DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương II:

 
 
  1. Đồ hình này biểu tượng cả:Tam giáo, Tam Trấn, Ngũ chi
    1. Phương pháp vẽ
    2. Đạo Cao-Đài thờ “Thánh Tượng Ngũ chi”
    3. Thờ tượng Tam Trấn
    4. Ý-nghĩa Thánh Tượng Thiên Nhãn
    5. Tinh-thần tín-ngưỡng của người Việt-Nam
    6. Đạo Thiên chúa không có Bí-pháp
  2. Ba thời-kỳ khai Đạo
  3. Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ là gì?
  4. Tam giáo thất kỳ truyền
  5. Biểu hiệu của Đạo Cao-Đài: Cờ Tam Thanh
  6. Cách thờ phượng và cúng kiếng
  7. Phương giải khổ của Đạo Cao-Đài
  8. Hệ-thống tổ chức Hội-Thánh
  9. Cao-Đài qui Tam giáo hiệp Ngũ chi
  10. Cao-Đài là nền Vương Đạo lấy Lễ làm đầu

A- Trên đồ hình này biểu tượng đủ cả
Tam giáo, Tam Trấn Oai-nghiêm và Ngũ chi Đại-Đạo:

Đây là Thái cực toàn đồ

1- Phương pháp vẽ (H.15)

Đầu tiên vẽ một vòng tròn lớn biểu tượng Càn khôn vũ trụ, tâm 0 ở chính giữa là ngôi Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế là Chúa tể vũ-trụ và vạn vật. Đạo Cao Đài biểu tượng bằng “Thiên Nhãn Thầy” tức nhiên người Tín hữu thờ “Một Mắt trái” để ngưỡng vọng ngôi Trời.

Một vòng tròn giữa là ngôi Chúa Jésus, Gia-Tô Giáo-chủ, Chưởng-giáo Đạo Thánh. Đây cũng là giao điểm của hai đường kính tạo thành hình chữ thập, là hình ảnh cây Thánh giá mà Chúa đã chịu nạn cho nhân-loại. Ngày nay ai dám có tinh thần phụng sự cao, dám thọ khổ là sớm hiệp cùng Đức Thượng-Đế, là hiệp vào tâm đó vậy.

Sáu vòng tròn xếp chồng lên nhau có đường kính bằng với vòng tròn giữa. Mỗi tâm có hình ảnh một Đấng Giáo-chủ của nhân loại qua các thời-kỳ mà ngày nay Đạo Cao-Đài đều ngưỡng vọng.Dịch gọi là “Các hữu Thái-cực” tức nhiên dưới mắt Thượng-Đế các Đấng Giáo-chủ của Tam giáo đều được đồng quyền đồng đẳng như nhau.

Một tam giác đều nội tiếp trong vòng tròn lớn tượng trưng Tam giáo được phổ truyền rộng khắp, dù có rất nhiều Tôn-giáo nhưng chung qui cũng gồm về ba mối Đạo chánh truyền là: Phật, Tiên, Thánh mà thôi.Tam giáo được biểu tượng qua hình ảnh ba cạnh của tam giác đó. Tuy ba Tôn-giáo nhưng có đến bốn vị Giáo-chủ gọi là “Tứ giáo Thánh nhân” chứ không thể gọi là Tứ giáo được. Bởi vì hai vị Chưởng-Giáo của Thánh Đạo đồng thời trấn ở hai phương Đông và Tây, tức nhiên Đức Thánh Khổng-Phu Tử là ông Thánh Ta, còn Đức Chúa Jésus là ông Thánh Tây. Đây là lời xác nhận của Đức Hộ-Pháp như thế. Có như vậy mới nói “Qui nguyên Tam giáo” và “Phục nhứt Ngũ chi” vào thời buổi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

Tam giác đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, bằng 60o. Tam giác có ba cạnh còn nói lên ý-nghĩa một mà ba, mà ba cũng là một. Dịch biểu tượng là hai quẻ Càn Khôn. Vì lẽ đó tam-giác-đều rất phổ biến qua các biểu tượng của Đạo Cao-Đài.

Trong đồ hình này cấu tạo bởi 7 vòng tròn nhỏ có đường kính bằng nhau. Số 7 này có một giá trị cao siêu và yếu trọng trong nền Tôn giáo. Nó là tượng trưng cho Thất tình, thất khiếu, Thất bửu (xem qua con số 7)

2- Đạo Cao-Đài thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi”

 

 

Đạo trải qua thời-gian, Hội-Thánh cũng đã nhiều lần thay đổi Thánh Tượng Thầy. Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-tượng có nhiều mẫu khác nhau, nhưng điểm chính-yếu vẫn là “Con mắt Thầy” ở chính giữa.

Hình ảnh Thánh Tượng này chỉ là một sự triển khai của đồ (hình 15) ở trên mà thôi, vị trí Các Đấng Giáo chủ cũng hiệp một, nên cả hai cùng một ý-nghĩa.

Trong hiện tại, Hội-Thánh định cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi”. Dưới Thiên-Nhãn-Thầy có hình các Đấng Giáo-Chủ xưa: Tam-Giáo, Tam-Trấn, Ngũ Chi trong ý-nghĩa Tam-Giáo qui nguyên Ngũ Chi phục nhứt:

1/- Tam Giáo:

Trên đồ hình: Tam giác trên cùng tượng trưng Tam giáo ở Nhị kỳ Phổ Độ có các đỉnh làm biểu tượng cho:

. Phật-Đạo: Ở giữa là Thích Ca Như Lai, Giáo-Chủ Đạo Phật.

. Tiên-Đạo: Phía tả là Đức Thái-Thượng Đạo Tổ, Giáo-Chủ Đạo Tiên.

. Thánh-Đạo: Phía hữu là Đức Khổng Thánh Tiên-Sư, Giáo Chủ Đạo Thánh.(Tả hữu là ở ngoài nhìn vào)

2/- Tam Trấn Oai-nghiêm:

Nhị kỳ đã qua, nay là thời Tam Kỳ Phổ độ Tam giáo qui nguyên Ngũ chi Phục nhứt. Đức Chí-Tôn phải lập Tam Trấn Oai nghiêm thay quyền Tam giáo. Đây là tam giác nội tiếp trong vòng tròn giữa, càng thấy sự yếu trọng của Tam trấn như thế nào!

Tam Trấn thay mặt cho Tam Giáo:

Phật : Phía tả là Đức Quan Âm Như Lai, chủ về Phật Đạo.

Tiên: Ở giữa là Đức Thái Bạch Kim Tinh, chủ về Tiên Đạo.

Thánh: Phía hữu là Đức Quan Thánh Đế Quân, chủ về Thánh Đạo.

3/- Ngũ Chi Đại-Đạo:

Từ trên kể xuống thì Ngũ Chi ở hàng giữa là:

Phật Đạo: Đức Phật Thích Ca Mâu-ni, Giáo Chủ Phật Đạo.

Tiên Đạo: Đức Thái Bạch Kim-Tinh Chưởng-giáo Đạo Tiên thay quyền Tiên Đạo.

Thánh Đạo: Đức Gia-Tô Giáo chủ (Chúa Jésus-Christ) Giáo chủ Thánh Đạo.

Thần Đạo: Đức Khương Thượng Tử-Nha, Giáo-chủ Thần Đạo.

Nhơn Đạo: Tượng 7 cái Ngai thể về Nhơn Đạo gồm có: Một Ngai Giáo-Tông, ba Ngai Chưởng-Pháp, ba Ngai Đầu-Sư. Tức nhiên người đứng đầu lãnh đạo Nhơn sanh về phần Nhơn-Đạo là Giáo-Tông Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Trong tượng Ngũ-chi nhận thấy có phần chính-yếu là Thiên-Nhãn Thầy ở chính giữa với số tia hào-quang khác nhau tuỳ theo mẫu Thánh Tượng. Kế đến là mặt trời và mặt trăng tức là Âm Dương nhị khí. Dưới là Tam-giáo, kế Tam Trấn và Ngũ chi

Như vậy mỗi vị đều đứng vào tâm của mỗi vòng tròn, tức là mỗi vị là một Thái-cực với sự yếu trọng khác nhau. Đặc biệt nhứt trong thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này hình ảnh Chúa Jésus Thánh-Đạo là Chúa Cứu Thế đứng vào tâm của vòng tròn tức nhiên hoà nhập cùng Thượng-Đế. Đó là Thọ khổ, là một trong năm bước Khổ vậy. Thế nên người tu trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ là hành đủ Tam lập, là Phụng-sự Vạn linh tức là phụng sự cho Chí-linh.

3- (Trường hợp khác) Thờ tượng Tam Trấn:

 

Về sau Hội-Thánh chấn-chỉnh lại để ban cho toàn Đạo thờ “Tượng Tam Trấn”. Trong Tượng Tam-Trấn không có in hình các Đấng Giáo Chủ, nhưng phần dưới Thiên Nhãn Thầy có ba khuôn vẽ bằng Cổ Tự, đó là Thánh-danh của các Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Tam giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này:

Thánh-tượng này phía trên có 6 chữ: 大 道 三 期 普 渡 (ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ)  dưới cùng là danh-hiệu Tam-trấn, từ trái sang phải:

- QUAN-ÂM BỒ-TÁT.

- THÁI-BẠCH KIM TINH

- QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN

4- Ý-nghĩa Thánh Tượng Thiên Nhãn:

Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng-Đế là Đấng Thánh Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền năng tối thượng, toàn tri, toàn năng của Ngài. Đây là quyền Chúa tể của Càn khôn thế-giới. Thầy dạy:

“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn khôn Thế Giới thì khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.

Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng, mới lập ra Càn-Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.

Các con đủ hiểu rằng:

Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi Chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống, ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.

Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy". (TNII/62)

5- Tinh-thần tín-ngưỡng của người Việt-Nam:

Dân Việt-Nam vốn một lòng sùng thượng Đấng Thượng-Đế nên đã bao thời gian bất cứ nền Đạo mới nào du nhập vào cũng được đón nhận và Tín ngưỡng hết lòng. Nay, cửa Đạo Cao-Đài đã chính thức Qui Tam giáo hiệp Ngũ chi, cho nên quyền hành của Thượng-Đế bao trùm tất cả, biểu tượng số 12 là số riêng của Thầy.

Thánh ngôn Thầy xác nhận:

“Thập nhị khai thiên là Thầy, Chúa cả Càn-khôn thế giới nắm trọn Thập nhị thời thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.

Tất cả những nghi thức cúng kính, thờ phượng, nghi lễ theo Tôn giáo Cao-Đài ngày nay… đều bày ra dưới nhiều hình thức. Nhưng chung qui cũng để bày ra trước mắt cho nhơn sanh thấu đáo lẽ huyền-vi mầu-nhiệm của Đấng Tạo-hoá, hầu noi theo chơn truyền mà để bước về cùng Thầy trong con đường Chân, Thiện, Mỹ. Tất cả những yếu lý ấy gọi là Bí-pháp chơn truyền.

6- Đạo Thiên chúa không có Bí-pháp:

Qua lời của Đức Hộ-Pháp thuyết về BÍ PHÁP tại Đền Thánh, đêm 05-04 Năm Kỷ Sửu (02-05-1949)

“Đối với các triết lý Bí Pháp buổi nọ, bây giờ nhơn loại tăng tiến quá lẽ, thành thử các vị Giáo Chủ đã lập luật pháp, nhưng luật pháp đơn sơ ấy, ngày nay không có đủ quyền năng trị tâm thiên hạ nữa.

Bởi thế cho nên nền Tôn Giáo mới hơn các nền Tôn Giáo khác có mặt tại địa cầu này là nền Thiên Chúa Giáo, vị Giáo Chủ sáng suốt, vị Giáo Chủ ngôn ngữ hoạt bát, tinh thần minh hoạt hơn hết, là Đức Chúa Jésus Christ, nhưng hại thay trong Thể pháp Ngài đủ quyền năng đem đủ giáo lý của Ngài đặng làm nền tảng tâm lý của nhơn loại. Nhưng về mặt Bí Pháp chơn truyền, Ngài chỉ có nói một điều, các Môn Đệ nhứt là các vị Thánh Tông Đồ: “Có nhiều lý lẽ cao siêu ta chưa có thể nói với các người đặng, dầu ta có nói các người cũng chưa hiểu.”

Vì cớ cho nên Bí Pháp Chơn Truyền của Công Giáo không có, không có thể có; bởi theo Bí Pháp, theo lời Đức Chúa Jésus Christ thì buổi nọ Bí Pháp Chơn Truyền của Ngài chưa có thể gì nói cho thiên hạ nghe đặng.”

Vì sao? Về phần sâu xa thì Đức Hộ-Pháp cho biết rồi, còn về phần hữu vi thì biểu tượng cây Thập Tự giá là một vật cứng ngắt không linh động, là hai đường kính giao nhau của vòng tròn. Trong khi đó Phật giáo tượng chữ VẠN tức là “Pháp luân thường chuyển” nên linh hoạt, luân chuyển luôn luôn. Ngày nay Đạo Cao-Đài phối hợp tất cả các pháp ấy: hình ảnh chữ Thập ở giữa là tượng cho sự Thọ khổ của Chúa, nên ảnh Chúa đứng vào tâm. Lại còn dùng đến hai chữ Vạn thuận nghịch: một là các chơn linh xuống trần học hỏi, hai là chữ Vạn nghịch lại là đường trở về. Thế nên, buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ là bày tất cả Bí pháp đó vậy.

 

B- BA THỜI-KỲ KHAI ĐẠO

Từ khi mới có nhân-loại và xã-hội đến giờ đã có ba kỳ Đại-Ân-xá. Riêng về Cựu-Lục-địa (Thái Tây Cận Đông Á Tế Á). Có ba kỳ Phổ-Độ như là:

1-Nhứt Kỳ Phổ Độ: Tức là Nhứt thiết Long-Hoa Thiên khai Tý Hội, thuộc vào thời-đại Đức Phục-Hi bên Tàu. Trong thời-kỳ này trước sau có mấy vị Thánh-nhân ra đời cứu thế:

-Phật giáo: Đức Nhiên Đăng Cổ-Phật Chưởng giáo

-Tiên giáo: Đức Thái Thượng Đạo Quân (tiền thân của Đức Lão-Tử) Chưởng giáo Đạo Tiên.

-Thánh giáo: Đức Văn Tuyên Đế Quân Chưởng giáo Đạo Thánh.

2- Nhị Kỳ Phổ Độ: Tức là Nhị Thiết Long-Hoa, Thiên khai Sửu Hội. Trong thời-kỳ này lần lượt có các vị Thánh nhân ra đời cứu thế:

-Phật giáo: Đức Thích-Ca Mâu-Ni làm Chưởng giáo

-Tiên giáo: Đức Lý Lão Đam, hay Lão-Tử Chưởng Giáo (Hậu thân của Đức Thái-Thượng Đạo Tổ)

-Thánh giáo: ĐứcThánh Khổng Phu-Tử (Thánh Ta), Đức Gia-Tô Giáo-chủ Đạo Thánh (Thánh Tây).

3- Tam Kỳ Phổ Độ: tức là Tam thiết Long-Hoa Thiên khai Dần Hội hay Huỳnh-Hội. Kỳ này Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế giáng điển linh lập Đạo qui các Giáo lại làm một và không giao quyền Giáo-chủ cho người phàm nữa.

Vì sao vậy?

Là vì trước kia năm châu bốn biển thiếu sự đi lại, phải sống lẻ-loi riêng biệt. Bởi thế, Đức Thượng-Đế phải phái những vị Giáo chủ hạ phàm tại mỗi châu tùy phong tục mà mở Đạo. Nay qua Tam-kỳ Phổ-Độ Tam giáo Qui nguyên Ngũ chi phục nhứt, cũng là thời kỳ nhân loại nhờ văn minh khoa học, nên tất cả đều thông cảm nhau và hiểu nhau hơn. Nhân-loại sẽ đồng hưởng thụ các nền văn-minh khoa học cũng như Đạo học. Nay, Đức Chí-Tôn đến nhìn nhận con cái của Ngài và tận độ tất cả Vạn linh trở về.

 

C- Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là gì?

Tiếng Pháp gọi là “Troisième Amnestie de Dieu en Orient” tức là cơ Đại-Ân xá lần ba. Thường gọi là nền Tân Tôn-giáo Cao-Đài, mục đích là dung-hòa triết lý Tam giáo là Nho, Thích, Đạo. Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế tá danh là “Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” dùng Thần Cơ diệu bút lập nên mối Đạo nhà cho dân-tộc Việt-Nam làm khởi điểm.

“Từ cổ chí kim, tạo thiên lập địa, Đạo đều phát khởi từ phương Đông, là các nước ở miền Á Đông (Asie) như các nền chơn-giáo trước kia: Nho 儒, Đạo 道, Thích 釋 cũng đều phát khởi nơi miền Á-đông rồi lần lần truyền bá qua phương Tây như:

- Đạo Phật thì khai tại Thiên-trước là Đức Nhiên Đăng Cổ-Phật và Đức Thích-ca Mâu-Ni khai Phật-giáo.

- Đại-Đạo là Đạo Tiên thì Lão-Tử khai tại Trung Hoa.

- Sau nữa Khổng-Tử khai Đạo Thánh cũng tại Trung hoa là ở miền Á-Đông.

- Sau lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây, nên Đức

Chúa Jésus truyền Đạo Thánh tại hướng Tây. Kế đó Đạo mới roi truyền ra khắp năm châu.”

Thuở tiền khai Đại-Đạo Đức Chí-Tôn đến với các bậc lương sanh của Ngài bằng một giả danh là AĂÂ.

ĐẤNG AĂÂ LÀ AI ?

Đạo-sử Xây bàn của Bà Hương-Hiếu xác nhận:

“Nhớ lại hồi hạ tuần tháng bảy năm Ất Sửu (1925) ba Ông: Cư, Tắc, Sang thỉnh bàn ra (lúc này hơi in như say Đạo) ba Ông tính cầu Cô Đoàn-ngọc-Quế về dạy thi văn, ba Ông để tay lên bàn thì bàn dở hổng lên có một Ông giáng, tôi hỏi tên gì ?

Thật rất lạ-lùng xưng là AĂÂ, vì khi Ngài đến, Ngài gõ ba cái, chúng tôi theo cách tính xây bàn: hễ gõ một cái là A, gõ hai cái thì Ă, gõ ba cái thì Â. Đấng AĂÂ duy chỉ dạy Đạo và vấn nạn mà thôi. Khi xưng tên là AĂÂ, chúng tôi hỏi nữa thì Đấng AĂÂ không nói gì hết (sau Đức Ngài mới xưng danh là Đức Chí-Tôn)."

 

D- Tam giáo thất kỳ truyền:

Đạo Cao-Đài hôm nay phải xuất hiện, theo như lời Đức Hộ-Pháp nói, chính là do:

“Tôn-giáo thất-kỳ-truyền: Nho, Thích, Đạo, hiện nay đã trở nên phàm-giáo, chư Đệ-tử trong ba nhà Đạo không giữ giới-luật qui điều, canh-cải chơn-truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho Tam-giáo biến thành dị hợm.

- Đệ-tử nhà Đạo, chẳng tùng pháp-giáo của Đức Thái-Thượng Lão-Quân. Tuy ở trong nhà Đạo mà tức thị mê-tín dị-đoan.

- Đệ-tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích-Ca, thì đệ-tử nhà Thích dị-đoan mê tín.

- Đệ-tử nhà Nho chẳng thực-hành điều mục của Đức Văn-Tuyên Khổng-Thánh, thì đệ-tử nhà Nho dị-đoan bất chánh.

Tóm lại, hai chữ “Dị-đoan” nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui-giới thể-lệ chơn truyền của Tam giáo.

“Bần-Đạo tìm hiểu Nho-phong ta đoạt đặng hay đã có trước, chúng ta thấy nòi giống Việt Thường này là con cháu nước Lỗ, mà Nho-Tông xuất-hiện cũng ở nước Lỗ, nói rằng giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho-Tông của chúng ta vi chủ. Nói vi-chủ tức là của mình, nếu có Đạo Nho sẵn trước thì ta có Đạo Nho, Đạo Lão, Đạo Phật. Ba nền Tôn-giáo mà mặt điạ-cầu này cho là trọng yếu, bất kỳ là sắc dân nào hay liệt quốc nào cũng đều nhìn-nhận là do trong xứ Á-Đông này."

 

E- Biểu hiệu của Đạo Cao-Đài là: CỜ TAM THANH

 
   

Tức là cờ Đạo:

Nền Đạo mới này có Danh hiệu là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, nói tắt là Đạo Cao Đài. Thế nên phần trên hết của cây cờ đề 6 chữ bằng chữ Nho 大 道 三 期 普 渡 chứng tỏ là thời-kỳ Nho Tông Chuyển thế. Hội Thánh Cao Đài đặt địa điểm trung ương tại Tòa Thánh Tây Ninh. Biểu tượng của Đạo Cao-Đài là thờ Thánh Tượng Thiên Nhãn tức nhiên là thờ con mắt Trời là “Con Mắt trái”.

Huy hiệu tượng trưng cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là hình 3 cổ pháp:

- Bình Bát vu ( tượng Thích giáo)

- Cây Phất chủ ( tượng Lão giáo)

- Quyển Xuân Thu (tượng Nho giáo)

Đạo kỳ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Tam Thanh:

- Màu vàng biểu hiệu Thái Thanh, tượng trưng Phật giáo.

- Màu xanh (xanh da trời) biểu hiệu Thượng Thanh, tượng trưng Tiên giáo.

- Màu đỏ biểu hiệu Ngọc Thanh, tượng trưng Thánh giáo.

 

 

F- Cách thờ phượng và cúng kiếng:

Thờ: Thiên Nhãn Thầy hình “Con Mắt trái”

Cúng phẩm:

- Bông chỉ về Tinh,

- Rượu chỉ về Khí,

- Trà chỉ về Thần.

Tinh, Khí, Thần là Tam bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.

GIÁO LÝ - TÔN CHỈ và MỤC ĐÍCH

Giáo lý của Đại-Đạo là tinh ba của giáo lý Tam giáo (Thích, Đạo, Nho) và của Ngũ chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh-đạo, Tiên-đạo, Phật-đạo) để hoằng dương chánh pháp.

Tôn chỉ là cầu xin cứu rỗi các chơn linh khỏi sa đọa hồng trần.

Mục đích là giáo hóa nhơn sanh, lập Đại-đồng huynh đệ. Như Đức Hộ-Pháp đã nói:

“Giữa thế kỷ 20 nầy cả tinh thần toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy bị thuyết duy vật đã làm cho họ điên đảo cả tâm hồn, nếu Bần Đạo không nói rằng: Nhơn loại trong buổi nầy nếu không bị thống khổ về tâm hồn thì không buổi nào đã có Đức Chí-Tôn đến; cũng vì lẽ nhơn loại thống khổ ấy Ngài đến lấy Quốc Đạo của toàn thể mấy Em, của Tổ Phụ mấy Em để lại tức nhiên là Đạo Nho đó vậy.

Thật, Bần Đạo không có ngờ một văn hiến, một phong hóa cổ truyền quí hóa Tổ Phụ mấy Em đã để lại cho mấy Em, ngày hôm nay nó trở thành một cái báu vô giá cho nhơn loại. Thật, Qua không có buổi nào tưởng đến, rồi về phần tâm hồn, về phần trí thức tức nhiên phần hồn của nhơn loại.

Bần Đạo tưởng Đức Chí Tôn đã đến cho nhơn loại một huờn thuốc phục sinh của họ do nơi kho vô tận Tổ Phụ của mấy Em để lại tức nhiên Đức Chí-Tôn đến lấy Nho-Tông đặng Chuyển thế, ngoài ra nữa Đại Từ Phụ lại lập Hội Thánh.

Hôm nay Bần Đạo đứng đây nói rõ Hội Thánh của Ngài là gì?

Bần Đạo đã nói rằng: Vì nhơn loại thống khổ nên Đức Chí Tôn đã đến đặng chia khổ cùng con cái của Ngài. Hội Thánh đến thay thế hình ảnh xác thân của Ngài, chung khổ cùng con cái của Ngài lẽ dĩ nhiên là vậy. Biểu sao Ngài không giao Hội Thánh của Ngài? Nhứt là từ ban sơ tới giờ. Bần Đạo là người biết điều ấy hơn hết. Ngài giao cái cơ cứu khổ cho con cái của Ngài thay thế hình ảnh cho Ngài đặng chia khổ cùng con cái của Ngài.

Thầy đã nói: Dưới bóng cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong, cả Cơ Quan Chánh-Trị-Đạo, Bần Đạo đã đào tạo sứ mạng trọng yếu hơn hết là làm thế nào cho mấy Em hưởng đặng hạnh phúc giảm khổ. Qua nói thật, có chứng Ngài Trần Khai Pháp ngồi đây: Qua buổi nọ Đạo đương nghèo khổ hèn tiện bị mọi nỗi áp bức khó khăn, biết phận hèn hạ Bần Đạo để cả tiếng nói ngay cùng Chánh-Phủ Pháp rằng: Ngày giờ nào toàn thể con cái Đức Chí Tôn, Đạo còn nghèo khổ thì ngày giờ ấy Bần Đạo không biết tội tình gì khác hơn là làm cho họ sống với mọi nỗi vinh quang hạnh phúc. Mấy Em trong buổi nghèo khổ kia thấy bắt gió nắn hình mà Bần Đạo còn cố làm thay, huống chi hôm nay đã chung về ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn, tức nhiên ngồi nơi Đền Thánh, chung vào trong lòng yêu ái của Ngài, phận sự của chúng Qua bảo vệ sự sống của mấy Em cho đặng hạnh phúc là phận sự trọng yếu của cả Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài đó vậy”.

 

G- Phương giải khổ của Đạo Cao-Đài

Ngài đến bồng nhơn-loại vào tay ru rằng: “Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo chớ không phải của Thầy! Khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn là:

- Đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn,

- Thống nhất nhơn-loại,

- Nhìn nhau là anh em máu thịt, cùng một căn-bổn cội nguồn hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn ti nhau: kẻ trên không áp-chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không biệt, mực thước tâm-hồn nhơn-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng.

 

H- HỆ THỐNG TỔ CHỨC HỘI THÁNH

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gồm có 3 Đài tượng trưng hình thể Đại-Đạo tại thế.

- Hiệp-Thiên-Đài: thể hiện chơn thần thuộc Khí.

- Cửu Trùng Đài: thể hiện cơ thể thuộc Tinh.

- Bát Quái Đài: thể hiện linh hồn thuộc Thần.

1- Hiệp-Thiên-Đài.

Hiệp-Thiên-Đài là cơ quan lập pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức Thượng-Đế và các Đấng thiêng liêng bằng Cơ Bút do Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài phò loan để tiếp các Thánh ngôn và luật pháp Đạo của các Đấng thiêng liêng giảng dạy.

Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài gồm các Chức sắc Thiên phong theo phẩm trật sau đây:

- 1 phẩm Hộ-Pháp Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài và bảo hộ luật Đời và luật Đạo.

- 1 vị Thượng-Phẩm lo về mấy Thánh Thất và Tịnh Thất.

- 1 vị Thượng-Sanh lo về phần đời.

- 12 vị Thời Quân thuộc 3 Chi: Pháp, Đạo, Thế, đặt dưới quyền hành sự của Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh.

2- Cửu Trùng Đài

Cửu-Trùng-Đài là cơ quan Hành-chánh của Đạo. Hội-Thánh Cửu Trùng Đài gồm các Chức sắc Thiên phong theo các phẩm trật sau đây:

NAM PHÁI

- 1 phẩm Giáo-Tông, lãnh đạo tối cao toàn Đạo, có phận sự dìu dắt Đạo hữu trong đường Đạo và đường Đời.

- 3 vị Chưởng Pháp, lãnh nhiệm vụ nghiên cứu luật pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo.

- 3 vị Đầu Sư, cầm quyền chánh trị đạo, ban hành luật pháp Đạo.

- 36 vị Phối Sư, có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư cai trị Đạo.

- 72 vị Giáo Sư, có phận sự dạy dỗ Đạo hữu trong đường Đạo và đường đời, được quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh hay là cầu xin chế giảm luật lệ

- 3000 Giáo Hữu chia đều mỗi phái 1000 vị, chẳng tăng thêm hay là giảm bớt, lãnh phận sự phổ thông Chơn đạo.

- Lễ Sanh, không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín đồ

NỮ-PHÁI

Đặc biệt Chức Sắc Nữ phái thì từ phẩm Đầu-sư trở xuống, quyền hành cũng y như Nam-phái, nhưng chỉ điều hành Nữ-phái mà thôi. Đầu-sư Nữ phái thì tuỳ thuộc vào Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Nữ phái không giới hạn về con số cho mỗi phẩm, nghĩa là bao nhiêu cũng được do tài đức công quả.

Sau cùng là Hội-Thánh Em tức là Bàn Trị Sự, có bổn phận sinh hoạt Đạo sự trong mỗi Địa phận làng xã.

 

I- Cao-Đài qui Tam giáo hiệp ngũ chi:

Vào thời Trung nguơn, nhơn-sanh mỗi ngày càng thêm nhiều xu-hướng về vật chất nên Ơn Trên mới phái bốn vị Đại Thánh-nhân đến khai sáng cho nhơn tâm, đó là:

- Đức Thích-Ca Mâu-Ni mở Đạo Phật.

- Đức Lão-Tử mở Đạo Tiên.

- Đức Thánh Khổng-Phu-Tử mở Đạo Thánh.

Thánh nơi Đông-phương gọi là Thánh Ta

Sau cùng con một Đức Chúa Trời là Đức Chúa Jésus-Christ. Thánh nơi phương Tây gọi là Thánh Tây. Thế nên cả hai vị Giáo-Chủ này là Thánh đạo.

Bốn vị Giáo chủ nhưng thật ra là Chưởng-giáo của ba Tôn giáo chánh yếu trên mặt địa cầu này..

Thầy dạy:

“Nơi Bạch-Ngọc-Kinh hơn sáu chục năm trước chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy, nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời.

Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?

Các con có cả ba Chánh Ðạo là Tam-Giáo các con biết tôn trọng; ngày nay lại thêm Chánh Ðạo nữa, các con biết ít nước nào đặng vậy?

Bị hàng phẩm NHƠN-TƯỚC phải phù-hạp với hàng phẩm THIÊN-TƯỚC, đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phận bần-hàn mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy.

Thầy nói cho các con biết:

Dầu một vị Ðại-La-Thiên-Ðế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng”. ( 27- 8 Bính-Dần 1926)

Nay thời-kỳ của Đại-Đạo, tức là qua thời của Tứ tượng biến hoá, là con số 4 cũng có nghĩa là 1+3, tức là do lý Thái Cực điều-hành với ba ngôi vạn hữu, nên hễ đến 4 là biến hóa ra rồi. Thầy đến để mở ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ Tam giáo Qui nguyên Ngũ chi phục nhứt. Ngôi của Thầy là chúa tể Càn khôn thế giái.

 

J- Cao-Đài là nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu

Nhắc lại: Bấy giờ là một tối thứ bảy, nhằm lối thượng tuần tháng 8 năm 1925, ba Ông CƯ, TẮC, SANG đem bàn ra sân đốt nhang khấn-vái và mời các vị Tiên Nương ở Diêu-Trì-Cung.

Hôm nay có Tiên-cô Đoàn-Ngọc-Quế giáng, đàm luận một hồi, rồi ba Ông lại xin kết làm huynh-muội với Đấng Nữ-Tiên, Thất-Nương bằng lòng, bèn kỉnh:

  * Ông Cao-Quỳnh-Cư làm Trưởng-ca ▬▬
  * Ông Phạm-Công-Tắc làm Nhị-ca ▬▬
  * Ông Cao-Hoài-Sang làm Tam-ca ▬▬

Nếu mỗi vị được biểu-tượng một vạch như vầy sẽ có được một quẻ CÀN (Nam, đó là nét dương, biểu thị bằng vạch liền ▬▬)

Còn Cô là Tứ muội (Nữ, tượng bằng một nét âm ▬ ▬, vạch đứt nếu đặt xổ xuống xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG 王 Đây chính là tên thật của Thất-Nương VƯƠNG-THỊ LỄ 王 氏 禮 còn cái tên Đoàn Ngọc-Quế là một giả danh.

Phải chăng Đấng Thượng-Đế đã sắp đặt cho Diêu Trì-Cung đến để báo trước cho ba Ông biết rằng Thượng-Đế sắp giao cho mối Đạo nhà là một nền Vương Đạo, lấy LỄ làm đầu, tức nhiên nền Đại-Đạo ngày nay Đức Chí Tôn dùng Nho-Tông chuyển thế:

Phật pháp khuyến nhơn qui mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.

►Xem tiếp CHƯƠNG 03 >>>>>

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009