
SỐ 0
Số 0 ấy là cơ quan Hư-vô bổn thể.
Số 0 là con số vô thủy, tức là không có chi trước nó hết. Nó là số Chúa của chúa cả vạn-vật. Chính trong không mà sinh ra vạn hữu, nên nó hợp với số nào thì làm cho số đó tăng tiến thêm lên. Nó là cái vòng bao bọc tượng-trưng chủ cả cái hữu-vi vạn-vật này.
Số 0 là số vô-vi, nó có tính-chất trung-tính, nhiệm yếu, hiền-hòa, sáng-suốt.
Vật mang số 0 là vật trung-dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số 0 là người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều.
Số 0 chỉ năng-lực tiềm-ẩn nhưng chưa phát-triển đúng mức. Nhưng khi một vật chi được thử về 0, ấy về lẽ Đạo; nhưng qui cơ tịnh-lặng hoàn-toàn, được gặp nhiều chân phúc quí báu“Không không ấy thiệt lý trường sanh”.
Phép bói toán tính đến 0 là số rốt ráo vẹn toàn, viên mãn. Rồi 0 sẽ biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể.
Số 0 sẽ là cơ khởi đầu cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai đầu tấn-hóa và qui nguyên nó ở giữa làm mấu chốt.
Số 0 vốn gồm nhiều cơ bí-mật cần phải tìm phương giải đáp. Số 0 chỉ vật cực đại như vũ-trụ bao la vô cùng tận mà không chi ở ngoài nó; đồng thời chỉ vào một vật cực tiểu cũng không vật chi chứa đựng bên trong nó được.” Từ trong hư vô bổn thể mới sanh ra Thái-cực là 1.
1- Hư vô là gì?
Vạn vật trong càn khôn vũ trụ chỉ có một lý duy nhất gọi là Hư-vô, Hư-vô mới chuyển biến một phẩm tối linh nguyên thuỷ là Thái-cực tức là Thầy, Thầy lại phân tánh ra hai lý đối nghịch lẫn nhau: tương khắc, tương hoà, tương sanh, tương diệt…Lý ấy là Âm với Dương theo danh từ Nho-gia thường gọi. Nếu gọi theo nguyên thuỷ của nó thì là lý Đơn nhất Thái cực.
Thái-cực là chủ tể tất cả vạn hữu thường tồn bất diệt. Thái-cực mới chiết tánh ra Pháp, tức Phật-Mẫu mà tạo cơ hữu tướng. Nhưng lý Thái-cực rất vô biên huyền diệu nhiệm-mầu. Khi chưa tạo Càn khôn thì chẳng có chi tất cả. Thái-cực mới xoay lộn vòng tròn trong khí Hư-vô. Rồi vì cái xoay lộn ấy mà do một Huyền vi mầu nhiệm tối đại tối linh: Thái cực mới cọ xác với khí thể bên ngoài mới biến sanh nhứt thể là Pháp như Thầy đã nói. Cái lý này thật mầu nhiệm vi diệu lắm, khó mong diễn tả.
Tại sao vô cực biến Thái cực? Rồi Thái cực sanh ra Pháp để cùng pháp biến tướng ra hằng hà sa số thiệt là điều mầu nhiệm tối linh. Phải khá tìm cho ra chánh lý.
Bây giờ duy nói Thái cực biến tướng như thế nào.
Trước hết Thái-cực sanh tâm, tức là ở trạng thái tĩnh biến sang trạng thái động do sự vận chuyển của Khí Hư-vô mà tạo thành Pháp. Hai lý Phật Pháp mới biến sanh Tăng đó là điều dễ hiểu. Phật Pháp Tăng đã có mới biến hằng hà sa số vô tận vô biên, nhưng tất cả đều ở lý duy nhất là Thái-cực. Vì vậy Đạo gia mới nói “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản” là vậy đó. Vạn vật biến sanh do định luật đã sẵn có để nương theo đó mà hoá sanh cũng chẳng lạ gì là lẽ “Thành, trụ, hoại, không” năng hiệp, năng tan. Nhưng trong những lần hiệp và tan đó có một điểm tối linh vi chủ trong đó, luôn tăng tiến mãi không bao giờ diệt. Điểm ấy gọi là điểm Linh quang tương tiếp với Thầy, chẳng khác chi là làn sóng điện nhỏ đối với Thầy là làn sóng điện lớn. Nên chi chúng sanh vừa sanh một niệm là Thầy đã hay biết trước. Cũng do lẽ ấy mà Thầy mới nói: “Thầy là các con, các con là Thầy”. Nghĩa là các con và chư Thần Thánh Tiên Phật đồng một bản thể đầu tiên có nguồn gốc nơi Khí Hư-vô”.
2- Thánh-ngôn Thầy dạy:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn-khôn Thế-Giới thì khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.
Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng, mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật-chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh”
Khí Hư vô tức là hư vô bổn thể là con số 0. Từ 0 lại sanh ngôi Thái-cực tức là số 1. Rồi từ đó mới biến-hóa ra. Số 1 là số đầu tiên; nhưng khởi thủy của các số là ở con số 0 là không số (nom Nombre) mà ra. Cái gì tuyệt đối là con không số.
Nguyên-lý:
Đầu tiên, Khí Hư-Vô tức là Hư Vô chi Khí hay còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí.Tuy nhiều danh gọi khác nhau nhưng cùng là một lý duy nhứt là Đạo.
Khí Hư-vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại-Linh-Quang, cũng gọi là Thái-Cực, hoàn-toàn sáng đẹp, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận, quyền hành thống cả Càn khôn vũ-trụ.
Bắt đầu từ đây Vũ-trụ đã xuất hiện ngôi Thái Cực, duy nhứt và Đấng Thống quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ngày nay người Tín-hữu Cao-Đài hân hạnh được xưng tụng Ngài là Đức Chí Tôn, Ngọc-Đế, hoặc là Đại-Từ-Phụ.
3- Lòng Tín ngưỡng phát sinh: Sự cầu nguyện
Dầu người có Tôn giáo hay không có Tôn giáo, có Tìn ngưỡng hay không Tín ngưỡng cũng luôn luôn có ở trong lòng một sự tin tưởng ở Thần quyền, thể hiện bằng sự cầu nguyện.
Giá trị của sự cầu nguyện:
Đức Hộ-Pháp nói tại Báo-Ân-Từ đêm 24 tháng chạp năm Bính Tuất (1947)
“Sự cầu nguyện có cảm ứng với Chánh Trị Thiêng Liêng tức là các Ðấng vô hình đều rõ biết mọi sự hành tàng nơi cõi thế, triết lý về hình thể của con người, thọ tinh cha huyết mẹ sản xuất ra, thì có sự cảm giác thiêng liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bịnh hoạn hay xảy ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt, hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác..v.v... đó là về phần Tinh khí hình thức của con người, còn về phần linh tánh thì do nơi Ðức Chí Tôn ban cho nhứt điểm lương tâm, nó có cảm giác cùng Chí Linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành tâm cầu nguyện.
Nền Ðạo là một điều cảm ứng rất mầu nhiệm vô cùng, có câu: “Nhơn tâm sanh nhứt niệm, Thiên địa tất giai tri”. Từ đây chư Chức Sắc và Chức Việc cùng Ðạo Hữu nam, nữ gắng thành tâm cầu nguyện cho nền Ðạo và cơ Ðời được an ninh trật tự, kể từ ngày nay cho đến Tân Xuân đầu năm Ðinh Hợi thì sẽ thấy sự tiến hóa phi thường và huyền linh mầu nhiệm, nếu toàn cả quốc dân mà đủ lòng tín nhiệm với quyền hành Chánh Trị Thiêng Liêng, hiệp nhứt tâm cầu nguyện, thì cơ loạn lạc sẽ trở nên an ninh trật tự, Ðời sẽ được cộng hòa chung hưởng mọi điều hạnh phúc..”
Hộ-Pháp Cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam- Tạng đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ.
Đêm 22 tháng 02 năm Kỷ-Sửu (21-03-1949)
“Bần-Đạo có những điều trọng-yếu căn dặn: Từ ngày Bần-Đạo giảng cái Bí-pháp ấy, Bần-Đạo vẫn cầu nguyện với Đức Chí-Tôn luôn, bởi vì nó có nhiều điều khó-khăn, những điều mà mình ngó thấy bằng con mắt Thần, lấy cái nhân-khẩu của mình mà tả chẳng hề khi nào đúng chắc đặng. Bần-Đạo thú thật rằng mười phần có lẽ Bần-Đạo tả đặng năm hay bảy phần là nhiều, sợ còn kém hơn nữa.
Bần-Đạo chỉ có Cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam-Tạng đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người Tàu mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch ra rất khó lắm, lấy cả Kinh-Luật trong tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm, cho nên Ngài đại nguyện: Ngài làm thế nào Ngài rán sức, Ngài âm tiếng Phạn ấy ra chữ Nho. Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa đúng, Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu, nếu trong Kinh-luật Đạo giáo mà tôi không minh-tả ra đặng thì khi chết cho cái lưỡi tôi đen, nếu tôi tả trọn vẹn thì cho cái lưỡi tôi đỏ.
May phước Bắc-Tông được hưởng một ân-huệ của nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng, khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ, vì cớ mà Chơn-giáo của nhà Phật là Bắc-Tông có thể nhờ Đức Tam-Tạng đã minh-tả ra trọn vẹn.
Ngày nay Bần-Đạo mỗi phen lên giảng về Bí pháp thì cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn cho sáng-suốt, mà biết vẫn còn thiếu kém không thể gì tả bằng con mắt Thần của mình đã ngó thấy đặng trọn một bài.
Nếu thoảng như Đức Chí-Tôn ban ân riêng trong nền Thánh-Giáo của Ngài có cả Thánh-Thể của Ngài đoạt Pháp đặng, thấy đặng, có lẽ cũng chỉnh thêm, giùm giúp tay với Bần-Đạo mới toàn-thiện toàn-mỹ đặng”.
 |
|
(H..49) Thiên nhãn trên Quả Càn khôn |

►Xem tiếp >>>>>