN THỨ HAI
VÕ TRỤ DỊCH LÝ
Khoa học và Đạo học, đều công nhận vạn vật dưới gầm trời thay đổi; đổi thay không ngừng. Cổ nhơn cho sự biến đổi ấy là do dịch lý của Võ Trụ, (tức Đạo) mà ra.
Chúng tôi thể theo giáo lý của Đạo giáo và Nho giáo tham bác với Thánh ngôn của Đức Chí Tôn để giảng diễn cơ tạo lập Trời Đất, hóa sanh muôn loài, do Đạo trải qua hai thời kỳ biến chuyển kể như sau:
-
Tiên Thiên Đại Đạo
-
Hậu Thiên Đại Đạo.

Tiên Thiên Đại Đạo, là Đạo có trước Trời. Chỗ nầy Đạo Đức Kinh chương I có nói rằng: "Vô danh Thiên Địa chi thỉ". Cái vô danh có trước Trời Đất. Trong Đạo Đức Kinh, chương 42, Đức Lão Tử nói rằng: "Đạo sanh nhứt; nhứt sanh nhị". Nghĩa là Đạo sanh Thái Cực; Thái Cực sanh hai khí Âm Dương, chỗ nầy Nho Giáo nói rằng: "Vô Cực nhi Thái Cực". Thái Cực sanh Âm Dương nhị khí. Còn Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng biến ra Bát Quái; Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập Càn Khôn Thế Giái".
Vậy cái Vô danh, Vô cực, hay khí Hư vô, tuy có khác danh từ nhưng tựu trung vốn một, mà Đức Lão Tử tạm gọi là Đạo. Còn Âm Dương do Thái Cực sanh ra là hai yếu tố tạo lập Càn Khôn Thế Giái.
Nay như hỏi cái Vô danh mà Đức Lão Tử tạm gọi là Đạo kia ra sao? Ngài nói rằng: "Có vật tự nó sanh nó. Vật ấy có trước Trời Đất yên lặng trống không; đứng riêng một mình mà chẳng hề nghiêng chích; lưu hành khắp nơi mà chẳng hề mỏi mòn. Vật ấy khá gọi là nguồn sanh hóa thiên hạ. Ta chẳng biết tên, song mượn chữ gọi là Đạo". "Hữu vật hổn thành. Tiên Thiên Địa sanh, tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đãi; khả dỉ vi thiên hạ mẫu, ngô bất tri kỳ danh; tự chi vi Đạo" (Đạo Đức Kinh, chương 25). Rồi Ngài nói tiếp rằng: "Ta suy diễn thì thấy Đạo lúc nào cũng có một thể, không biết đâu là đầu đuôi; đâu là manh mối; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta trông lên phía trên thì không thấy phản chiếu ánh sáng; xem xuống phía dưới thì không thấy ẩn khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên, giản dị, mà chính Đạo là bản thể của Võ trụ".
Muốn được rõ thêm, chúng ta nên xem lại lời của Chu Liêm Khê là một danh Nho đời Tống bên Tàu kể như sau:
"Vô cực nhi Thái cực". Tại sao lại nói Vô cực mà Thái cực: Bởi vì Vô cực là cái thể "Tịnh"; Thái cực là cái thể "Động". Cái Động ở trong cái Tịnh mà ra; cho nên nói rằng: Vô cực mà Thái cực. Đứng về mặt tham cứu, người ta không thể ngẩm nghĩ luận bàn về được cái thể của Vô cực, thành thử người ta căn cứ vào Thái cực là cái động thể để nghiên cứu sự dịch lý.
Nên hiểu rằng: đối với Vô cực thì Thái cực là động thể, cho nên Thái cực hàm súc hai trạng thái là Tịnh và Động. Tịnh thì Thái cực sanh khí Âm. Tịnh hết sức rồi lại Động, mà hễ Động thì Thái cực sanh khí Dương. Âm Dương là hai yếu tố biến hóa vô cùng, kể đại lược như sau:
Nguyên Âm Dương có tánh tương khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc, cho nên Âm Dương gặp nhau thì xô xát, mà xô xát cùng cực rồi lại điều hòa. Chính sự hỗn độn điều hòa của hai khí Âm Dương là cơ định vị Trời Đất.
Theo sách Nho, trong lúc Âm Dương hỗn độn điều hòa thì khí nhẹ bay lên thành Trời; khí nặng chìm xuống thành Đất, và sau khi phân ngôi vị Trời Đất rồi, trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm Dương lại hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh muôn loài.
Nói rút lại, thời kỳ Tiên Thiên Đại Đạo biến hóa nói trên đây là thể hiện "Hà đồ Bát Quái Tiên Thiên" của vua Phục Hi phát minh từ Thượng cổ thời đại. Hà đồ vẽ HAI NGHI Âm Dương và cứ MỘT biến ra HAI; HAI biến ra BỐN; BỐN biến ra TÁM; TÁM biến ra MƯỜI SÁU, và CỨ THẾ MÀ BIẾN HÓA VÔ CÙNG. Lẽ nầy cũng giống như Đức Chí Tôn nói rằng: "Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng; Tứ Tượng biến ra Bát Quái. Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập Càn Khôn Thế Giái" như đã nói trên.

Nhắc lại, khi Trời Đất phân ngôi cao, thấp rồi, trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm Dương hỗn độn điều hòa nữa mà hóa sanh vạn vật, chỗ nầy Đức Chí Tôn dạy rằng:
THÁNH NGÔN: "Khi tạo lập Càn Khôn Thế Giái rồi, Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh. Vậy, các con đủ hiểu rằng, mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do Chơn linh Thầy mà ra. Có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha sự sống. Vì vậy, nên lòng háo sanh của Thầy vô cùng tận".
Câu Thánh ngôn trên đây đại ý nói rằng: "Khi tạo lập Trời Đất rồi; Đức Ngài phân tánh mà sanh vạn vật. Tánh ấy, khi tách khỏi Đức Chí Tôn rồi, theo Đạo tự nhiên lưu hành khắp Võ trụ, và hễ đến đâu, thì nó tùng luật "hấp dẫn" thu hút những khí chất đồng loại với nó để rồi cấu thành vật thể của nó. Ấy vậy, nên Nhơn thân hàm xúc đủ khí chất và lẽ nhiệm mầu của Võ trụ. Bởi vì người ta là một vật trong số muôn loài, cho nên người ta ai cũng phải ở trong công lệ hóa sanh của Đạo. Chỗ nầy Đạo Đức Kinh chương I nói rằng:
"Hữu danh vạn vật chi mẫu". Chữ hữu danh đây chỉ về Tượng Trời Đất (Le ciel et la terre) là nguồn sanh hóa vạn vật.
Cũng đồng với lẽ này, chúng ta thấy Kinh Dịch chép rằng:
"Thiên Địa nhơn huân vạn vật hóa thuần, nam nữ cấu tinh vạn vật hóa sanh". Nghĩa là Trời Đất ngui ngút, vạn vật theo đó mà hóa thuần. Muôn loài, đến lượt nó, khi trưởng thành rồi, giống đực, giống cái, giao cấu mà sản xuất thêm ra mãi.
Đây là thể hiện Hậu Thiên Bát Quái của vua Võ đời nhà Hạ. Tiên Thiên Bát Quái của vua Phục Hi thì vẽ Âm Dương, Hậu Thiên Bát Quái của vua Võ thì thể theo Cửu trù mà định số Ngũ hành. Hai Bát Quái làm biểu lý nhau mà thành Dịch lý.
Tóm lại, Đạo có Thái cực sanh Âm Dương, Ngũ Hành. Chung Ngũ Hành, Âm Dương trở về với Thái Cực. Dịch lý gồm hai trạng thái:
Một trạng thái bàng bạc trên cõi hư không; còn một trạng thái nữa thì trường lưu trong vạn vật. Một đàng thì phân tán, một đàng thì thu liễm, thành một đóng; một mở máy huyền vi (1) là nơi xuất sanh; nhập tử của muôn loài vạn vật. Cái máy huyền vi nầy, nếu đứng ngoài xem, thì chúng ta thấy nó dường như mâu thuẩn; nhưng nếu thâm nhập vào trong để quan sát, thì chúng ta thấy nó điều hòa tuyệt đối. Tại sao? Bởi vì Âm Dương có tánh tương khắc mà lại tương hòa. Bởi tương khắc, cho nên hễ gặp nhau, thì xô xát, nhưng sự xung khắc đây chẳng phải để xâm hại lẫn nhau, mà thật để điều chỉnh cho đôi bên đều nhau. Có điều mới có hòa. Âm Dương có điều hòa mới có hóa sanh vạn vật. Nhơn lẽ ấy, nên trong người chúng ta có hai khuynh hướng là: Thiên lý và Nhơn dục, dường như trái ngược nhau, nhưng tựu trung, đó là hai trạng thái của một bản thể mà thôi.
(1) Máy huyền vi tức Đạo biến hóa. Nguyên vạn vật do Đạo mà sanh ra thế gian, nên gọi là xuất sanh; vạn vật tử ở thế gian thì trở về với Đạo, nên gọi là nhập tử. Trong Cung Oán Ngâm Khúc, Ôn Như Hầu có viết: "Máy huyền vi mở đóng không lường".
Dịch lý Võ Trụ vận hành như đã nói trên và không lúc nào nghỉ. Một hôm Đức Khổng Phu Tử đứng trên bờ sông, ngắm nước chảy mà than rằng: "Thệ giả tư phù, bất xá trú dạ". Nghĩa là: Ngày đêm cuồn cuộn chảy đi thế này ư! Đại ý câu nầy ám chỉ Đạo Trời Đất cứ tuần hườn, hễ mãn chu nầy thì bắt đầu chu khác. Vạn vật cứ theo đó mà diễn tiến không ngừng, nghĩa là muôn loài theo Đạo mà sanh thành, trưởng dưỡng, già chết rồi cũng theo Đạo mà tái sanh lại nữa và cứ như thế mãi mãi.
Lẽ sanh tồn của vạn vật theo Đạo Trời Đất thay đổi; đổi thay như vậy, cho nên hôm nay chúng ta thấy nó thế nầy thì ngày mai nó lại biến ra thế khác, cũng như nước chảy dưới dòng sông. Chúng ta mới vừa thấy cái hiện tại, thì phút chúc nó đã biến thành cái quá khứ.
Nói tỉ: Nước chịu hơi nóng Thái dương. Nước thoát lên không gian thành mây. Mây tan rã rớt xuống trần gian thành nước. Còn những vật hóa sanh như: lá cây biến thành sâu, củ cỏ biến thành dế, chuột biến thành dơi, lươn biến thành chồn vân vân ... Biết đâu những vật nầy còn biến hóa thế nào nữa, nhưng chúng ta chẳng hề biết được.
Chúng tôi thử tạm dùng hột lúa là vật hữu hình chất, trông thấy được để minh xác dịch lý vạn vật như sau:
Thoạt kỳ thỉ, Âm Dương vận hành một đơn tử phát xuất, lưu hành trong hoàn vũ và nương theo luật "Đồng khí tương cầu" thu hút khí chất của Võ trụ, cấu thành hình chất hột lúa thế nào, chúng ta không mục kích được; nhưng khi hột lúa có đủ hình thể rồi, nó cũng vẫn còn thay đổi nữa.
Đại để như: hột lúa được gieo xuống đất thì nó nương theo Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) mà biến thành cây mạ. Cây mạ khi được cấy xuống ruộng thì cây mạ biến thành cây lúa. Cây lúa, đến lượt nó, đơm bông trổ hột lúa khác. Hột lúa mới nầy, nếu được gieo nữa thì nó cũng biến hóa như trước. Có điều lạ là: khi hình thể này biến thành hình thể khác, thì cái nguyên thể của nó không còn nữa. Như hoa thành trái thì hoa tàn, trái lên cây thì trái hư hại. Đó là tại vật nầy ăn sâu vào vật nọ; cho nên hễ nó sanh ở đây thì tử ở kia.
Nói tóm lại, sự vật ở thế gian, tuy chúng ta trông thấy hình tướng thật; song nó chẳng có tánh thường trụ, mà vốn do nhơn duyên cấu sanh. Hễ nhơn duyên hiệp thì sanh, mà hễ nhơn duyên tan thì tử.
Ví dụ: Hột lúa là Nhơn. Tứ đại là Duyên. Nhơn và Duyên hiệp nhau thì sanh ra cây mạ, cây lúa, và hột lúa khác như đã kể trên. Hột lúa mới nầy, nếu được gieo nữa thì nó cũng thay đổi như hột lúa trước vậy.
Sự diễn tiến của vạn hữu không ngừng, cái giác quan chậm chạp của chúng ta chưa kịp nhận định trạng thái nầy thì nó đã biến thành trạng thái khác. Bởi sự vật vô thường như kinh Upanishad đã kể trên kia cho nên Duy Thức Học cho sự vật là giải pháp.
Sự vật giải pháp, thân thể của chúng ta cũng nằm trong công lệ ấy, nghĩa là nó cũng do nhơn duyên cấu sanh, chớ chẳng có tánh thường trụ, cho nên Duy Thức Học cho là giả pháp ngã. Chúng tôi xin mượn cái thuyết "Thập nhị nhơn duyên" của Phật Giáo để minh xác lẽ nầy.
| Nguyên nhơn đời quá khứ |
|
Vô minh (Avidya) mê muội |
| |
Hành (Sanskara) xu hướng |
| Nguyên nhơn đời hiện tại |
|
Thức (Vijnana) hay biết phân biệt |
| |
Danh sắc (Nama Ruba) hình danh |
| |
Lục nhập (Chadâyata) sáu giác quan |
| |
Xúc (Sparsa) cảm xúc |
| |
Thụ (Védana) nhận lãnh |
| |
Ái (Tricha) ham muốn, thèm khát |
| Nguyên nhơn đời vị lai |
|
Thủ (Upâdâna) cố chấp |
| |
Hữu (Bhava) có hình sắc |
| |
Sinh (Jasa) tái sanh |
| |
Lão Tử (Garamrana) già chết |
Mười hai nhơn duyên cấu kết thành Kiếp Luân Hồi liên tục đến ba đời, như đã chỉ trong bảng thống kê trên đây. Theo sách Phật thì Vô minh sanh thành, nghĩa là vì mê muội, không biết luật Trời báo ứng cho nên mới xu hướng, động tác tội lỗi. Có xu hướng động tác tội lỗi mới sanh ra Thức, tức hay biết phân biệt; có hay biết phân biệt mới sanh ra Danh sắc, tức hình danh; có hình danh mới sanh ra Lục nhập, tức sáu giác quan là chỗ ỷ lại của Lục căn. Có sáu giác quan mới sanh ra Xúc; tức cảm xúc. Có cảm xúc mới sanh ra Thụ, tức nhận lãnh. Có nhận lãnh mới sanh ra Ái, tức ham muốn, thèm khát. Có ham muốn, thèm khát, mới sanh ra Thủ, tức chấp lấy. Có chấp lấy mới sanh ra Hữu tức có thân thể vật chất. Có thân thể vật chất mới sanh ra Sinh, tức tái sanh. Có tái sanh mới sanh ra Lão, Tử, tức già chết.
Trong số 12 nhơn duyên kể xuôi như thế; còn như đảo ngược lại mà nói rằng: có già chết mới có Sinh; có Sinh mới có Hữu v.v... và cứ kể mãi.
Tổng số Thập Nhị Nhơn Duyên hoặc nói xuôi, hoặc kể ngược thế nào rồi chung quy cũng thấy Vô minh là cái đại nguyên nhơn sanh kiếp luân hồi. Ấy vậy, nên Phật Giáo chủ trương rằng: Khi đã giác ngộ thì hết vô minh; mà hễ hết vô minh thì các nhơn duyên kia cũng theo đó mà tiêu ma. Tại sao? Bởi vì Thập Nhị Nhơn Duyên liên hệ lẫn nhau, cái này ăn sâu vào cái kia; cái kia ăn sâu vào cái này, thành thử chúng ta quét sạch Vô minh thì các nhơn duyên kia cũng theo đó mà hết. Đại khái như thế, nhưng chúng nó liên kết nhau, cho nên muốn hiểu Vô minh thì phải ý hội tất cả mười hai nhơn duyên mới được.
Giả pháp và Giả ngã, là hai danh từ để đánh thức lòng mê chấp của chúng ta, nói tỉ như chúng ta chấp cái "Ta" và sự vật ở đời là chơn thật, là trường tồn, như Linh hồn bất sanh, bất diệt, rồi lòng vật dục bắt chúng ta hóa theo vật và đồ mưu, định kế thâu đoạt những của quí, sắc đẹp để thỏa mãn mình, còn ai sao mặc kệ. Tật ích kỷ ấy dẫn chúng ta đến một cuộc sống tư phân, ngoài hệ thống của Thượng Đế; ngoài tình thương yêu của chúng sanh. Cái đời sống ấy gây phiền não cho kiếp hiện tại và kiếp luân hồi cho kiếp vị lai. Vậy, kẻ hành giả phải đặt tinh thần mình vào cảnh Hư vô tịch diệt, cầu sự giải thoát hoàn toàn. Đó là học lý của Phật giáo.
Nay, chúng ta thử quay về thực tế suy gẫm cái Giả pháp và Giả ngã, thì chúng ta nhận thấy rằng sự vật đối với thế nhơn, hay những người còn đương tìm học Đạo lý, như chúng ta chẳng hạn, có một phần thiệt và một phần hư. Hư là đối với chơn ly tuyệt đối; còn thiệt là thiệt tương đối với nhục thân. Nghĩa là nhục thân nhờ sự vật để di dưỡng sanh lực và làm tài liệu học hành, khai mở tinh thần, hoặc nói rõ ra là sự vật để cho người dùng; chớ không phải người làm nô lệ sự vật.
Ví dụ: Chúng ta dùng quyển sách để học Đạo lý mãi đến khi có kinh nghiệm rồi quyển sách trở nên vô dụng đối với chúng ta. Cổ nhơn bảo chúng ta "Mượn giả tu chơn" là lẽ như vậy.
Đến đây, chúng ta đã hiểu rằng kẻ học giả phải thực hiện ngay cái thuyết "Vô thường" và "Vô ngã" của Phật giáo để cầu sự giải thoát kiếp sanh tử luân hồi. Còn như muốn thực hành cái Pháp "Tiệm tu" mượn "Giả tu chơn" thì chúng tôi xin đề cập hai phương châm là nhập thế và xuất thế sau đây. Công phu một phần thì kết quả một phần; công phu hai phần thì kết quả hai phần, lần hồi rồi cũng đến viên mãn được.

Xem tiếp phần thứ ba: PHƯƠNG CHÂM NHẬP THẾ