DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương IV:

 
 
  1. 12 Thiên-Tử-Quái
  2. Thập Nhị Thời quân ứng với 12 Thời Thần
    1. Thập Nhị Thời quân là gì?
    2. Thập Nhị Thời Quân dưới quyền Hiệp-Thiên-Đài
    3. Thập Nhị Thời quân ứng với 12 Thời Thần
    4. Sự ứng hợp giữa Thời quân và Thời Thần thế nào?
    5. Trọng yếu là thâu mấy vị Tông đồ
    6. Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài qui định
    7. Số 12 thành hình do 9+3
    8. Quyền hành Hộ-Pháp
    9. Vấn đề xung khắc kỵ hạp
    10. Chơn pháp của Đại-Đạo
  3. Kết luận về Quẻ biến
  4. Tứ tượng và sự vận hành biến hoá, sinh trưởng thu Tàng trong trời đất
  5. Cơ đạo có 12 Thời-quân bên cạnh có 12 Bảo-quân, họp lại cũng như 24 tiết khí vậy
  6. Lý biến hoá: Thể-pháp trong nền Đại-Đạo
    1. Ý nghĩa 23 Thiên Nhãn chung quanh Đền-Thánh
    2. Luận Đạo về y lý
    3. Phương thức trang trí về hình thể cũng từ trong “Bát-quái biến hoá toàn đồ” này mà ra

A- 12 THIÊN-TỬ QUÁI

12 Quẻ bên ngoài vòng tròn của “Bát-quái biến hoá toàn đồ” ứng với 12 tháng.

ĐỒ HÌNH 12 THIÊN TỬ QUÁI

12 tháng : Khởi từ tháng Tý là quẻ Phục có 1 Dương sinh

Quẻ (Phục) Tháng 11 (Tý)

Quẻ (Lâm) Tháng 12 (Sửu)

Quẻ  (Thái) Tháng giêng (Dần).

Quẻ (Đại tráng) Tháng 2 (Mẹo)

Quẻ (Quải) Tháng 3 (Thìn)

Quẻ (Kiền) Tháng 4 (Tỵ)

Quẻ (Cấu) Tháng 5 (Ngọ)

Quẻ (Độn) Tháng 6 (Mùi)

Quẻ (Bĩ) Tháng 7 (Thân)

Quẻ (Quán) Tháng 8 (Dậu)

Quẻ (Bác) Tháng 9 (Tuất)

Quẻ (Khôn) Tháng 10 (Hợi)

   

“Thiên tử quái” có nghĩa rằng 12 quẻ là vua, tức là 12 quẻ chính yếu trong số 64 quẻ kép vừa bàn qua ở trên.

Thật ra, nếu không khai triển được “Bát-Quái biến hoá toàn đồ” này sẽ không biết căn nguyên nào mà có tên 12 quẻ lấy làm biểu tượng cho 12 tháng trong năm.

Thì đây, qua Đồ hình trên thấy tất cả các biệt số hầu hết đều ở trong vòng tròn và nằm trên một vị trí cố định của nó, tức nhiên các số này luôn luôn đặt trên các giao điểm: hoặc cạnh của tam giác với một cạnh của hình vuông…(sẽ bàn chi tiết sau) để luôn được thích ứng, nghĩa là hai số đối qua tâm phải cộng ra thành số là 99.

12 số nằm trên chu vi vòng tròn chính là 12 Thiên tử-quái tức là 12 quẻ chính yếu, các quẻ này đối qua tâm cũng có thành số 99 như các quẻ khác vậy. Những quẻ này ứng với 12 điểm thời gian (gọi là thập nhị thời Thần) có tên là Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Thánh nhân đã tìm ra 12 quẻ chính yếu này để làm đại diện, biểu tượng cho 12 tháng trong năm, đây là trong số 64 quẻ kép của Dịch.

Người Đông phương thường dùng ngày tháng Âm lịch hơn trong việc tính tuổi tác, dựng vợ gã chồng cho con cái, cất nhà, động đất… Tôn giáo Cao-Đài lại càng dùng ngày tháng Âm lịch trong các cuộc cúng vía, đàn lệ, ngày kỹ niệm của các bậc tiền bối hằng năm. Riêng ngày tháng Dương-lịch chỉ dùng trong những việc làm có liên quan đến việc hành-chánh của đời hoặc giao dịch trong công việc ngoài đời, thường thôi.

Âm-lịch là một thứ lịch chuyên căn cứ vào sự vận hành của mặt trăng xoay quanh theo trái đất mà Thánh nhân trước đây đã làm ra lịch. Theo lịch này thì một năm có 12 tháng, một tháng có 30 ngày (nhưng còn theo trăng tròn khuyết mà có tháng chỉ 29 ngày thôi, gọi là tháng thiếu), một ngày có 24 giờ (12 giờ cho ban ngày, 12 giờ cho ban đêm) và có 12 chi ứng cho từng giờ, ngày, năm, tháng cả đến Thế, Vận, Hội (mỗi chi là 2 giờ đồng hồ).

Mười hai chi đó gọi là Thập nhị địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tức nhiên khởi là Tý và cuối cùng là Hợi.

Ngoài ra còn có Thập Thiên Can phối hợp với Thập Nhị Địa chi, tức là một cặp Âm Dương, đó là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Sự phối trí này hết sức khít khao và có một giá trị siêu khoa học mà môn Thiên văn học không thể thiếu. Trong phạm vi một bài viết chỉ bàn về 12 Thiên tử quái nên rất hạn chế, xin chỉ nói về cái thời gian tiêu biểu của các quẻ kép do Bát Quái biến hoá. 12 quẻ này chủ về 12 Khí nên có tên là “12 Thiên tử quái”.

Tuy là 12 chánh quái nhưng tính cách quan trọng của mỗi quẻ có khác nhau, ở đây chỉ muốn nói lên những ngày Lễ Vía quan trọng trong Đạo Cao-Đài mà thôi.

Trong một năm thì:

  Cung TÝ thuộc quẻ PHỤC (Địa Lôi Phục) nhất Dương sinh ở hào Sơ. Tiết Đông-chí. Tháng 11.
  Cung SỬU thuộc quẻ LÂM (Địa Trach Lâm) bấy giờ hai hào Dương lấn 4 hào Âm ra ngoài. Tiết Đại hàn. Tháng 12.
  Cung DẦN thuộc quẻ THÁI (Địa Thiên Thái) bấy giờ ba hào Dương đã chiếm phần nội quái. Âm Dương được bình phân, khởi đầu mùa Xuân. Tiết Vũ-Thuỷ. Tháng giêng (1)
  Cung MẸO thuộc quẻ Đại-Tráng (Lôi Thiên Đại Tráng) nhằm vào tháng 2 Cung Mão (Mẹo) nên gọi là tháng Kiến Mão, bấy giờ Dương khí bắt đầu lấn áp Âm khí. Âm chỉ còn hai hào ở ngoại quái mà thôi. Dương khí đã đến hồi sơ thịnh. Xuân đã đến giữa mùa Xuân, nhằm Tiết Xuân phân. Tháng hai.
  Cung THÌN thuộc quẻ QUẢI (Quyết) Trạch Thiên Quyết. Hào Dương đã đến ngôi Cửu Ngũ, tức là hào thứ năm, lấn áp hào Âm đến mức cùng, chông chênh ở Thượng Lục, thuộc về cuối Xuân qua Hạ. Tiết Cốc Vũ. Tháng ba.
  Cung TỴ thuộc quẻ KIỀN (Bát thuần Kiền) bấy giờ Âm đã hết, Dương khí đã đến hồi cực thịnh. Cùng tắc biến. Hễ Dương cực thì Âm sinh, vào tháng tư và bắt đầu mùa Hạ. Tiết Tiểu-mãng.
  Đây là giai đoạn THỊNH của chu kỳ biện chứng.
  Cung NGỌ thuộc quẻ CẤU (Thiên Phong Cấu) bấy giờ là Tiết Hạ chí. Tháng năm. Đây là Dương khí đến hồi biến, Âm khí đã bắt đầu sinh ở nội quái như quẻ Phục ở cung Tý, nhất dương sinh. Đây, Quẻ Cấu ở cung Ngọ, nhất Âm sinh, thường ở ngay trục Bắc Nam, chỗ Âm Dương giao tiếp. Nếu Tý tháng 11 thuộc tiết Đông chí thì Ngọ tháng 5 thuộc tiết Hạ chí.
  Cung MÙI thuộc quẻ ĐỘN (Thiên sơn Độn) bấy giờ ở vào cuối Hạ. Tiết Đại thử. Tháng 6. Hai hào Âm ở nội quái đã lấn Dương khí chỉ còn có một hào ở hào Cửu Tam quẻ Cấn. Dương tiêu Âm trưởng, tượng cho giai đoạn SUY của chu kỳ biện chứng.
  Cung THÂN thuộc quẻ BĨ bấy giờ là Tiết Xử thử. Tháng 7. Âm Dương bình phân, nhưng Âm thắng Dương, Âm khí ở nội quái lấn Dương khí ở ngoại quái ra ngoài.
  Cung DẬU thuộc quẻ QUÁN (Quan) Phong Địa Quan bấy giờ Tiết Thu phân. Tháng 8 (Đối lập với Dậu là Mẹo thuộc quẻ Đại-Tráng)
  Cung TUẤT thuộc quẻ BÁC (Sơn Địa Bác) Âm khí đã đến hồi cực thịnh, Dương khí sắp bị huỷ diệt. Âm cực trưởng, Dương cực tiêu. Tiết Sương giáng. Tháng chín.
  Cung HỢI thuộc quẻ KHÔN (Bát thuần Khôn) thuộc Âm. Tiết Tiểu tuyết. Tháng 10.

Âm cực dọn đường cho Dương sinh lại ở quẻ Phục. Cứ theo một vòng tròn nối tiếp nhau không đầu mối.

Đây là một chu kỳ biện chứng đầy đủ, nhưng rồi chưa xong đó là VỊ-TẾ, cũng như Bác qua rồi Phục đến. Dương khí lại phục sinh, vòng sinh sinh tử tử vô cùng tận. Dịch nói rằng “Sinh sinh chi vị Dịch”.

Tóm lại:

Trên đây là bản đồ ghi rõ 12 tháng trong một năm, mỗi tháng ứng vào một Cung. Phân ra hai bên:Âm Dương:

- Khởi ở Tý là tháng 11 là quẻ Phục (Địa Lôi Phục).

- Tháng Sửu là tháng12 ứng quẻ Lâm (Địa Trạch Lâm).

- Tháng1 (giêng) Dần, ứng vào quẻ Thái (Địa Thiên Thái).

- Tháng 2 là Mẹo ứng quẻ Đại-Tráng (Lôi Thiên Đại-Tráng)

- Tháng 3 là Thìn ứng quẻ Quyết (hay Quải) (Trạch Thiên Quyết)

- Tháng 4 là Tỵ ứng vào quẻ Kiền (Bát thuần Kiền)

Dương bắt đầu thăng từ 1 Dương ở quẻ Phục tiến dần đến khi thuần Dương ở quẻ Kiền có 6 hào Dương. Đây là Dương tiến, thì Âm thoái tức là Âm tiêu Dương trưởng, nghĩa là Âm lui dần.

- Tháng 5 là Ngọ ứng vào quẻ Cấu (Thiên Phong Cấu)

- Tháng 6 là Mùi ứng vào quẻ Độn (Thiên Sơn Độn)

- Tháng 7 là Thân ứng vào quẻ Bĩ (Thiên Địa Bĩ)

- Tháng 8 là Dậu ứng vào quẻ Quán (Phong Địa Quán)

- Tháng 9 là Tuất ứng quẻ Bác (Sơn Địa Bác)

- Tháng10 là Hợi ứng với quẻ Khôn (Bát Thuần Khôn)

Với 6 quẻ của 6 tháng sau từ quẻ Cấu trở đi thì Âm xuất hiện. Quẻ Cấu có một Âm ở dưới tiến dần lên đến Khôn là hoàn-toàn Âm, Ấy là Âm trưởng thì Dương tiêu.

Dịch gọi Âm là Tiểu-nhân, Dương là Quân-tử.

Ví dụ:

Luận về Quẻ Đại-Tráng thuộc tháng 2 trong chu-kỳ 12 tháng của một năm.

Đại-tráng là quẻ đảo của quẻ Độn

Tức nhiên Đại-tráng có 4 hào Dương ở dưới đẩy lần 2 hào Âm ở trên ngày càng ra xa, cho nên nói quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu. là vậy.(Hai quẻ này là một cặp Âm Dương cũng như ngày và đêm )

Trái lại, quẻ Độn dù có 2 Âm ở dưới nhưng sẽ đẩy lùi 4 Dương càng xa dần để chiếm toàn bộ là Âm. Đây là tiểu nhân đạo trưởng, quân-tử đạo tiêu.

Trong 12 tháng của 12 Thiên-tử quái thì Đại-Tráng nằm vào tháng 2 nhằm Cung Mẹo (hay Mão) nên gọi là tháng Kiến Mão cho nên Tiểu-nhân phải lui đi, trốn tránh đi vậy. Nhưng khi đã trốn tránh cùng cực thì có lúc hiện ra và lớn lên. Bởi Bĩ cực Thái lai, Âm cực thì Dương sinh. Khi Dương đã sinh thì ngày càng lớn mạnh lên soi tỏ muôn vật và lấn át cả hào Âm đến lúc chỉ còn toàn hào Dương.

Bởi mỗi một chu kỳ có khác nhau, vì khác nhau nên luôn có sự thạnh, suy, bĩ, thái trong đời. Thế nên người biết được lẽ tiến thoái, tồn vong, dinh hư tiêu trưởng mà không buồn trước sự biến đổi của đất trời bởi vì đã rõ biết về sự chi phối trong định luật ấy. Đó là luật định của Càn khôn vũ-trụ mà người hiểu biết có khác hơn người không biết là chỗ đó. Sự thuận thiên an mệnh chính là chỗ hiểu biết nên tâm thân lúc nào cũng nhàn lạc.

Hiện tại những nước siêu cường như Mỹ quốc chẳng hạn, văn minh như vậy sao không thể tránh được thiên tai như động đất, núi lửa, bão lụt, cháy rừng, sóng thần chẳng hạn?

Đó là định luật của hoá công dầu tin hay không tin sự việc cũng vẫn đến, giống như không khí, dầu người biết cũng thở, mà người không biết cũng hít thở không khí ấy.

Nhận xét:

1- Dương trưởng Âm tiêu:

Với 6 quẻ của 6 tháng trước, khởi từ quẻ:

- PHỤC có 1 dương, thuộc tháng 11, quản hội .

- LÂM có 2 dương sanh, thuộc tháng 12, hội Sửu

- THÁI có 3 dương sanh, tháng 1(giêng) hội Dần.

- ĐẠI TRÁNG có 4 dương sanh, tháng 2, Mẹo.

- QUẢI có 5 dương sanh, thuộc tháng 3, Thìn.

- KIỀN có 6 dương (toàn Dương) tháng 4, Tỵ.

Đây là dương trưởng, làm tiêu dần hết các hào Âm

2- Âm trưởng dương tiêu:

Với 6 quẻ của 6 tháng sau từ quẻ Cấu trở đi thì Âm

xuất hiện. Quẻ Cấu có một Âm ở dưới tiến dần lên đến Khôn là hoàn-toàn Âm, Ấy là Âm trưởng thì Dương tiêu.

Dịch gọi Âm là Tiểu-nhân, Dương là thời của Quân-tử.

- CẤU có 1 Âm sinh, thuộc tháng 5, hội Ngọ.

- ĐỘN có 2 Âm sinh, thuộc tháng 6, hội Mùi.

- BĨ có ba Âm sinh, thuộc tháng 7, hội Thân.

- QUÁN có bốn Âm sinh, thuộc tháng 8, hội Dậu.

- BÁC có năm Âm sinh, thuộc tháng 9, hội Tuất.

- KHÔN hoàn toàn Âm sinh, tháng 10, hội Hợi.

3- 12 quẻ xuyên tâm đối cọng lại là 99:

Đặc biệt là 12 quẻ xuyên tâm đối nếu ta cộng lại sẽ có một tổng số là 99. Ví như:

Trục ngang: Quẻ 81, Địa Thiên Thái (Khôn vi Địa số 8, Càn vi thiên số 1) cộng với Quẻ 18, Thiên Địa là 99.

Trục đứng: Quẻ Càn 11+ Khôn 88= 99

Quẻ 15, Thiên phong Cấu 15+ Phục 84= 99

Quẻ 17, Thiên Sơn Độn + Lâm 82= 99

Quẻ 58, Phong Địa Quán + Đại Tráng 41=99

Quẻ 78, Sơn Địa Bác + Quải 21 = 99

Thí-dụ: Thái là thời của Dương, Bĩ là thời của Âm.

 

B- Thập Nhị Thời Quân ứng với 12 Thời Thần

(Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời quân)

Thập Nhị thời Quân thuộc cơ quan Hiệp-Thiên-Đài, mà “Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn”.

“Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp Chưởng quản, tả có Thượng-Sanh, Hữu có Thượng-Phẩm, phần của HỘ PHÁP Chưởng quản về Pháp” (PCT)

(H.34) Thập nhị Thời Quân ứng với Thập Nhị Thời Thần, phân làm ba chi:

- Đức Hộ-Pháp Chưởng quản chi Pháp.

- Đức Thượng-Phẩm Chưởng quản chi Đạo

- Đức Thượng-Sanh chưởng quản Chi Thế

Thập Nhị Thời quân ứng với Thập nhị Thới Thần

Dưới quyền HỘ-PHÁP có 4 vị:

-Tiếp-Pháp - Khai Pháp

- Hiến Pháp - Bảo Pháp

Thượng-Phẩm thì quyền về Đạo, dưới quyền là:

- Tiếp Đạo - Khai Đạo

- Hiến Đạo - Bảo Đạo

Dưới quyền Thượng-Sanh có 4 vị Thời quân chi Thế:

- Tiếp Thế - Khai Thế

- Hiến Thế - Bảo Thế

Cả thảy 12 vị Thời-quân còn gọi là Thập Nhị Chơn quân

Toàn nhân sanh ngưỡng nguyện công đức của các Ngài nên có đàn Vía riêng và dâng sớ cầu nguyện rằng:

NGƯỠNG NGUYỆN:

THẬP NHỊ THỜI QUÂN thể đắc háo sanh Đại đức: Bác-ái, Công-bình, vận chuyển Huyền diệu Thần bút, thường giáng oai linh hộ trì bố hoá chư Đệ-tử trí não quang minh, tinh thần mẫn huệ, thừa kế đại chí bảo thủ chơn truyền, thật hành NHƠN NGHĨA tế độ chúng sanh hiệp đồng chủng tộc, huynh đệ nhứt gia, cộng hưởng thái bình, thanh nhàn hạnh phước.

(Lòng sớ dâng cúng Thập Nhị Thời quân)

Đức Hộ-Pháp nói:

“Nếu Tôi không lầm, Cơ Bút đã cho Tôi biết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản xuất?

– Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời quân, Thập nhị Địa chi tức là cảnh Thiêng liêng vô hình của chúng ta”.

“Ngày nay từ Âu sang Á làn sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn át tinh thần, khiến cho nền luân lý cổ truyền cõi Á-Đông phải luân lạc bởi Hạ ngươn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ với Tôn chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ chi.

- Lấy Nho-Tông Chuyển thế

- Lấy sự Thương-yêu làm phương-pháp thực hành Chánh Đạo.

-Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu căn thoát vòng khổ hải, tránh đoạ luân hồi hầu vui hưởng môt hạnh phúc vĩnh cữu.

Đức Ngài nói tiếp:

“Đức Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ-Độ này gọi là mở Cơ-quan tận độ chúng sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng-liêng-vị nơi cảnh vô hình, mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các Đẳng chơn hồn cần phải thi đoạt vị: thăng hay đoạ.

Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy.

Đức Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí pháp ấy đặng cho vạn linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí-Tôn buổi mới sơ khai, chưa tạo thiên lập địa, Ngài muốn cho vạn linh đặng hiệp cùng Nhứt linh của Ngài do quyền năng sở hữu của quyền hạn Thần linh.

Ngài vừa khởi trong mình quyết định thi hành điều ấy thì Ngài nắm cái PHÁP. Trước Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài, kế thứ nhì là PHÁP. Hễ nắm Pháp rồi Ngài phán đoán vạn vật thành hình, Ngài muốn vạn vật thành hình tức nhiên TĂNG. Cả vạn linh đều đứng trong hàng Tăng. Ấy vậy Pháp là chủ của vạn linh. Bởi do nơi Pháp vạn linh mới chủ tướng biến hình, do nơi Pháp mới sản xuất vạn linh; cả huyền vi hữu hình Đức Chí-Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng ta biết Pháp thuộc về hình thể của vạn linh, vì cớ cho nên Đạo giáo minh tả rõ rệt Tam châu Bát bộ thuộc về quyền Hộ-Pháp “ Tam châu Bát bộ Hộ-Pháp Thiên Tôn” …

…Đức Hộ-Pháp đến cốt yếu đem Bát phẩm Chơn hồn thăng vị nhiều hoặc ít: có thể một đẳng cấp từ vật chất Hộ-Pháp đem lên thảo mộc; Thảo mộc đem lên thú cầm, thú cầm đem lên nhơn loại dĩ chí Phật-vị, Hộ-Pháp có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền ấy Đức Chí Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt; quyền hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi.

Hộ-Pháp và Thập Nhị Thời Quân không phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo nói: đây là quyền Đạo Cao-Đài cả Thiêng-liêng hằng sống."

(ĐHP: 1-9 Kỷ-Sửu)

1- Thập Nhị Thời quân là gì?

Thập Nhị Thời quân là mười hai vị Thánh bên Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền của Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh Chưởng-quản.

“Thập nhị Thời-quân đối với Thập nhị thời Thần. Các chơn-linh đến bực nào cũng phải do nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn Thập nhị thời Thần vào tay rồi mới khai thiên lập địa:

- Thiên khai ư Tý.

- Địa tịch ư Sửu.

- Nhơn sanh ư Dần.

Các chơn-linh dầu nguyên-nhân hay là Hóa nhân, hễ chịu hữu-sanh thì đều nơi tay Thập nhị Thời Quân mà siêu đọa, cũng như Thần, Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập nhị Thời thần mà thăng giáng.

Thập nhị thời quân tức là Thập nhị thời Thần tại thế đó vậy. Thập nhị Thời quân chia ra làm ba chi: Pháp, Đạo, Thế.

Pháp-Chánh-Truyền dạy:

* HỘ-PHÁP chưởng-quản về Pháp (chi PHÁP) dưới quyền có 4 người:

Hậu là Bảo-Pháp (Bảo-pháp Nguyễn Trung Hậu)

Đức là Hiến-Pháp (Hiến-pháp Trương Hữu Đức)

Nghĩa là Khai-Pháp (Khai-Pháp Trần-Duy Nghĩa )

Tràng là Tiếp-Pháp (Tiếp-Pháp Trương văn-Tràng)

Chi PHÁP lo bảo-hộ luật Đạo và luật đời, chẳng ai qua luật mà Hiệp-Thiên-Đài không biết.

* THƯỢNG-PHẨM lo về phần Đạo (chi ĐẠO) dưới quyền có 4 người:

Chương là Bảo-Đạo (Bảo-Đạo Ca-Minh Chương)

Tươi là Hiến-Đạo (Hiến-Đạo Phạm-văn Tươi.)

Đãi là Khai-Đạo (Khai-Đạo Phạm-Tấn Đãi)

Trọng là Tiếp-Đạo (Tiếp-Đạo Cao-Đức Trọng)

Chi Đạo lo về phần Đạo nơi Tịnh-Thất, mấy Thánh-Thất, đều xem-xét chư Môn-đệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc-khổ cho đặng.

* THƯỢNG-SANH thì lo về phần Đời (chi THẾ) dưới quyền có 4 người:

Bảo-Thế thì Phước (Bảo-Thế Lê-Thiện Phước)

Hiến-Thế thì Mạnh (Hiến-Thế Nguyễn văn Mạnh)

Khai-thế thì Thâu (Khai-Thế Thái-văn Thâu)

Tiếp-thế thì Vĩnh (Tiếp-Thế Lê-thế-Vĩnh)

Xem cách Thầy ban Pháp-Chánh-Truyền như trên cũng đã thấy cái lý Âm Dương trong ba Chi rồi vậy. Hai chi Pháp và Đạo (thuộc về Đạo) thì Thầy đặt tên các vị ở trước, đặt phẩm-tước sau, chỉ duy chi Thế là Đời, nên đặt tước-phẩm ở trước và tên các vị ở sau. Ấy là ngay trong một cơ-quan cũng phải đủ lý Âm Dương tương-hiệp. Có nghĩa rằng Đạo thì lo tô bồi Nhơn tước để khi đến với Thiên-Đạo thật sự chỉ là một sự hợp thức-hóa, mượn Thiên-tước làm con đường trở về Thiêng-liêng-vị mà thôi.

Còn Đời trọng cái Thiên-tước mà ít khi trau giồi Nhơn-tước. Nếu bản thân không tự trau thì khi có Thiên Tước rồi, cái Nhơn Tước không trau giồi kịp. Một sự nhắc nhở thật tinh vi của Ông Thầy Trời thật là tuyệt diệu. Quả như lời Đức Nguyệt-Tâm Chơn Nhơn đã nói:

Làm Cha nuối nấng ân cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên.

Ba chi trên cũng ứng vào Tam tài rồi vậy.

2- Thập nhị Thời quân dưới quyền Hiệp-Thiên-Đài:

Thầy dạy “Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo. Thầy cho các con biết: Hễ trọng quyền ắt có trọng phạt”.

Đức Hộ-Pháp nói:

“Còn nhứt Phật, nhị Tiên, Thập nhị Thánh tại Hiệp-Thiên-Đài thì là các Đấng hầu-hạ bên Thầy lúc trước, nay tuy xuống thế cũng cứ giữ phận hầu Thầy mà thôi”.

Thập nhị Thời Quân đây là thuộc về cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài, là một trong ba cơ-quan trọng yếu của nền Đại Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ. Bởi:

“Hiệp-Thiên-Đài là nơi chuyên về Đạo pháp, bảo hộ luật Đời và luật Đạo, như Ngọc-Hư Cung nắm Thiên Điều tức là Ngọc-Hư-Cung tại thế mà Hộ-Pháp Chưởng quản.

“Hiệp-Thiên-Đài là cửa Trời đó vậy. Hiệp là chung với, Thiên là trời; hiệp cùng Trời tức là cửa vào đường trời, cái thang bắc cho phàm đến cùng Trời. Trong Hiệp-Thiên-Đài có Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng-Sanh”.

Ngày khai Đại-Đạo tại Từ-Lâm-Tự khởi ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) Thầy ban Pháp-Chánh-Truyền cho Cửu Trùng-Đài trước.

Qua ngày 12-1 Đinh-Mão Đức Chí-Tôn mới lập Pháp-Chánh-Truyền phong cho danh-sách 12 vị Hiệp-Thiên-Đài vào phẩm Thập nhị Thời-quân.

3- Thập nhị Thời-quân ứng với Thập nhị Thời Thần

Thập Nhị Thời quân tức là tuổi 12 vị này ứng với 12 con Giáp là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Tuy tuổi tác các vị lớn nhỏ khác nhau, nhưng đặc biệt không ai trùng tuổi với ai tất cả; xếp theo thứ-tự 12 chi là:

Trong số 12 Thời-quân thì người lớn tuổi nhất là Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương tuổi Giáp-Tuất (1874) Ngài đứng đầu mang chữ Giáp, Giáp là chủ.

Người nhỏ nhất là Tiếp-Thế Lê-Thế-Vĩnh tuổi Quí Mão (1903) đứng cuối hàng Thiên-can mang chữ Quí.

Về Thập nhị địa chi thì Pháp là Khai, nên Khai Pháp Trần-Duy-Nghĩa đứng đầu tuổi Tý (Mậu-Tý), Khai thế Thái-văn-Thâu tuổi Hợi (Kỷ Hợi), đứng cuối hàng địa chi (Hợi)

Về phép Thiên can chuyển hóa Hiến-Thế là Giáp, Tiếp-Thế là Quí.

Về phép thu-liễm của Địa chi Khai-Pháp là Tý, Khai-Thế là Hợi.

Về mặt siêu hình Đạo biến sinh ra Pháp, còn về mặt hữu-vi mỗi cái chi có trật-tự, có định-vị tức là Pháp trị, Đạo ở giữa đó là Phật.

Bảng tóm tắt:

Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài ( Xếp theo tuổi):

1- Thượng-phẩm Cao Quỳnh Cư tuổi Mậu-Tý (1888). Ngày qui 1-3 Kỷ-Tỵ (1929)

2- Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang tuổi Tân-Sửu. Ngày sinh: 29-7 Tân Sửu (dl 11-9-1901). Ngày qui 26-8 Tân Hợi (dl 21-4-1971)

3- Hộ-Pháp Phạm Công Tắc tuổi Canh-Dần, sanh ngày 5 -5 Canh-Dần (1890). Qui ngày 10-4 năm Kỷ-Hợi (1959)

Thập Nhị Thời Quân:

1- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa tuổi Mậu-Tý (1888-1954)

2- Khai Đạo Phạm Tấn Đãi tuổi Tân-Sửu (1901-1976)

3- Hiến Pháp Trương Hữu Đức tuổi Canh Dần (1890-1975)

4- Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Quí-Mão (1903-?)

5- Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu tuổi Nhâm Thìn (1892-1961)

6- Tiếp Pháp Trương văn Tràng tuổi Quí-Tỵ (1893-1970)

7- Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh tuổi Giáp-Ngọ (1894-1970)

8- Bảo-Thế Lê-Thiện-Phước tuổi Ất-Mùi (1895-1975)

9- Hiến Đạo Phạm văn Tươi tuổi Bính-Thân (1896-1976)

10- Tiếp Đạo Cao-Đức Trọng tuổi Đinh-Dậu (1897-1958)

11- Bảo-Đạo Ca-Minh Chương tuổi Giáp-Tuất (1874-1927)

12- Khai Thế Thái văn Thâu tuổi Kỷ Hợi (1899-1981)

4- SỰ ỨNG HỢP GIỮA THỜI-QUÂN và THỜI THẦN như thế nào?

“Cả toàn Thánh-Thể và con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu: Trong 12 vị Thời-quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo càn khôn vũ-trụ thế nào có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu thấu”.

Xem đồ hình thấy có đủ Thập nhị Thời quân ứng với 12 con giáp, tức là tuổi của các vị này ứng với Thập nhị Thời Thần. Bát-quái đồ thiên vẫn có đủ số 15 là hình ảnh của 15 vị trong cơ-quan Hiệp-Thiên-Đài.

Xem như trên thì Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài tức là ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp có tuổi lần lượt là Tý, Sửu, Dần; tức là đứng đầu ba con giáp. Trong 12 vị Thời-quân cũng vậy, có ba vị: Khai-pháp (Tý), Khai Đạo (Sửu), Hiến-Pháp (Dần) cũng đứng đầu ba con giáp, tạo thành Tam Âm họp với Tam Dương của Tam Đầu chế Hiệp-Thiên-Đài để điều-hòa máy Âm Dương của trời đất. Tuổi tác các vị này quan-hệ đối với cơ Đạo cũng như thời tiết bốn mùa trong một năm vậy. Tất nhiên rất trọng-yếu.

Thế nên, ngày giáng sinh cũng như ngày qui thiên của các Ngài đều ảnh hưởng đến sự thạnh suy bĩ thái của cơ Đạo. Ví như Ngài Bảo-Thế Lê-Thiện Phước là một bậc Thời quân đã dày công với Đạo.

“Năm 1960 tại Giáo-Tông-Đường trước sự hiện diện của Đức Thượng-Sanh, Đức Hộ-Pháp có giáng Cơ ngợi khen Ngài Bảo-Thế qua 4 câu thơ khoán thủ rằng:

BẢO trọng Vạn linh hiệp Chí-linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập Hoà-bình.
CỨU Đời mở Đạo kinh-luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.

Xem qua bài thơ này chúng ta đủ thấy rằng sứ mạng của Ngài Bảo-Thế được giao phó rất lớn lao và yếu trọng trong Đạo để tầm cơ cứu khổ ấy là giai đoạn Đạo cứu Đời. Ngài BẢO-THẾ đã làm xong sứ mạng Thiêng liêng cao quí ấy, nhưng vai tuồng chi Thế còn đòi hỏi Ngài qui tụ nhơn tài trí thức hữu dụng về nghĩa vụ giúp Đạo trợ Đời, nên Ngài dốc lòng lập thành Ban Thế Đạo về nắm quyền Chưởng-Quản cho đến phút cuối cùng phủi tay nắm phướn về Thầy.” (trích Bài Ai-điếu của Ngài Khai Đạo)

Hai chữ “Bảo Thế” là giữ Đời, nhưng lúc sinh thời Ngài đã chịu một cơn bịnh trầm kha cũng khá lâu, nhưng vẫn chờ đợi mãi đến 17-3 năm Ất-Mão nhằm ngày 28-4-1975 tức là trước ngày biến cố của đất nước 30 tháng 4 năm 1975, hai ngày, thì Ngài mới vĩnh viễn ra đi. Phải chăng đời đã không còn thì Ngài hết nhiệm vụ vậy?

Thật ra, Đức Hộ-Pháp cũng đã nói:

“Thập Nhị Thời Quân, Thượng-Sanh, Thượng Phẩm, Hộ-Pháp gọi là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn. Phật Mẫu sợ Chí-Tôn tạo Đạo không nên phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập Nhị Thời Quân, phẩm tước cao trọng thay!” (Ngày 01-10 Đinh-Hợi 1948)

5- Trọng yếu là thâu mấy vị Tông đồ:

Đức Hộ-Pháp nói:

“Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài.

Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ làm môi-giới độ Đạo sau này. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền năng kêu gọi mấy vị Tông đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kiêm biên chớ không phải ở Sài-gòn.

“Ngày nay Đức Chí-Tôn đến, Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể cho Ngài.”

Thầy dạy:

“Thầy lại nhắc cho các con hay rằng: Trong Thập Nhị Thời Quân, đâu đó đều có sắp đặt, nếu không phải mấy đứa phò-loan của Thầy đã định thì các Thánh-ngôn do nơi khác mà ra đều là không phải lời của Thầy nói. Con phải đề phòng cẩn thận, nghe à!

Thầy hằng nói cho các con biết, việc CƠ BÚT là việc tối trọng, nếu không có Chơn-linh quí trọng thì thường có Tà quái xung nhập mà khuấy rối làm cho thất nhơn tâm, lại còn một điều đáng quan phòng nữa là trong mấy đứa phò-loan cũng có đứa không dè-dặt, tưởng CƠ BÚT là việc khinh thường làm thế nào cũng đặng, rồi muốn lấy đó mà cầu hỏi những điều vô vi, nên cũng có nhiều khi vì đó mà sanh biến trong Đạo.

Thầy nói cho các con hiểu bậc Chơn Thánh mà phải đọa trần nếu không đủ tánh chất để dìu-dẫn nhơn sanh thì cũng chưa xứng đáng cầm bút cho Thầy truyền Đạo. Các con nghe à!”

Đi thâu Thập Nhị Thời quân rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo.

Hơn nữa khi Chí-Tôn đến:

“Lập Pháp-Chánh-Truyền giao cho Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ trong đó có diệu-pháp của Chí Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian này. Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng hợp lại cho có trật-tự, có đẳng-cấp tức nhiên là lập Thánh-thể của Ngài; các phẩm-trật có liên quan với các phần-tử, tức nhiên Hội-Thánh tổng hợp lại là Thánh-thể của Ngài, mà hễ đạt quyền được tức nhiên về với Ngài được.

Ấy vậy, Pháp-chánh Hiệp-Thiên là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí Tôn cùng Chí Tôn vậy”

“Hiệp-Thiên-Đài là hình-trạng của Ngọc Hư Cung tại thế, ấy là cửa mở cho các chơn-linh vào đặng đi đến Tam thập lục thiên, Cực-Lạc thế giới và Bạch-Ngọc-Kinh là nơi chúng ta hội-hiệp cùng Thầy hay là chỗ ải địa đầu ngăn cản các chơn-linh chẳng cho xâm-phạm đến đường Tiên nẻo Phật.

Lòng từ-bi của Thầy để cho có:

- Kẻ rước là Thượng Sanh,

- Người đưa là Thượng-Phẩm

- Người dẫn nẻo mở đường cứu độ là Hộ-Pháp đặng đem cả con cái của Thầy về giao lại cho Thầy, kẻo Thầy hằng ngày trông đợi.

Còn luận theo tính chất thì nó là một cái Tòa lựa chọn người lương-sanh đem vào hiệp làm một với Cửu Trùng-Đài, lập vị cho cả Tín-đồ; phần xác phù-hợp với phần thiêng-liêng, un-đúc giữ-gìn cho các lương-sanh ấy nhớ cựu-phẩm mình hầu buổi chung-qui Hộ-Pháp mở cửa Bát-quái-đài đem tên tuổi ấy vào thờ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cho xứng phận.

Hễ Đạo còn ắt tên tuổi cũng còn, cái cơ đắc Đạo tại thế cũng do nơi ấy vậy”

6- Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài qui định:

Trong Pháp-Chánh-Truyền Chí-Tôn lập Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài, mà trước khi Chí-Tôn đến gieo truyền mối Đạo là Thiên-điều đã định mở cửa Thập nhị khai thiên đặng đem cơ cứu khổ để tại mặt thế-gian này mà cứu vớt toàn cả Cửu nhị ức nguyên nhân, con cái của Ngài, Chí-Tôn giao phó cho Hiệp-Thiên-Đài, mà trong Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài có 15 người kể luôn Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.

(H. 35)Thập Nhị thời quân ứng với Thập Nhị Thời Thần

(Xếp theo phương vị đồ Hậu Thiên Bát-quái)

Trước đây khi chưa khai triển “BÁT-QUÁI BIẾN HOÁ TOÀN ĐỒ” thì chúng ta lấy chuẩn là Bát-Quái Hậu Thiên để luận về phương vị của Thập nhị Thời quân ứng với Thập Nhị Thời Thần như hình ở trang 305 Dịch-lý Cao-Đài I (Hình 35 ở trên).

Nay, đã đủ cơ sở để tìm đến nguyên-uỷ của các Bát-Quái mà Đạo Cao-Đài đã thể hiện một cách rõ-ràng Từ nay về sau chúng ta chỉ dùng các Bát-Quái sau đây mà thôi. Thế mới thấy Dịch là biến, biến hoá vô cùng, nhờ biến mà nhân loại mỗi ngày mỗi tiến bộ về khoa học cũng như Đạo học. Nhưng Đạo học bao giờ cũng đi trước, như ánh sáng của tia chớp bao giờ cũng thấy trước tiếng sét nổ.

(H.36) Đây:Thập Nhị Thời Quân ứng với Thập Nhị Thời Thần
theo đúng “Bát quái biến hoá toàn đồ” đã khai triển

Phương-pháp vẽ:

Vẽ một vòng tròn giữa có tam giác đều nội tiếp, tượng ba ngôi: Tinh Khí thần hiệp nhứt là Hộ-Pháp (ở giữa) Thượng Phẩm (bên phải của Hộ-Pháp) Thượng-Sanh (bên trái của Hộ-Pháp) theo như ảnh ba Tượng đặt ở Hiệp-Thiên-Đài ngự trên thất đầu xà. Tâm là Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế.

 
 

(H.37) Ma-phương-số

Vòng tròn ấy là tượng Càn khôn vũ trụ. Sáu vòng tròn xoay quanh tâm theo như trên Tượng Ngũ chi là các Đấng Giáo-Chủ qua các thời kỳ. Bên trong kết hợp bởi hai hình tam giác và hai hình vuông. Các cạnh của những hình này cũng đủ làm nên Bát quái Đồ Thiên hay Bát-Quái Cao-Đài. Bên ngoài tạo thành 12 điểm tiếp xúc với chu vi hình tròn chính là 12 tháng cũng là ứng với tuổi của 12 vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài. Hai hình Tứ Tượng (hình vuông) tạo thành Bát-quái có các quẻ làm nên con số Bát Quái Đồ thiên. Như vậy thì 12 Thời quân đứng vào vị trí của tên 12 tháng gọi là Thập Nhị Thời Thần.

Nếu cộng các con số nằm trên quẻ Bát-quái đây theo xuyên tâm đối có tổng số là 10, tượng cho Thập Thiên can. Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa chi làm nên cặp Âm Dương luôn hoà quyện vào nhau, biến đổi làm nên càn khôn vũ trụ. Nếu cộng các số ma phương như nói ở trước thì có đến tám lần tổng số là 15 tức là con số của Hiệp-Thiên-Đài ứng với Diêu-Trì-Cung.

Bên trong của Đồ hình là Bát-Quái Đồ thiên là hình ảnh Diêu Trì-Cung đã bàn qua nhiều lần rồi.

7- Số 12 thành hình là do 9+3.

Tam đầu chế Hiệp-Thiên-Đài:

Nay Chí-Tôn thành lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Ngài đã dùng lương sanh để cứu vớt quần sanh.

Trong cửa Đạo ngày nay chính ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn đã có đủ yếu-tố để khởi-đoan cho mối Đạo Trời trong cái cơ-vi: “Thiên địa tuần-hoàn châu nhi phục thủy” đó; phải chăng tất cả đều có một sự sắp xếp tế-vi, nên mới nói “Đạo thành do ba người.”

- Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư, tuổi Mậu-Tý (số 1) nắm chi ĐẠO.

- Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang, tuổi Tân-Sửu (số 2) nắm chi THẾ.

- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc, tuổi Canh Dần (số 3) nắm chi PHÁP.

Ba người đứng vào ba tuổi: Tý, Sửu, Dần hiệp thành quẻ Ly.

Đây là ba người trong cơ khởi thủy của Hiệp-Thiên-Đài tượng trưng ý-nghĩa: Một mà ba, ba cũng là một vậy. Ba Ngài là hình ảnh của Tinh (Thượng-Sanh), Khí (Hộ-Pháp), Thần (Thượng-phẩm) hiệp nhứt. Ấy vậy ngày nay Đức Chí-Tôn đã mở Cơ tận độ là đây, tức nhiên Ngài đã mở cơ Đại-Ân-Xá cho tất cả chúng sanh, thế nên có lời rằng: “Các con chỉ có tu là đắc Đạo”.

Khởi thuỷ như thế nào?

Mới bắt đầu số 1, phát sinh ở hướng Bắc, tức là cái vi-dương (vi dương đây là Đạo). Bắt đầu có ở hướng Bắc cho nên trên quả địa-cầu lúc đó có đại-lục mà chỉ ở hướng Bắc hưởng thụ cái khí vi-dương đầu tiên của sao Bắc-đẩu. “Thiên nhứt sanh thủy”.

Rồi dần dần phát-triển qua hướng Nam, tức là số 1 tiến dần đến số 2; số 2 ở về hướng Nam thể trên, tức là đaị-lục của Bắc Á-châu (chi THẾ xuất-hiện).

Bấy giờ sang hướng Đông đến số 3. Số 3 tức là số của Thiếu-Dương (đây là lúc thịnh hành của cơ Pháp) cho nên trong thời thái-cổ theo sự phát triển về thời gian, vì lẽ ấy mà thời đó ở Á Đông văn-minh trước Âu-Tây, mà chính cái văn minh tinh-thần vô-cùng sáng-suốt thấu hiểu được trời đất. Kinh Dịch của các tiền Thánh cũng được khởi ở Châu Á, mở ra nền văn minh tinh thần cao đẹp.

Do lẽ ấy mới có câu:

- Thiên khai ư Tý

- Địa tịch ư Sửu.

- Nhơn sanh ư Dần.

Tức là Tý-hội khai thiên, qua Sửu-hội sanh địa-cầu và Dần-hội thì sanh nhơn-loại. Thiên, Địa, Nhơn gọi là Tam tài hay là Thiên-hoàng, Địa-hoàng, Nhân-hoàng.

Tại sao Đức Phật-Mẫu dạy ba ông phải cầm 9 cây nhang mà khấn-vái trong ngày Vọng Thiên Cầu Đạo?

Bởi mỗi người là một tế-bào khởi thủy cho sự trường tồn của nền Đại-Đạo.

Mà tế bào tinh-trùng ở con người cũng như con vật có chỗ giống nhau, đều cấu-tạo bởi một dương điện-tử và 9 âm điện-tử. Do vậy mà các ông phải cầm 9 cây nhang mà cầu-nguyện làm biểu-tượng ấy. Đây là lúc làm nên cái trứng tinh thần Đại Đạo.

SỐ 9 là cơ vận-chuyển, 3 là 3 ngôi.

Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt. Nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chúa-tể càn khôn vũ-trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy.

Số 3 cũng nằm trong qui luật: Tý, Sửu, Dần, đứng đầu trong 12 chi.

Khi trời đất chưa khai, là một khí không không. Sau khi định hội Tý thì gọi là "Vô-danh thiên địa chi thủy", thế nên khi tạo trời gọi là “Thiên khai ư Tý”.

Đất thành hình là thời-kỳ “Địa tịch ư Sửu” còn gọi là “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” tức là có tên gọi, muôn vật có hình bắt đầu thọ nơi Mẹ hóa sanh.

Nay đến hội Tam-kỳ kết-quả của thời “Nhơn sanh ư Dần” do vậy mà Cao-Đài Đại-Đạo ra đời để độ hết quần-linh về cõi Niết-Bàn, chẳng để một điểm chơn-linh nào ở miền Đông-độ, gọi là thời-kỳ Đại ân xá lần ba.

Do vậy số 3 là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở trong càn-khôn vũ-trụ này, kết hợp với số 9 là một con số huyền-diệu, nó là cơ chuyển biến đến mực độ toàn thiện, toàn mỹ, toàn tri, toàn năng, để trở về cơ qui nhứt. Nó cũng là hình ảnh của ngôi Thái-cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. “12 là con số riêng của Thầy”.

Nếu lấy số 1 đứng trước số 2 thì là Thái cực dẫn đầu. Nếu cộng 1 và 2 tức là ba ngôi đó vậy. Số 3 là con số huyền diệu vô cùng. (Xin đọc: Số 3 Huyền-Diệu).

8- Quyền-hành HỘ-PHÁP

“Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp Chưởng quản, tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-phẩm, phần của Hộ-Pháp Chưởng-quản về Pháp.

“Vậy thì Hiệp-Thiên-Đài phải dưới quyền Hộ-Pháp chưởng-quản, cũng như Cửu-Trùng-Đài dưới quyền Giáo Tông và Bát-quái-Đài dưới quyền Đức Chí-Tôn làm chủ.

Hộ-Pháp “Là người nắm trọn cả luật Đạo và luật đời đặng xử đoán, làm chủ phòng xử-đoán. Dưới quyền Hộ-Pháp có 4 vị Thời-quân là; Tiếp-Pháp, Khai-pháp, Hiến-Pháp, Bảo-pháp”

Mỗi một vòng tròn như vậy có 5 vị, ứng với số Ngũ

Ba vòng tròn trên có tâm mang chữ:

(H. 38) Hộ-Pháp Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài

- Thượng-Phẩm là người nắm quyền chi Đạo, có 4 vị dưới quyền Ngài là: Bảo-Đạo, Hiến-Đạo, Khai Đạo, Tiếp-Đạo.

- Hộ-Pháp là người nắm quyền chi Pháp, có 4 vị dưới quyền Ngài là: Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai Pháp, Tiếp-Pháp.

- Thượng-Sanh là người nắm quyền chi Thế, có 4 vị dưới quyền Ngài là: Bảo-Thế, Hiến-Thế, Khai-Thế, Tiếp-Thế.

Như vậy 3 vị: Thượng-phẩm, Hộ-Pháp, Thượng Sanh là ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn, 12 vị mang chữ Đạo, Pháp, Thế là 12 vị Thời-quân. Nói chung là Ngự Mã Thiên-quân của Chí-Tôn đó vậy, cộng chung là 15 người. Con số 15 này có mặt trong Bát-quái Đồ thiên và đóng một vai trò vô cùng quan-trọng.

Số 15 là hình ảnh của:

- Trời có Tam-bửu, Ngũ khí.

- Đất có Tam-bửu, Ngũ hành.

- Người có Tam-bửu, Ngũ tạng.

3 lần con số 3 là 9 là con số Lão-dương chỉ quyền năng của Thượng-Đế.

3 lần con số 5 là con số điều-hoà Càn-khôn vũ-trụ là hình ảnh của Phật-Mẫu nắm cơ sản-xuất Bát-phẩm chơn hồn, sanh biến vạn-linh.

Thế nên trong Bàn Hội-Yến lúc nào cũng có đủ ba: chi Pháp (Hộ-Pháp), Đạo (Thượng-Phẩm), Thế (Thượng Sanh).

Lúc các Ngài còn sanh tiền hay khi tất cả các Ngài đều qui Thiên cũng vậy, cũng biểu-tượng đủ con số 12, tức là 9 vị Nữ Tiên và 3 vị Hiệp-Thiên-Đài. Ngay trong buổi này các Ngài đã qui Thiên rồi thì trong buổi Hội-Yến Diêu-Trì-Cung có các bài thài để hiến Lễ.

9- Vấn đề xung khắc, kỵ hạp:

Tên tuổi những vị Thời quân nếu lấy theo tứ hành xung cũng vẫn theo qui luật là: Dần Thân Tỵ Hợi, Thìn Tuất Sửu Mùi, Tý Ngọ Mẹo Dậu.

Thìn Tuất Sửu Mùi ứng hợp với các vị Thời quân là: Thìn (Bảo-Pháp), Tuất (Bảo-Đạo), Mùi (Bảo-Thế), Sửu (Khai Đạo) ứng với Thổ. Thế nên Thổ có phận sự là chuyển tiếp. Trong cửa Đạo phận sự các Ngài thật vô cùng yếu trọng .

Tam hợp là: Thân Tý Thìn, Hợi Mẹo Mùi, Dần Ngọ Tuất, Tỵ Dậu Sửu:

(Thân) Hiến Đạo, (Tý) Bảo-Pháp, (Thìn) Khai-Pháp

(Hợi) Khai Thế, (Mẹo) Tiếp Thế, (Mùi) Bảo Thế

(Dần) Hiến-Pháp, (Ngọ) Hiến Thế, (Tuất) Bảo Đạo

(Tỵ) Tiếp-Pháp, (Dậu) Tiếp-Đạo, (Sửu) Khai Đạo

Nhị hợp: Tý Sửu, Dần Hợi, Mão Tuất, Thìn Dậu, Tỵ Thân, Ngọ Mùi.

Nhị xung: Tý Mùi, Sửu Ngọ, Dần Tỵ, Mẹo Thìn, Hợi Thân, Tuất Dậu.

Thập Nhị Thời quân nếu lấy theo tứ hành xung cũng vẫn theo qui luật là Thập Nhị Địa chi ứng với Ngũ Hành:

Thìn Tuất Sửu Mùi (Thổ), Hợi Tý (Thuỷ) Dần Mẹo (Mộc), Tỵ Ngọ (Hoả), Thân Dậu (Kim)

12 thời Thần có ảnh hưởng trong Y-lý:

Lục phủ Ngũ Tạng trong cơ thể con người cũng có giờ khởi: Những giờ này Khí được vượng: Thơ rằng:

Phế Dần, đại Mão, vị Thìn cung

Tỳ Tỵ, Tâm Ngọ, Tiểu Mùi trung.

Thân bàng, Dậu Thận, tâm bào Tuất

Hợi tam, Tý đởm, Sửu can thông.

Giải nghĩa: Phế (phổi) bắt đầu giờ Dần vượng tức nhiên chủ giờ Dần. Đại trường giờ Mão, bao-tử thuộc giờ Thìn.

Tỳ (lá lách) giờ Tỵ. Chánh Ngọ thì tâm, Tiểu trường trong giờ Mùi thịnh.

Giờ Thân thì bàng quang. Giờ Dậu thì Thận, Tâm bào-lạc (lớp bao bọc tim) chủ giờ Tuất.

Giờ Hợi thì Tam tiêu, Đởm (gan) thuộc giờ Tý, Can thì giờ Sửu tất thảy đều được thông.

10- Chơn-pháp của Đại-Đạo:

“Theo Chơn-pháp của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ thì mọi cơ-cấu nơi cõi vô hình đều có cơ-cấu hữu hình đối tượng của Đạo nơi mặt thế.

- Ở cõi thiêng-liêng có Cửu-Thiên khai-hóa thì trong cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu-vi là Cửu Trùng Đài.

- Còn ở vô hình có cơ-cấu tạo ra cung Trời là Thập nhị Khai thiên, tức là Thập nhị Thời Thần, thì ở cửa Đạo Cao-Đài có đối tượng hữu vi là Thập nhị Thời-quân.

Còn nói về Hội-Yến Bàn-Đào thì ở vô-hình Diêu Trì-Cung mỗi năm đến mùa đào chín, Đức Diêu-Trì Kim Mẫu tức là Đức Phật-Mẫu mở lễ Hội-Yến Bàn-Đào có tất cả chư Phật, chư Tiên ở các nơi đều về chầu Lễ, được ăn một quả đào Tiên sẽ đặng trường sanh bất tử; thì ở cửa Đạo Cao-Đài cũng có tổ-chức một cuộc lễ hữu-vi đối tượng tại Đền Thờ Phật-Mẫu ở Tòa-Thánh Tây-ninh cho cả Chức-sắc Thiên-phong và toàn Đạo ở các nơi về dự; nhứt là Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài đều về chầu Lễ để hưởng hồng-ân điển-lực của Đức Phật-Mẫu ban cho”.

Hỏi: tại sao có mặt Thập nhị Thời-quân dự bồi tửu trong Bàn Hội-Yến?

- “Nơi cõi vô hình phải có Thập nhị Khai thiên tức là Thập nhị Thời thần phối-hợp nhau để tạo nên cung Trời, thì ở mặt thế này đối-tượng của Thập nhị khai thiên là Thập nhị Thời-quân cũng phải phối-hợp cùng nhau để giúp tạo thành hình tướng của Đạo Cao-Đài. Vì đó mà Thập nhị Thời-quân mới có mặt bồi tửu trong buổi Lễ Hội Yến.

Bên Cửu-Trùng-đài là hình ảnh Cửu-Thiên khai hóa, mà nơi cõi vô hình thì Cửu-Thiên khai-hóa chỉ là sự phân chia đẳng-cấp của cơ Trời; còn về phần hữu hình thì

Cửu-Trùng-Đài cũng chỉ là phận-sự chia đẳng cấp trong cửa Đạo mà thôi.

Nếu bên vô hình Cửu-thiên khai-hóa không dự phần phối-hợp để tạo ra cung trời, thì trong đối-tượng về phần hữu hình cũng không có dự phần phối-hợp để giúp tạo thành hình tướng của Đạo Cao-Đài.

Vì những nguyên-nhân trên đây mà Chức-sắc Cửu Trùng-Đài không có dự vào việc bồi tửu trong lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung, lễ này đặc biệt thuộc phần tổ-chức của Hiệp-Thiên-Đài.

…Ngày ấy là ngày vui cho sự trường-tồn vĩnh-cữu của cõi trời, ngược lại cảnh đào-độn của tam thập lục thiên. Thứ nhất cũng là ngày vui cho sự trường-tồn, vĩnh cữu của Đạo Cao-Đài đến thất ức niên.

Thập nhị Thời-quân chính là Thập nhị Thời Thần nên số tuổi của các Ngài thể hiện con số thập nhị Địa chi của Đạo trời, vì vậy mà tuổi của 12 vị Thời-quân mỗi người đứng đầu một con giáp không ai trùng hợp với ai mà lại còn có sự đặt định một cách khít-khao, huyền nhiệm vô cùng.

Đức Hộ-Pháp có giải:

“Cả toàn Thánh-Thể và con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu: Trong 12 vị Thời-quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo càn khôn vũ-trụ thế nào có lẽ cả tinh-thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu thấu”.

 

C- Kết luận về QUẺ BIẾN:

* -Phàm quẻ có 1 Âm 1 Dương đều từ Quẻ Phục Cấu lại.

* -Phàm quẻ có 2 Âm, 2 Dương đều từ quẻ Lâm Độn lại.

* -Phàm quẻ có 3Âm 3 Dương đều từ quẻ Thái Bĩ lại.

* -Phàm quẻ có 4 Âm 4 Dương đều từ quẻ Đại Tráng, Quẻ Quan lại

* -Phàm quẻ có 5 Âm 5 Dương đều từ quẻ Phu, Bác lại

1- Quẻ có một Âm một Dương:

* Trường hợp những quẻ có chỉ có 1 Âm 1 Dương, thì từ quẻ Phục; tức là Địa Lôi Phục có một Dương mới xuất hiện, như:

Quẻ chỉ có một Dương, khởi ở quẻ Phục:

Địa Lôi Phục là do quẻ Khôn vi Địa (số 8) hợp với Chấn vi Lôi (số 4) Biệt số của quẻ Phục là 84.

Ngày nay trong cửa Đạo khi đưa đám tang thì trật tự đưa đám ngoài những nghi thức Tôn giáo ra, thì người phái Nam đi sau cuối. Vì sao? – Tức là hình ảnh của quẻ Phục đó. Bởi xác chết là Âm mà khi đem chôn vào lòng đất cũng là Âm. Ngày xưa cho rằng chết là mất tất cả, nên dùng tang phục màu đen là tượng quẻ Khôn. Thân nhân người quá cố khóc than bi thiết. Nhưng nay, ngươn hội Cao-Đài cho biết sự chết là trở về để làm lại một cuộc hành trình khác. Người Nam đi sau cùng chứng tỏ còn một điểm Dương trong sáng của “Hồn Trời hoá trở về Thiên cảnh. Xác đất sanh đến lịnh phục hồi” là như vậy. Với nền Đại-Đạo quẻ Phục tượng là Khai ngươn chuyển thế.

Địa Thuỷ Sư là do quẻ Khôn vi Địa (số 8) hợp với Khảm vi Thuỷ (số 6) Biệt số của quẻ Sư là 86. Sư chúng là đông người, tượng cho Thánh Thể của Đức Chí-Tôn.

Địa Sơn Khiêm là do quẻ Khôn vi Địa (số 8) hợp với Cấn vi Sơn (số 7) Biệt số của quẻ Khiêm là 87.

Sự khiêm tốn nhún nhường để đem lại bình an cho thiên hạ, tượng Tam Thánh ký Hoà-ước với Đức Chí-Tôn phải thực hiện cho được hai điều: Bác-ái, Công bình.

Lôi Địa Dự là do quẻ Chấn vi Lôi (số 4) hợp với Khôn vi Địa (số 8) Biệt số của quẻ Dự là 48.

Dự là vui vẻ của một thời tịch lạc mà cả nhân loại ngày nay mong đợi Đức Di-Lạc “Tái sanh sửa đổi chơn truyền. Khai cơ tận độ Cửu tuyền diệt vong. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị.” vào những ngày sắp tới đây.

Thuỷ Địa Tỷ là do quẻ Khảm vi Thuỷ (số 6) hợp với Khôn vi Địa (số 8) Biệt số của quẻ Tỷ là 68.

Tỷ là so-sánh, tức nhiên nói về phẩm tước Thiên Đạo mà trong cửa Đạo này tất cả đều muốn đến để dâng công đổi vị. Hầu có ngày đoạt được ngôi cao phẩm quí.

Sơn Địa Bác là do quẻ Cấn vi Sơn (số 7) hợp với Khôn vi Địa (số 8) Biệt số của quẻ Bác là 78.

Bác là một sự bào mòn của một thời cơ sắp đổ, tượng quẻ chỉ còn một Dương lơ-lửng như hiện tượng núi lở, đất sụp của một thời cùng cuối của Hạ ngươn mạt pháp như ngày nay cả thế giới đều rung động.

(H.39) Một Âm một Dương biến

Quẻ chỉ có 1 Âm, khởi ở quẻ Thiên Phong Cấu:

Thiên phong Cấu là do quẻ Kiền vi Thiên (số 1) hợp với Tốn vi Phong (số 5) Biệt số của quẻ Cấu là 15.

Nay, ngươn hội Cao-Đài mọi nghi thức đều có ý nghĩa, như đưa đám cưới thì người Nữ lại đi sau cuối. Bởi quẻ Cấu là sự kết hợp lại có một điểm Âm dưới cùng làm khởi điểm cho “Cơ sanh hoá Càn khôn đào tạo. Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên” . Trái với quẻ Phục ở trên.

Thiên Hoả Đồng nhân là do quẻ Kiền vi Thiên (số 1) hợp với Ly vi Hoả (số 3) Biệt số của quẻ Đồng nhân 13.

Đồng nhân là cùng với người. Tượng cho thời kỳ của Đại-Đồng thế giới đến với nhau trong tình yêu thương cuả Thượng-Đế.

Thiên Trạch Lý là do quẻ Kiền vi Thiên (số 1) hợp với Đoài vi Trạch (số 2) Biệt số của quẻ Lý là 12 “Lý giả lễ dã” tức là trật tự, nghi thức Đại-Đạo mà ngày nay tất cả đều do Thượng-Đế an bày.

Phong Thiên Tiểu Súc là do quẻ Tốn vi Phong (số 5) hợp với Kiền vi Thiên (số 1) Biệt số quẻ Tiểu-súc là 51.

Thời kỳ của Đức Thượng-Đế đến với nhân loại bằng Huyền Cơ diệu Bút để phổ truyển chánh pháp, vì Ngài đến với nhân loại mà không có nhân thân phàm ngữ nên phải nhờ Bút Thánh Cơ Thần để lời giáo hoá.

Hoả Thiên Đại-Hữu là do quẻ Ly vi hoả (số 3) hợp với Kiền vi Thiên (số 1) Biệt số của quẻ Đại hữu là 31.

Đại Hữu là có nhiều. Ngày nay nhân loại đang lâm vào cảnh mất đi niềm hoà ái bởi văn minh vật chất lấn át tinh thần, chiến tranh, thiên tai, động đất kéo theo sự nghèo đói. Do đó mà phải có một “Chính sách Hoà bình Chung sống”để nhân loại xích lại gần nhau hơn.

Trạch Thiên Quyết là do quẻ Đoài vi Trạch (số 2) hợp với Kiền vi Thiên (số 1) Biệt số của quẻ Quyết là 21.

2- Quẻ có 2 Âm hai Dương:

Những quẻ có hai Âm (tức là bên cạnh có 4 Dương), quẻ hai Dương (thì bên cạnh có 4 Âm) mỗi thứ có 15 quẻ:

(H.40) 15 quẻ có hai hào Dương khởi từ quẻ Lâm

(H.41) 15 quẻ có hai hào Âm khởi từ quẻ Độn

3-Tam Âm Tam Dương

(H.42) Tam Dương, Tam âm có 20 quẻ

Tam Dương, Tam âm có 20 quẻ:

Những quẻ này có số Âm Dương cân bằng nhau: nghĩa là trong một quẻ có 6 hào, 3 hào Âm và 3 hào Dương nhưng chúng nằm ở vị trí khác nhau như:

Sơn Trạch Tổn là phối hợp bởi Cấn vi Sơn (số 7) theo Tiên Thiên Bát quái và Đoài vi Trạch (Đoài số 2), biệt số của quẻ Tổn là số 72 là nghĩa như vậy.

4- TỨ ÂM TỨ DƯƠNG

Nhận xét:

Xem ra thì trong phần Tứ Âm Tứ Dương: mỗi loại 15 quẻ có 4 hào Âm và 15 quẻ có 4 hào Dương.

Theo hình vẽ trên đây phân biệt riêng từng hàng

Quẻ có những số Âm và Dương giống nhau thì nghiệm thấy rằng:

- Dương khí trên đây là thanh khí bao giờ cũng nhẹ nhàng và bốc lên trên, nên có sự tiến lên.

- Âm khí tức là trược khí nặng, cho nên bao giờ cũng có ý lắng xuống phía dưới. Nghiệm xét về thực tế thì quả nhiên như vậy, khi khói bay tức là khí nóng thì bốc lên cao, còn khí lạnh thì lắng xuống dưới, càng lạnh càng xuống thấp.

Đó là nói về thể và tính cách của hai thể Âm và Dương. Trong 64 quẻ đều có tính cách đó. Vì vậy có thể kết luận bằng một định lý thứ nhất là:

Khí Dương nóng thì bốc lên, lạnh thì ngưng lại.

1- Xét trong 64 quẻ theo những bản đồ trên thì đều có sự tương đối nhau: Trong những quẻ đối hễ có Âm ắt có Dương. Trái lại có Dương thì có Âm. Âm Dương không xa lìa nhau.

2- Khi đến độ trung hoà thì bắt đầu sanh hoá. Bởi cái đức lớn của trời đất là sự sinh “Sinh sinh chi vị Dịch”.

Quẻ có 4 Dương và 4 Âm, xem lại những quẻ có 2 Âm hai Dương, đều giống nhau.

5- Năm Âm năm Dương (H.43)

(H.43)

Phần này cũng giống như những quẻ một âm một Dương vậy (Xem phần một Âm một Dương ở trên)

Sự biến hoá của Dịch

Khởi đầu Dịch chỉ có 8 quẻ đơn mà thôi, khi biến hoá thì thành ra 64 quẻ kép (do 8x8= 64) Chính nhờ sự biến hoá này mới thành ra Càn khôn thế giới, không vật gì, loài gì mà ra ngoài định luật của vũ trụ tức là sự biến dịch.

Thánh nhân xếp Kinh Dịch ra làm hai Kinh: gọi là Thượng Kinh và Hạ kinh:

1/- Thượng Kinh có 30 quẻ.

Duy chỉ có 6 quẻ không đổi gọi là bất dịch, là: Kiền Khôn Khảm Ly Di Đại quá

Thế nào gọi là không đổi?

– Tức nhiên nhìn vào quẻ cho ta thấy ngay: những quẻ này dầu xoay một vòng 180˚ cũng không đổi, nó cũng có một dạng như vậy mà thôi. Dịch gọi đó là Bất dịch.

Còn lại 24 quẻ là phản dịch, nhưng có 12 đôi, cho nên cộng lại là có 18 quẻ (12+6=18).

2/- Hạ Kinh có 34 quẻ:

Có hai quẻ Trung phu Và Tiểu quá là không xê dịch tức nhiên cũng là bất dịch. Còn lại 32 quẻ gọi là phản dịch. Xếp thành đôi một thì có 16 cọng với 2 quẻ kia thành ra 18 quẻ (16+2=18).

Thế nào là quẻ phản dịch?

Ví dụ như:

→ Thái ; Quyết → Cấu

Những quẻ gọi là phản dịch như quẻ Thiên Địa Bĩ khi ta quay một vòng 180˚ thì thành ra quẻ Địa Thiên Thái. Tương tự, 24 quẻ còn lại cũng như thế, mà chúng ta nói là 12 cặp Âm Dương của nó. Những quẻ này gọi là phản dịch, mà cũng còn gọi là điên đảo dịch.

 

D- TỨ TƯỢNG VÀ SỰ VẬN HÀNH
BIẾN HOÁ SINH TRƯỞNG THU TÀNG TRONG TRỜI ĐẤT

Dịch nói “Nhất Âm nhất Dương chi vị Đạo” đã thành định luật. Đã là định luật thì bất di bất dịch. Tức nhiên mọi vật trong trời đất này với một Âm một Dương sẽ làm nên Đạo. Ví như người thì có Nam Nữ, vật thì có trống mái, phải đủ hai nhân tố đó mới tạo nên một hình ảnh thứ ba.

Bởi Âm Dương là hai biểu tượng tạo thành sự vận hành của vạn vật. Sự vận hành này có thịnh, có suy, có trưởng, có tàng. Người xưa đã tóm tắt các giai đoạn này thành hai giai đoạn lớn là Tức 息 và Tiêu 消 .Từ tức và Tiêu có thể phân làm bốn giai đoạn nữa.

BỐN GIAI ĐOẠN CỦA THÁI THIẾU ÂM DƯƠNG

Đã biết rằng Vô cực tiến sang Thái cực, sang Lưỡng nghi, sang Tứ Tượng, biến Bát-Quái rồi đến Lục thập tứ quái (64 quái) là thành hình sự sống trong một chu kỳ không bao giờ ngừng dứt mà người xưa ví sự liên tục ấy như chiếc vòng ngọc không đầu mối.

Quá trình tiến triển của vũ trụ từ vô hình đến hữu hình theo Dịch-lý là như thế. Chữ “Sinh” không những có nghĩa là sinh ra, mà nó diễn tả chuỗi biến hoá của một cuộc “Sống riêng” của một vật trong toàn thể sự sống của trời đất.

BỐN GIAI ĐOẠN BIẾN HOÁ CỦA TỨ TƯỢNG KHẢM, LY, ĐOÀI, CHẤN

(Theo tài liệu của Dịch lý Y-lý của G.S.Huỳnh Minh-Đức)

Sự thịnh suy của Tứ thời là do sự biến hoá của TỨ TƯỢNG.Các quẻ KHẢM, LY, CHẤN, ĐOÀI là bốn chính quái thuộc Tứ tượng, mỗi quái có 6 hào, mỗi hào sinh một tiết khí. Có thể mô tả như sau:

Đây là sự phân chia 24 Tiết trong Tứ tượng quái.

Trong một năm có 12 tháng: 6 tháng thuộc Dương, 6 tháng thuộc Âm. 12 tháng ấy được tượng trưng trong 12 Quẻ, là các Quẻ:

PHỤC (Tháng 11) ở cung Tý, Tiết Đông chí

LÂM (tháng 12) ở Cung Sửu, Tiết Đại hàn

THÁI (tháng 1) ở Cung Dần. Tiết Vũ thuỷ

Thuộc về Thiếu Dương làm chủ

ĐẠI TRÁNG (tháng 2) ở Cung mão,Tiết Xuân phân

QUẢI (tháng 3) ở Cung Thìn, Tiết Cốc vũ

KIỀN (tháng 4) ở Cung Tỵ, Tiết Tiểu mãng

Thuộc về Thái Dương làm chủ

Trên đây là lục Dương quái gồm 6 quẻ

CẤU (tháng 5) ở Cung Ngọ, Tiết Hạ chí

ĐỘN (tháng 6) ở Cung Mùi, Tiết Đại thử

BĨ (tháng 7) ở Cung Thân, Tiết Xử thử

Thuộc về Thiếu Âm làm chủ

QUÁN (tháng 8) ở Cung Dậu, Tiết Thu phân

BÁC (tháng 9) ở Cung Tuất, Tiết Sương giáng

KHÔN (tháng 10) ở Cung Hợi, Tiết Tiểu tuyết

Thuộc về Thái Âm làm chủ

Kế đến là lục Âm quái gồm 6 quẻ

Tất cả các quẻ trên biến dịch đều do luật Tiêu trưởng mà lập thành:

6 quẻ phần Dương là Âm tiêu Dương trưởng.

6 quẻ phần Âm là Dương tiêu Âm trưởng

Tuy có 64 quẻ (8x8) nhưng kỳ thực rút lại chỉ có 12 quẻ kể trên gọi là Thiên-tử-quái, tức là 12 quẻ chánh tạo thành 12 tháng trong một năm đứng đầu 12 con giáp, tức là Thập Nhị Địa Chi.

Xem đồ biểu thấy rõ lẽ: Dinh (đầy), Hư (thiếu), Tiêu (hao mòn), Tức là ngừng nghỉ để lớn lên dần. Nếu:

Âm suy dần, Dương lớn dần (thời của Thiếu dương)

Âm lớn dần, Dương suy dần (thời của Thiếu Âm).

12 quẻ trên còn gọi là 12 quẻ Tiêu Tức.

Như:

Phục, Lâm, Thái, Đại-tráng, Quải, Kiền là “Tức quái”.

Cấu, Độn, Bĩ, Quán, Bác, Khôn là “Tiêu quái”.

HƯ theo liền với TIÊU, DINH theo liền với TỨC. Cho nên nói tức nghĩa là nói Dinh (doanh). Nói TIÊU là nói HƯ. Như vậy là Dinh đối với Hư, Tiêu đối với Tức.

BỐN GIAI ĐOẠN BIẾN HOÁ CỦA TỨ TƯỢNG VỀ THỜI TIẾT

 
   

Thử xét đến các quẻ PHỤC (tháng giêng) và quẻ QUÁN (tháng 8) để tìm hiểu ý-nghĩa hai kỳ Đại Lễ của Đức Chí-Tôn và Đức Phật-Mẫu hằng năm tính theo Âm lịch.

Phục Quẻ này ứng vào tháng 11. Ngoại quái là Khôn vi Địa, nội quái là Chấn vi Lôi, đọc là Địa Lôi Phục. Quẻ này có một hào Dương mới sanh ra (Phục là trở lại), được phục sinh lại. Ấy là chuyển tiếp của quẻ Khôn tháng 10 thuần Âm. Lý của Dịch là cùng tắc biến, biến tắc thông. Một hào Dương phát sinh nên vạn vật đều được hưởng cái Dương Xuân ấm áp làm khởi điểm, tức là trong cái động đã tiềm ẩn khí Dương rồi, vạn vật như hồi sinh.

Đó là cái ngươn khí của vũ trụ càn khôn phát khởi do nhứt điểm Dương sanh của Đức Chí-Tôn tạo hoá.

Tháng giêng là tháng DẦN khởi đầu của một năm nên đứng vào Thượng ngươn số 1 được lấy làm Đại Lễ Đức Chí-Tôn, tượng trưng con số quản trị càn khôn mà Đức Ngài là Đấng Chúa Tể vũ trụ, đó là quẻ Thái.

 

 

E- Cơ Đạo ngày nay có 12 Thời-Quân
bên cạnh có 12 Bảo-Quân,
họp lại cũng như 24 tiết khí vậy

Bên cạnh 12 quẻ chánh yếu có 12 Tiết với 12 Khí, nên gọi là 24 Tiết khí. Cũng như con người có mỗi bên 12 xương sườn, cộng chung là 24 xương sườn để đỡ lồng ngực. Trong cửa Đạo bên Hiệp-Thiên-Đài có 12 vị Thời Quân ứng với 12 Thời Thần, lại có Thập nhị Bảo Quân là để chuẩn bị hoàn thành một Hàn Lâm Viện trong nền Đại Đạo, tất cả đều chịu dưới hệ-thống của Hiệp-Thiên-Đài.

Thập Nhị Bảo-Quân là gì?

Ngoài 12 Thời quân ra còn có 12 vị Bảo-Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Đức Hộ-Pháp trả lời trong quyển lời phê về Thập nhị Bảo-quân là:

“Toàn thể Bảo-Quân là Hàn-Lâm-viện, mỗi vị có sở chức, sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như:

Huyền-linh-quân nghĩa là Thần linh hồn khác với Bảo-Học quân là thuộc về khoa-học hay thực tế học..

Có 12 vị gọi là Thập Nhị Bảo Quân là:

1- Bảo Huyền-linh-quân (Science mystique)

2- Bảo-Học-quân (Science physique – Instruction Publique)

3- Bảo Thiên-văn quân (Astrologie)

4- Bảo Địa Lý quân (Géologie)

5- Bảo Sanh Quân (Santé puplique)

6- Bảo Cô quân (Chevalerie)

7- Bảo Văn Pháp quân (Belles lettres)

8- Bảo Y quân (Médecine)

9- Bảo Nông quân (Agriculture)

10- Bảo Công quân (Arts et Métiers)

11- Bảo Thương quân (Commerce et Industrie)

12- Bảo Phong hoá quân (Philosophie) hoặc còn gọi là Bảo-Sĩ-Quân tức là Triết-học.

Nếu một ngày một đêm có 24 giờ, thì 12 giờ ban ngày là Dương, 12 giờ ban đêm là Âm. Đó là định luật của đất trời. Giờ đây tổ chức trong cơ quan Hiệp-Thiên-Đài cũng tương tự như vậy:

- Thập Nhị Thời Quân ấy là Dương.

- Thập Nhị Bảo-Quân ấy là Âm.

Âm Dương tương hiệp mới phát khởi Càn khôn là vậy. Dù ở bất cứ trường hợp nào vẫn có Âm Dương không chia lìa nhau.

 

F- Lý biến hoá: Thể pháp trong nền Đại-Đạo:

(H.48) Cửa sổ Đền trang trí hoa Sen

1/- 23 Thiên Nhãn chung quanh cửa sổ Đền-Thánh:

Phương ngôn Tây có câu “Con mắt là cửa sổ của linh hồn” cho nên chung quanh Đền Thánh có cả thảy 23 cửa sổ cao rộng. Các cửa sổ ấy trang trí bằng loài Sen và chính giữa khung là hình “Con Mắt Trời”.

Hai mặt trên và dưới khung trang trí hai bụi Sen đối xứng nhau, có đủ hoa, lá, bông, trái và ngó sen, sắp xếp thật mỹ thuật với các con số đầy đủ ý-nghĩa của đạo pháp. Bên trong là một khuôn hình có 8 cạnh. Ở giữa là một tam giác đều, ở vào tâm điểm của hình có Con mắt là biểu tượng “Thiên Nhãn Thầy” tủa ra bằng 16 tia hào quang rực-rỡ.

Cửa sổ được trang trí cả hai mặt, thế nên tuy là 23 cửa sổ nhưng cả thảy là 46 Thiên Nhãn (23x2=46)

Tất cả các cửa sổ đều có một khuôn giống nhau.

Ý-nghĩa của Thiên Nhãn thì không khác, tuy nhiên về hình thức thì mỗi nơi có mang một sắc thái khác nhau.

Tại sao trang trí sen chung quanh Thiên Nhãn?

Sen có nhiều ý-nghĩa: là hình ảnh của Phật đạo, chứng tỏ Cao-Đài là Phật giáo chấn hưng.

Sen là biểu hiệu sự thanh-cao, tinh khiết. Sống trong bùn mà không hôi mùi bùn, cũng như người tu hành chân chính thì dù có sống trong trần thế mà không nhiễm thế trần.

Hai bụi sen: đặt ở trên và dưới của chiếc khung, tượng Lưỡng nghi, tức nhiên số 2 là chỉ con người sống trong thế giới nhị nguyên, dầu muốn dầu không phải chịu trong luật luân hồi sanh tử, không ai tránh khỏi. Định luật Âm Dương chi phối toàn thể cơ cấu của càn khôn vũ trụ.

Tam giác ở giữa là lý Tam tài, bên trong là “Thiên nhãn Thầy” tượng ngôi Thái cực. Thái cực sinh Lưỡng nghi là hình ảnh hai bụi sen toả ra xung quanh:

- Bốn búp sen hồng là hình ảnh của Tứ tượng, tức là hình vuông.

- Sáu bông sen nở: Trên 3 dưới 3 là tam Âm tam Dương, là hình ảnh của quẻ Càn 3 nét và Khôn 3 nét, chính là hai tam giác thuận nghịch đó.

- Cọng chung là 10 bông sen tượng Thập Thiên Can, tức là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.

- Tám trái sen xanh chia đều trên 4 dưới 4, tức là tứ Âm tứ Dương họp thành Bát-Quái thứ nhứt ở trong.

- 12 ngó sen là tượng cho Thập Nhị Địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Hai lý Âm Dương Thiên can và Địa chi này đã làm nên đầu mối của Càn Khôn vũ trụ trong sự biến hóa vô cùng. Kinh Phât-Mẫu có câu:

“Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa chi hóa trưởng Càn Khôn”

-Khung có hình Bát quái, tức nhiên là có dạng chữ nhựt, xong 4 góc lại cắt xéo thành ra 8, họp thành tứ Âm tứ Dương tạo thành Bát-Quái thứ nhì, làm khuôn bao bọc:

1- Bát-quái Đồ Thiên ở bên ngoài.

2- Bát-Quái bên trongBát-Quái Hư vô.

Có câu “Hư vô Bát-Quái trị Thần qui nguyên”.

Hiện nay Đạo Cao-Đài xử dụng đến 4 Bát-quái.

Chính hai Bát-Quái này là con đường của người tu trở về với Thiên Đạo là một con đường ngắn nhứt, chỉ Đạo Cao-Đài mới được Đức Thượng-Đế đến ban cho mà thôi.

Tam giác đều nằm giữa khung hình, trung điểm của tam giác cũng là trung đoạn, trung tuyến của tam giác và trùng hợp với tâm của vòng tròn. Đó chính là ngôi Thái cực của Thầy đang ngự trị.

Chính cái tâm này là điểm đáng lưu ý là Thầy nói rằng khi đến ngã ba đường không biết đường tới nữa thì đứng ở ngã ba chờ Thầy. Đây là điểm hẹn!

Tức là: Thầy muốn dặn rằng: Người Cao-Đài phải biết TRUNG VỚI ĐẠO. HIẾU VỚI CHÍ-TÔN VÀ PHẬT MẪU.

Tại sao phải là 23 Thiên Nhãn?

Bởi 23 cũng là số của Càn Khôn. Càn 3 nét dương. Khôn bằng 6 nét âm, tức nhiên số nét của Âm gấp 2 lần số nét của Dương, cho nên số 23 là ý nghĩa của Tham Thiên lưỡng địa hay còn gọi là tam thiên lưỡng địa là trời ba đất hai là thế.

2/- Luận Đạo: Về Y-lý

Tại sao số 3 và số 5 có tính cách quan-trọng trong đạo-pháp từ xưa đến giờ?

Nhìn vào cơ thể người sẽ thấy rõ: Con người có hai tay và hai chân gọi là Tứ chi, Dịch nói là Tứ-Tượng.

Mỗi một tay cũng như chân có sự cấu-hợp giống nhau:

- Phần cánh tay trong có một xương dài, cánh tay ngoài có hai xương dài, thành ra tay cũng như chân mỗi chi đều có 3 xương dài, mỗi mỗi là 3 chiếc xương.

- Mỗi bàn tay hay bàn chân đều có 5 ngón..

Cộng cả hai con số này lại thì bằng (3+5=8) 8 là con số Bát-quái. Như vậy con người có 4 chi cả thảy: hai tay, hai chân; cũng như Đạo-pháp có 4 Bát-quái vậy.

Sự cấu-hợp về tay chân của người như vậy thì dầu cho cả thế-giới đều không ai khác ai hết. Đó là tính cách quan-trọng trong cái tự-nhiên của đất trời. Nếu một người mà thiếu một bộ phận nào như trên thì gọi là sự tật nguyền, bịnh hoạn hay dị tật mà thôi chứ không phải là một con người toàn diện được.

Ba lần cái Tam-bửu (3x3=9) tức là con số 9 là số Dương cùng cuối. Bởi đến cùng cực cái động thì trở lại trạng-thái thái tịnh nguyên-thủy, cho nên số 9 biến thành số 0 (đó là phép thử toán học) Dịch gọi là số lão Dương, lão là già, già thì biến đổi. Biến đổi để trở lại ban đầu, thì số 1 là số khởi, là số Thái-cực, là số Dương. Lấy hai con số này làm ngày Đại-lễ Đức Chí-Tôn tức là ngày 9 tháng 1 (giêng) âm-lịch hằng năm.

Ba lần con số 5 (3x5=15) 15 là con số trung-hòa của vũ-trụ, nên lấy ngày 15 làm ngày vía Đức Phật-Mẫu. Đó là ngày 15 tháng 8. Con số 8 cũng là cơ hòa trong năm, mà cũng là ngày Tết của nhi-đồng. Vả lại số 8 định cho Bát phẩm chơn-hồn do tay của Mẹ Diêu-Trì sản xuất. Ngày Hội-Yến Diêu-Trì-Cung là ngày 15 tháng 8 là do đó.

Xem ra thì tổng cộng số Thiên Nhãn Thầy trong Đền Thánh có 50 hình tượng cả thảy. Con số 50 này tượng cho trung Thiên-Đồ tức là Bát-Quái Đồ thiên mà Đạo Cao Đài đang sử dụng:

Lưu ý: Khi Đức Hộ-Pháp trấn Thần 23 Thiên nhãn, cũng theo một trình tự, Ngài có giải thích

…Ngài vào cửa bên tả Cửu-Trùng-Đài, đi trấn Thần Thiên-Nhãn chung quanh Tổ Đình, lần lượt từ từ xuống Bát-Quái-Đài, rồi sang qua hữu, hết thảy là 23 thiên Nhãn ngó ra ngoài Đền. Còn 23 Thiên Nhãn bên trong Ngài không trấn Thần vì người Đạo quì ngang sợ ô-uế, không thể coi sóc cho tinh khiết được.

Ngài giải thích 23 “Thiên Nhãn” ngó ra ngoài Đền thì để cho thiện nam tín nữ quì ở ngoài sân lạy vào, đó cũng là nêu ra cho cả thảy từ Đông,Tây,Nam, Bắc hay dầu cho nơi ven trời góc biển, bất cứ nơi nào đến giờ Lễ bái mà biết hướng về Đền Thánh mà lạy, thì đều có được hào quang Thiên-Nhãn chiếu diệu cả. Ấy là Thể-pháp tượng trưng cho bí-pháp này”

Tóm lại: Về Cách thức mà Đức Hộ-Pháp đi trấn Thần trong ngày này cũng rất liên quan đến Bí-pháp của Đạo, tức là đi theo vòng Âm Dương thuận nghịch đó vậy.

Không một việc làm nào trong cửa Đạo mà không có một ý-nghĩa. Duy ta có biết đến hay không biết đến mà thôi.

3/- Phương thức trang trí về hình thể cũng từ trong “Bát-Quái biến hoá toàn đồ” này mà ra

(Hình 46)

Cách vẽ (Hình 46)

Đồ hình đây cũng là Bát-quái biến hoá, cho thấy rằng hình được cấu tạo bằng hai hình tam giác đều đặt thuận nghịch nhau cùng với hai hình vuông cũng vậy, tất cả đều nội tiếp trong vòng tròn lớn tượng trưng càn khôn vũ trụ, mà Thượng-Đế vi chủ.

Hai đường kính đi qua tâm, còn lại các đường thẳng khác nối các đỉnh của tam giác hoặc đỉnh của hình vuông và cũng nối các điểm giao hợp của hai hình tam giác và hình vuông nữa, tạo thành tám đường thẳng xuyên qua tâm, đó là tám con đường đoạt đạo mở ra cho tám phẩm cấp chơn hồn, lần bước trên con đường tấn hoá. Những đường này chia ra tám cung trên vòng tròn đó là Bát-phẩm chơn hồn vậy. Tám đường này nếu lấy từ tâm sẽ thành hai lần số 8 tượng trưng hai Bát-quái Cao-Đài tức là Bát-Quái Đồ thiên và Bát Quái Hư vô, là Thể pháp và Bí-pháp của Thiên Đạo. Nếu phân ra trên là 9 tia hào quang đó là Cửu Thiên Khai hoá, dưới có 7 tia hào quang tượng thất tình, người tu là để biến thất tình thành thất bửu, được về bằng con đường Cửu thiên khai hoá, đạt Cửu phẩm Thần Tiên.

Các đường này cũng chia vòng tròn thành 12 cung, mỗi một cung đặt trên vòng tròn là thời điểm của 12 tháng. Khởi ở tháng Tý thuộc quẻ Phục: có 6 tháng Dương và 6 tháng Âm. Bên trong vòng tròn còn tạo nên một chữ Điền là hình ảnh của Bát-Quái đồ Thiên, tức nhiên Bát-Quái này chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có, đó là con đường Thể pháp mà người tu phải đặt bước đi lên mới trở về được goị là phản bổn hoàn nguyên.

Tam giác ở giữa ấy là tượng ba ngôi: Phật Pháp Tăng. Ở người là Tinh Khí Thần.

Trong đồ hình còn có các số của Bát-quái Đồ thiên nghịch chuyển với Bát-Quái Hậu Thiên, tuy nhiên về số vẫn lấy theo số Bát-quái Hậu Thiên là: Nhứt Khảm, Nhì Khôn, Tam Chấn, Tứ Tốn, Ngũ Trung, Lục Càn, thất Đoài, Bát Cấn, cửu Ly. Tâm của tam giác bao giờ cũng là 0, nhưng bấy giờ lại đứng vào ngũ trung, tức nhiên tâm là số 5. Hay cũng nói là năm con số 0 (00000)

 

Nếu nhìn vào cung Đoài là số 7 tượng cho người là thất tình, nhờ đạo đức giồi tâm nên biết giữ ngũ giới cấm để cho ngũ thường được toàn vẹn, ấy là tâm của người được hoà nhập vào tâm của vũ-trụ. Nếu cả thế giới cũng hoà nhập trong không khí đạo pháp như vây thì Tôn giáo mở ra sẽ bất diệt với thời gian. Thế nên Thầy nói Đạo mở ra bảy trăm ngàn năm. Phân tích ra thấy số 7 ứng với quẻ Đoài, năm con số 0 là nhập vào ngũ trung, nên lấy số 7 đặt trước 5 con số không (00000) thành ra 700.000, gọi là thất ức niên vậy. (tức là 7 trăm ngàn năm.)

Chữ Điền trong Bát-Quái họp bởi những con số trên, thì có các kết quả sau:

Để biểu tượng cho sự biến hoá vi diệu của các Bát Quái nên những hình ảnh trang trí trong Đền Thánh hoặc dưới hình thức này hay hình thức khác cũng từ những nguyên tắc căn bản trên mà ra.

(H.48) Thiên-Nhãn Thầy

►Xem tiếp CHƯƠNG 05 >>>>>

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009