DỊCH LÝ CAO ĐÀI

 

 
(Là thứ tự của các Quẻ Dịch)

 
  1. Thượng kinh
    Diệu dụng của hai quẻ Khảm Ly
  2. Hình nhi hạ Dịch

Khi làm Dịch Thánh-nhân đã khảo sát rất kỹ về ý nghĩa của từng sự việc có liên đới với nhau: cả về sự tiến thoái, tồn vong, âm dương ngũ hành sinh khắc, theo vòng thuận nghịch rất là chặc chẽ. Nghiên-cứu Dịch cần phải am tường về thứ-tự của các quẻ. Vì mỗi một chi tiết về Dịch có một tầm quan trọng vô cùng. Thử tìm hiểu 64 quẻ ứng với 64 thời điểm của Cao-Đài Đại-Đạo. Xưa nay các nhà nghiên-cứu về Dịch thì rất nhiều, như:

- Ông Nguyễn Mạnh Bảo được Đức Hộ-Pháp để lời khen tặng, nhưng Ông chuyên về khoa học chỉ lấy thuyết Nguyên-tử để dẫn chứng Dịch-học.

- Ông Phan-Bội-Châu thì chỉ bàn về Chánh trị.

Còn rất nhiều nhà Dịch-học như Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn-Duy-Cần… nhưng mỗi mỗi bàn về một vấn đề khác nhau. Nay Soạn giả muốn xiển dương chơn lý chánh truyền của Cao-Đài Đại Đạo nên mạo muội đem chơn lý của Đạo Cao-Đài ra dẫn giải, mong được góp nhặt những ý kiến hay, nhưng chắc chắn sự khởi điểm bao giờ cũng còn nhiều thiếu sót và rất cần nhiều ý-kiến bổ túc cho ngày được dồi-dào hơn.

Trong 64 quẻ đặt theo thứ tự thì chia làm 2 Kinh:

- Thượng Kinh có 30 Quẻ, mà Càn Khôn ở đầu hết, Khảm Ly là cuối của Thượng kinh tức nhiên là ở trung gian của toàn bộ Kinh Dịch.

- Hạ kinh có 34 Quẻ mà Hàm, Hằng ở đầu Hạ Kinh, Thuỷ Hoả Ký tế, Hoả Thuỷ Vị tế đặt cuối hạ Kinh.

1- Thượng kinh có 30 quẻ:

Trước hết là ngôi Thái-cực tức ngôi cao cả, tượng trưng ngôi của Đức CHÍ-TÔN Ngọc-Hoàng Thượng Đếquẻ KIỀN (quẻ 1) đồng thời có ngôi PHẬT-MẪU là Thái cực sanh Lưỡng nghi tượng quẻ KHÔN (quẻ 2). Hai ngôi đã đủ, là Âm Dương hoà hợp mới biến sanh hằng hà.

Ngay buổi ấy Chí-Tôn đã định “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nên khiến các bậc tiền bối trong cửa Đạo họp nhau Xây bàn cầu Cơ thỉnh Tiên gọi là thú tiêu khiển giữa lúc vận nước đang chịu lệ nô, muôn dân đồ thán. Các Ngài mang sẵn bầu nhiệt huyết muốn làm gì để cứu lấy non sông và đồng bào, đúng vào ý muốn của Thượng-Đế nên thừa dịp nhờ Diêu-Trì-Cung đem văn thơ giáng bút để dẫn dụ các Ngài vào con đường đạo-đức, hầu mở đường xuất Thánh, ấy là lúc Thượng-Đế chuẩn-bị cho dân-tộc Việt-Nam một mối Đạo Nhà, đó là Thời-kỳ Tiền khai Đại-Đạo. Vạn sự khởi đầu nan mà! Bao nhiêu truân khó buổi đầu mấy ai tránh khỏi là thời TRUÂN (quẻ 3).

Đấng đầu công là Đức Hộ-Pháp, một trong ba người Đệ-tử đầu tiên là ba ông Cư, Tắc, Sang. Sách nói “Ba người lập thành Đại-Đạo”. Đó là thời Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ ứng với quẻ MÔNG (quẻ 4), vì Đạo mới hình thành như một cây non nớt vừa nhú mầm trong đất thì phải chịu truân khó đến bực nào! Ngày khai Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chính thức vào ngày 15-10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức Chí-Tôn lập Pháp Chánh-Truyền và dạy các chư Thánh hội nhau lập Tân Luật để phân quyền các Chức sắc cho khỏi tranh quyền nhau là Pháp Luật Đại-Đạo, đó là thời NHU (quẻ 5) là một nhu-cầu thiết yếu.

Tuy nhiên bao giờ những cái khẩn thiết nhứt thì nó sẽ trở thành con dao hai lưỡi. Bấy giờ sự Thương yêu bắt đầu rạn nứt vì có người nghĩ rằng sao người nhỏ lại được giao cho việc lớn, mà người lớn chức ngoài đời đôi khi lãnh phần khiêm tốn hơn. Nhưng quên rằng quyền Chí Tôn là tối thượng.Với người nhỏ mà cao ngôi ở Thiêng liêng vị. Trẻ tuổi mới dùng lâu bền, vì đó mà bất đồng chánh kiến rồi sinh chia phe phân phái nhau làm nên thời TỤNG (quẻ 6). Mười hai chi phái khởi từ đây, “gà cùng một mẹ bôi mày đá nhau”. Tất cả những vị không tùng theo Hội Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây-ninh đều tự ý chia thành phe nhóm lấy tên này tên nọ lập riêng theo ý của mình có tên là phái Bến tre, Minh chơn-lý, Minh chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo… Người muốn vậy trời cũng cho toại nguyện để thử xem có bao nhiêu Ông Trời xuống thế?.

Mỗi mỗi đều tự phong Chức tước cho nhau kẻ lên Đầu sư, người thì Hộ-Pháp, Giáo-Tông. Riêng nơi Toà Thánh còn lại những bậc nghe theo tiếng gọi của Chí-Tôn lập thành Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ y như Pháp-chánh-Truyền mà Chí-Tôn đã ban cho ngay từ buổi đầu, thời của quẻ SƯ (quẻ 7) Tượng Thánh-Thể Chí Tôn.

Khi hoàn thành Hội-Thánh Đại-Đạo thì phải có trật tự đẳng cấp hẳn hoi. Các Chức sắc tu-hành được mang áo mão ra vào Điện Thánh tức là Chí-Tôn ban cho Thiên Tước mà người mặc vào mình với một Nhơn-tước cho cả hai cùng đồng giá trị đó là thời Quẻ TỶ (Quẻ 8). Tức nhiên làm sao cho trọng giá Đời nêu cao giá Đạo, mà áo mão này chỉ là Đức Chí-Tôn cho mượn khi nào thực sự hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng phú thác mới được đối phẩm cùng Thiên tước. Đó là phẩm tước Thiên Đạo.

Sự phân quyền hạn đẳng cấp này quan trọng là do Huyền-Diệu Cơ Bút của Các Đấng Thiêng-liêng giáng Cơ ban cho,quí hay chăng là chỗ đó ấy là thời của Quẻ TIỂU SÚC (quẻ 9). Chính Cơ bút là điều quan yếu để lập thành Đại Đạo tuy giản đơn mà sâu kín nhiệm mầu. Thầy đã dạy đủ lễ nghi phép tắc, lập Tam Trấn Oai-Nghiêm thay quyền Tam giáo, Các nghi thức về Hôn, tang, tế, sự, mỗi mỗi đều do Đức Chí-Tôn phân định đó là thời của Quẻ LÝ (quẻ 10). Lý giả lễ dã. Lý là trật tự nghiêm minh không thể thiếu là Nghi thức Đại-Đạo.

Sở dĩ nhân-loại ngày nay hạnh hưởng phước duyên như vậy là vì nay là Cơ Đại Ân-Xá của Chí-Tôn, đó là một điều hanh thông của thời Quẻ THÁI (Quẻ 11) vậy. Nhưng cái chu kỳ Thái Bĩ xoay vần, nào ai tránh khỏi. Cũng như trời đang quang đãng bỗng đổ trận mưa giông, nước đổ tràn đồng, làm cho mọi người chới với mất hết niềm tin, thời của BĨ (quẻ 12) vậy ôi! Đó là học xong khoá trường cũng phải ra ứng thí chứ! Đậu tiếp tục thăng tiến, rớt ở lại Điạ cầu 68 này nào ai biết được. Nếu không phải là quyền năng Thượng-Đế Chúa cả càn khôn nắm số 12 là Thập nhị khai Thiên của thời Bĩ làm cho Đạo bế như vậy thì không ai xoay chuyển nỗi cơ Trời để đưa nhân loại đến Đại-Đồng thế giới để ứng vào quẻ ĐỒNG-NHÂN (quẻ 13) trong Thánh-ý của Người. Tinh thần Đại Đồng ấy thực hiện được nhờ Đức Chí-Tôn đã dạy cho có đủ tinh thần cao sâu mà Đức Hộ-Pháp mới lập ra Chính sách Hoà bình Chung Sống, ứng vào quẻ ĐẠI HỮU (quẻ 14).

Khi đã thống nhất được tinh thần Tôn giáo thành một khối Đức tin, tức là nhân-loại biết nhìn nhau một Đấng Cha lành, thì Ngài buộc Tam Thánh ký Đệ Tam Thiên Nhơn Hoà ước với Ngài. Trong Tam Thánh thì Đức Nguyễn Bĩnh-Khiêm là bậc Sư phó Bạch-Vân Động xứng đáng vào thời KHIÊM (quẻ 15) phải thực thi cho được hai điều Bác-ái, Công-Bình. Có được vậy thì nhân loại mới vui sống trong cuộc đời an lạc mà từ xưa đến giờ hằng mong ước đời Thánh đức, sống trong cảnh Tháng Thuấn, ngày Nghiêu, thì nay chính là thời-kỳ của Đức Di Lạc Vương Bồ Tát là thời Đạo trị, Ngài đến mở Hội-Long Hoa làm nên thời DỰ (quẻ 16).

Thời Tịch lạc muốn thể hiện trong cõi đời này, trong chu-kỳ 700.000 năm của Đại-Đạo không thể hoàn toàn là cơ hữu hình như Tam giáo trước đây, nên Đức Chí Tôn mới lập ra Tam Trấn thay quyền Tam giáo, gọi là Tam Trấn Oai nghiêm của thời TUỲ (quẻ 17). Bởi tuỳ theo trình độ của nhơn sanh mà tuỳ duyên hoá độ: nếu tu thì thành dữ thời đoạ. Đạo khai Tà khởi, thế nên các Bậc tiền bối phải chịu Án-nạn-pháp, mà nhứt là Đức Hộ-Pháp phải chịu thời gian trấn Thánh Phi châu, chịu nạn cho nhơn sanh trong thời Cổ (quẻ 18) ấy cũng vì không phân biệt được hai lẽ Chánh tà nên Ngài đã lãnh nạn cho dân tộc Việt Nam đồng thời Ngài đã nâng cao tinh thần của Hiệp Thiên-Đài mà Ngài đang Chưởng-quản, ứng vào quẻ Lâm (quẻ 19) “Lâm giả đại dã”. Hiện Toà-Thánh có hai Đài hữu hình là Hiệp-Thiên và Cửu Trùng, mà Cửu Trùng Đài là cơ quan giáo hoá nhơn sanh, ứng vào quẻ Quan (Quán. Số 20). Nhưng Hộ-Pháp Chưởng quản Nhị hữu hình đài, nên Ngài nắm pháp Thiên điều tức là quyền Chí Tôn tại thế, ứng vào quẻ Phệ-hạp (Quẻ 21). “Hộ-Pháp là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo nắm luật của Đời” nên Ngài nắm Bí pháp của Đạo ứng với quẻ Bí (quẻ 22). Cuộc đời vẫn xoay vòng theo lẽ dinh hư tiêu trưởng, nay là lúc Đạo đi vào thời Khai ngươn chuyển thế tức là thời kỳ thử thách của Chí Tôn để phân Thánh lọc phàm ứng vào thời của Bác (quẻ 23).

Nhưng chẳng lẽ Bác hoài như quẻ này 5 Âm đã lấn hết ra ngoài chỉ còn 1 Dương lơ lửng, nên khi qua thời này Đại-Đạo phục hưng đó là quẻ Phục (số 24). Đúng lúc Đạo Cao-Đài ra đời là Đức Chí-Tôn đã Qui Tam hiệp ngũ, nay chấn chỉnh lại tức là cơ qui hiệp đó là quẻ Vô vọng (quẻ 25). Thử hỏi nơi qui hiệp là đâu? Tất nhiên là Tổ đình, là Toà Thánh. Thầy cũng đã nói “Chi chi cũng tại Tây ninh mà thôi”. Vậy Toà-Thánh Tây ninh là nơi chứa đầy Bí-pháp của Đại-Đạo, là quẻ Đại-súc (Quẻ số 26).

Nhưng trong cửa Đạo thì kẻ rước là Thượng-Sanh, người đưa là Thượng Phẩm, trách nhiệm của chi Đạo vô cùng trọng hệ đó là thời DI (quẻ 27). Chính nơi đây là đức tin của nhân loại, là lò giáo hoá nhơn sanh được thành Tiên tác Phật mới mong trở về Con đường Thiêng liêng Hằng sống, mà Phật-giáo gọi là Niết Bàn, ứng với quẻ Đại quá (quẻ số 28). Nay là cơ tận độ toàn vạn linh sanh chúng nên Thầy mở ra Đạo Cao-Đài chỉ vì Tứ khổ của nhân loại đến giờ này cũng chưa giải quyết được ấy là thời của Khảm (quẻ 29) là một sự hiểm nghèo chưa một ai trong cõi trần này tránh khỏi. Duy chỉ có Đại-Đạo ra đời, ánh linh quang của Thượng-Đế soi sáng dưới “Con Mắt Trời” tức là Thiên Nhãn Thầy làm biểu hiệu của nền Đạo này ấy là quẻ Ly (quẻ 30) “Ly vi mục” là thế.

Đến đây là xong phần Thượng kinh 30 quẻ đầu. Cuối cùng của phần này là hai quẻ Khảm Ly

Diệu dụng của hai quẻ Khảm Ly:

Nghĩ kỹ mới thấy chỗ ý-tứ thâm-diệu của Thánh nhân khi đặt Ly ở giữa 64 quẻ, nguyên do có thâm ý lắm, bởi vì hai quẻ Khảm Ly là cái tâm của Trời đất.

Nguyên về Dịch-lý chỉ có nhất Âm nhất Dương phối nhau mà làm nên vạn-vật với muôn hình ngàn vẻ trong vũ trụ này. Càn Khôn giao phối không có gì khác hơn là Thuỷ Hoả, mà Thuỷ Hoả là trung tâm điểm của Càn Khôn, là cái dụng của Càn Khôn. Thuỷ Hoả làm nên cuộc sanh tử của vạn-vật mà con người đứng phẩm tối linh. Không có Thuỷ Hoả thì không có vật gì được sanh tồn trong vũ-trụ này. Khi Càn Khôn giao phối nhau thì:

- Khôn cướp được điểm chơn dương của Càn biến thành Khảm.

- Càn đoạt được điểm chơn âm của Khôn mà thành ra Ly.

Vì thế mà Khảm Ly trở thành trung tâm điểm của trời đất, theo về phương-vị thời Khảm ở phương chính Bắc làm chủ giờ Tý, Ly ở phương chính Nam, làm chủ giờ Ngọ.

Khảm Ly là cái tâm của trời đất hay là cái gốc của tạo-hóa.Quẻ Khảm có cái Dương của mặt trời ở giữa thu được ánh sáng mà thành mặt trăng.

Quẻ Ly có cái Âm ở trong làm đẹp cõi đất bao hàm sự sáng thành mặt Nhựt.Thế nên:

Khảm là Thủy, cơ bản của nó là lạnh, là hàn.

Ly là Hỏa, cái gốc của nó là nóng, là nhiệt.

Khảm là mặt trăng, là nguồn ánh sáng trong đêm.

Ly là mặt trời là nguồn ánh sáng phát ra ban ngày.

Cái dụng của Thủy, Hỏa, nhựt, nguyệt là cái vận hành của nóng lạnh, ngày đêm, đó là sự nhiệm-mầu của tạo-hóa, muôn sự vật từ đó mà đem lại nguồn sống cho muôn loài. Sao trên trời là tượng của quẻ Ly.

Ly là hơi nước (Đoài) kết lại thành mưa tuyết, rồi tan ra nước (Khảm). Khí nóng ở nội tâm quả đất làm rung động (Chấn). Lớp vỏ quả đất có ngày do sự nứt nẻ mà phun ra ngoài thành Hỏa Diệm-sơn. Nét chắp ở trên quẻ Chấn đổi thành nét liền chỉ lửa đỏ ra ngoài hay ở giữa lớp vỏ trong ngoài đều có lửa.

Trong đồ Tiên Thiên Kiền ở phương Nam. Kiền là lửa ngọn có màu xanh, trắng, vàng tùy theo nhiệt-độ cao thấp. Ly là lửa than hồng màu đỏ. Lửa ngọn tắt còn lưu lại đống than hồng nên Kiền thành Ly ở về phương Nam.

Dịch là một bộ sách đủ cả Thiên-Đạo và Thế Đạo:

* Thiên Đạo thuộc về phần Hình nhi thượng.

* Thế Đạo hay Nhân-sự là thuộc phần Hình-nhi hạ

Hình nhi thượng gọi bằng Đạo đủ cả hết ở trong 8 quẻ đơn.Hình nhi hạ gọi bằng Khí, khí 器 là dụng, là đồ dùng, cần yếu nhất là đồ dùng để ăn uống.

2- Về phần Hình nhi hạ Dịch nói rằng:

Có trời đất rồi mới có vạn-vật. Có vạn-vật rồi mới có trai gái. Có trai gái rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi mới có cha con, có cha con rồi mới có vua tôi. Có vua tôi rồi mới có trên dưới. Có trên dưới rồi mới phân lễ nghĩa. Đạo vợ chồng không thể không lâu bền được. Nay một người Tín-đồ trung kiên của Cao-Đài đến với Đạo như tìm người yêu, thế nên Đạo Hàm (Quẻ 31) mở đầu quyển Hạ Kinh, đấy là người biết tìm đến mà Nhập môn cầu Đạo làm Môn đệ của Đấng Chí-Tôn. Điều trọng yếu là phải biết giữ Đạo cho bền tức nhiên Hằng (quẻ 32) là người Đạo phải hành Tam Lập. Có như thế mới về được với Đức Chí Tôn trong buổi Chuyển thế này. Tu trong buổi này không những tụng kinh gõ mõ mà còn phải Phụng sự cho vạn linh nữa.

Vật không thể ở một nơi lâu được, cũng như người tu mà bị cường quyền bức hiếp, buộc phải có được sự bảo vệ là Cơ quan Bảo-Sanh Nhơn-Nghĩa Đại-Đồng là Quân Đội Cao-Đài được thành hình, nhưng thời gian thụ được đức đó chính là thời Độn (Số 33) Độn là lui, chỉ một thời gian ngắn rồi cũng giải tán. Nhưng nhờ nương nơi Việt Nam Thánh Địa là vùng đất Thiêng mà Đức Chí-Tôn đã chọn làm chiếc nôi tình thương để bảo bọc người tu được sống yên lành mà kệ kinh sớm tối nên đây là cuộc Đại Tráng (số 34) tức là sự mạnh-mẽ. Đã có sự cứng mạnh tất phải tiến lên trong tinh thần của người Phước Thiện – Phạm Môn để giúp đỡ người tu, tức là thời Tấn (số 35). Nếu tiến mãi mà không biết dừng ắt bị thương tổn ấy là cuộc Minh-Di (số 36) là lúc phải nghĩ đến những người đã một thời gian hy sinh cho Đạo nghiệp, giờ này yếu tha già thãi phải được cho vào Hội-Thánh Hàm phong mà lo báo bổ ơn xưa. Những người này dù không làm việc trực tiếp như ngày cũ, nhưng là người gương mẫu, nhắc nhở cháu con giữ tròn Đạo nghĩa là quẻ Gia nhân (số 37) tức là trở về với Quốc-Đạo Nam phong. Gia đạo ắt cũng có lúc trái lòng nên thụ được đức ấy thì đến cuộc Khuê (38) Khuê là trái lìa hoặc hỗ trợ nên có Tam Hội Lập Quyền để giải quyết những sự bất trắc trong Đạo. Dù là trái tất phải khó khăn nên thụ được đức ấy sẽ đến thời Kiển (39) Kiển là nạn khó vì nam nữ không sống chung trong những lúc tu hành nên Đức Hộ-Pháp phải lập ra nhà Tịnh riêng cho Nam Nữ nên đó là Tam Cung Cửu Viện đồng thời phân biệt về Hành chánh nữa .Dù khó đến đâu cũng giải quyết được. Giải là quẻ (40) Dịch nói “Giải giả hoãn dã” giải là chậm, từ từ, ấy là cách giải khổ về phần xác và giải thoát cho phần hồn, đó là Giải pháp cứu thế của Đạo Cao-Đài.

Rồi tiếp theo là Tổn (41) là một sự mất mát thiệt thòi như người Mẹ tạo ra người con đã tổn bấy nhiêu công, lớn lên rồi con cái ít khi làm theo lời khuyên của cha mẹ cũng lại là sự mất mát nữa, ấy là tinh thần của Phật Mẫu Diêu-Trì phải đến dẫn độ. Trong rủi cũng có điều may là Chí-Tôn đến mở Đạo là một ơn ích, là đến quẻ Ích (42) tức nhiên đời người muốn sống hữu ích chỉ còn mỗi việc Tu hành mà thôi. Việc tu-hành là một quyết định. Quyết (43) hay Quải tức nhiên con người tu không những kinh kệ mà phải học lý Đạo để triển khai kho tàng văn hoá của Đại-Đạo: Ấy là Văn hoá tương lai lập Đại Đồng vậy. Khi quyết được tất có Cấu (44) hợp được với lòng từ bi tha thiết của Đức Chí-Tôn là áp dụng Nho Tông chuyển thế. Sau đó gặp-gỡ mà tụ hội tức nhiên đến Tụy (45) là khi Nhơn Đạo thành tức nhiên Thiên Đạo rành là ngày đoàn tụ với mẹ Diêu-Trì trong ngày Hội-Yến Diêu Trì-Cung. Tụy để theo chiều hướng cao hơn tức nhiên là Thăng (46) là trở về với Niết bàn, về với Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Nhưng cái gì cũng có biến đổi, nếu không biết dừng thì nó quay ngược lại, trèo cao té nặng ắt Khổn (47) chính là lúc Đạo khai Tà khởi, nên biết bao kẻ đã chịu luân hồi sanh tử.

Bấy giờ trung gian lọt vào giữa hai quẻ Tỉnh và Đỉnh là quẻ Cách.

TỈNH là đồ cung cấp cho người ta về việc UỐNG.

ĐỈNH là đồ cung cấp cho người ta về việc ĂN.

Vì thế mà hai quẻ cặp liền nhau. Thánh-nhân muốn cho người ta biết ở phần lưỡng gian có Đạo mới sanh KHí. Có Khí mới chở được Đạo.

TỈNH, ĐỈNH chẳng qua mướn hai giống Khí để hình dung Đạo-lý thuộc về nhân sự. Nhưng mà nhơn sự thường tất phải thay đổi, nên trung gian quẻ Tỉnh, quẻ Đỉnh đặt vào quẻ Cách đó là ý tứ sắp đặt có công phu.

Nếu Đạo Cao-Đài ngày nay dưới cái nhìn NHÂN NGHĨA đặt vào quẻ Tỉnh (số 48) thì điều Nhân-Nghĩa được thực thi ở mọi từng lớp, mọi Tôn-giáo, mọi giới. Đối với người đã nằm xuống, hy-sinh cho Đạo pháp làm vẻ vang cho nền Đại-Đạo được thờ nơi Báo-Ân-Từ, người hy-sinh cho Quốc tổ thì có Báo-Quốc-từ thiên thu phụng tự. Cho nên tuy Cách (49) mà lòng không cách. Đỉnh (50) muốn cho khắn-khít nhau, hoà đồng tư-tưởng, Tôn giáo, Tín-ngưỡng lại thì Thượng Đế mới dựng nên mối Đạo Trời: Đóng Địa ngục mở từng Thiên. Người mình hay nói “nhất của nhì con” thế nên phải nghĩ đến con trai trưởng là Chấn (51) Chấn có nghĩa là động, đó là hình ảnh của hai vị Đầu sư: Đức Quyền Giáo-Tông và Bà Lâm Hương Thanh, được tạc tượng trước lầu chuông và lầu trống của Đền Thánh, đón rước người Đạo từ muôn phương trở về nguồn cội. Nhưng vật không thể động đến cùng nên khi thụ được đức ấy đến là dừng ở Cấn (52) như bị núi chắn trước mặt, nên người tu là tự làm sáng cho mình bằng phương pháp Tu chơn tức là con đường thứ ba Đại-Đạo là tìm đường về với cõi Hằng sinh. Làm sao phải thoát từ từ ấy là Tiệm (53) là tiềm ẩn, là một tinh thần Phụng sự cao của người Cao-Đài ngày nay như một gái về nhà chồng là cái chót của cuộc đời con gái nên là Qui-muội (54) đó là chỉ Tam giáo thất kỳ truyền được có nơi về ấy là một quyết định lớn trong đời nên thụ đức ấy đến cuộc Phong (55) là lớn, là thịnh, thì trong các Tôn giáo từ trước đến giờ không tôn giáo nào qua Phật giáo. Ngày nay Đạo Cao-Đài các Chức sắc phải đi xa để làm nhiệm-vụ là đến cuộc Lữ (56) như một Chức-sắc hành Đạo ở địa phương là cách Phổ-Độ chúng sanh. Ấy là lúc Người vào khuôn viên đạo-đức “tri hành hiệp nhứt” là thời Tốn (57) Tốn là vào, là xiển dương Văn minh tinh thần cho nhân loại. để sau được đẹp lòng mới đến Đoài (58) tượng trưng cho người con gái út của Thượng-Đế, chính là Phật Quan Âm tới trong ngươn hội này đỡ đầu cho Nữ phái. Rồi cũng phải theo dòng thời gian mà làm hoán cải tà tâm của nhân sanh ấy là thời Hoán (59) nay Đức Chí-Tôn cho làm Thuyền Bác Nhã để đưa người qua bến Giác, nghĩa là mỗi người tự biết tiết giảm hạn chế những thói quen không tốt ấy là cuộc Tiết (60) là sự tiết giảm, hạn chế từ trong lòng mỗi người đó là Ngũ giới cấm, Tứ đại điều qui. Bởi lòng người đã đặt hết niềm tin tưởng với Người đàn Anh có đủ uy-tín là đến Trung-phu (61) là Đức Tin mà Hộ-Pháp nói “Đức tin là kho chí bửu ngoài ra là của bỏ là đồ vô giá”. vậy. Vật thì có lớn nhỏ, nhưng vật trước mắt còn phân biệt cái nhỏ, chí ư vật vô hình thì khó mà phân biệt được nên đến cuộc Tiểu-quá (62) là một vật nhỏ không còn gì nhỏ hơn nó nữa, đó là Nguyên tử cứu người như Đức Hộ-Pháp đã nói. Trong cuộc đời mãi là một vòng tròn không đầu mối, Dịch gọi là “như hoàn vô đoan”, nên khi vừa giáp một vòng rồi tức nhiên Ký-Tế (63) là Âm Dương tương hiệp là cảnh Thiên thai kiến diện. Người khó nhứt là sửa cái tâm, nếu không tu hành chính chắn thì phải chịu cuốn theo một chu-kỳ mới nữa là Vị tế (64) tức nhiên con đường Luân hồi sanh tử mãi còn tiếp diễn không bao giờ dứt, như con người cứ luân chuyển trong định mệnh. Thật là nếu chúng ta không biết quay về với Chân, Thiện, Mỹ, có khác nào:

Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi người mong chen vào.

Tìm ra được cái bổn-nguyên, đặt cái tâm mình ở Hư-vô, dưỡng tâm ở một khí, tuy rằng có Lưỡng-nghi, Tứ Tượng, Bát quái, 64 quẻ nhưng cả thảy đều vận dụng tại chỗ căn bổn là HƯ-VÔ, chẳng hề sanh ra bao giờ, muôn hình đều không, duy có một chữ KHÔNG mà thôi.

Trong một Khí Hư-vô thì làm sao kiết hung gia cho mình, hối lẫn gần bên mình được? Cách sanh quẻ và sắp quẻ của Phục-Hi rất hay. Ngày nay:

“Chí-Tôn đến đặng hiệp con cái lại một nhà của Ngài, trong Thánh-ngôn Ngài còn quả-quyết đó. Ngài đến tạo ra Tân-Thế-giới làm cho nhơn-loại Đại-Đồng. Nếu sự tìm-tàng sắp xếp không đặng kết liễu thì Chí-Tôn sẽ thất hứa với con cái của Ngài mà chớ! Nhưng quả quyết rằng Ngài không bao giờ thất hứa, vì đã được 99 điều rồi Ngài đã thật hành vẹn hứa, không lẽ còn một điều nữa Ngài làm không đặng” (TĐ HP)

 

Kỹ-niệm lần Sinh-nhựt thứ 66
vào ngày 3 tháng 5 năm Mậu-Tý (Dl 6-6-2008)
(Hoàn thành quyển II)

Sáu mươi sáu tuổi ngự lưng voi
Nặng nợ non sông quyết trổ mòi.
Quảy gánh ĐỒ THƠ bình giặc loạn,
Phổ truyền DỊCH-LÝ rít hơi còi
Huơi gươm Thần huệ hoà sanh chúng,
Mài bút Thi văn cũng múa roi.
Cảm nghĩa đồng bào, đồng Đạo khắp…
Ngưỡng ân Thượng Đế tặng vàng thoi

Nữ Soạn-giả
NGUYÊN THUỶ

 

 

SÁCH BIẾU KHÔNG

Xin làm quà tặng các Bạn bốn phương
trong tinh thần xiển dương Đạo học và văn hoá Việt

Nữ Soạn-giả
NGUYÊN-THUỶ

 

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009