TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA

 

MỤC LỤC

Phần giới thiệu
Phần thứ nhứt:
VÕ TRỤ THIÊN ĐỊA
Phần thứ hai:
VÕ TRỤ DỊCH LÝ
Phần thứ ba:
PHƯƠNG CHÂM NHẬP THẾ
Phần thứ tư:
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ
Phần tổng kết

 

 

PHẦN THỨ BA
PHƯƠNG CHÂM NHẬP THẾ


 

CHƯƠNG THỨ TƯ


LẬP NGÔN

Lập ngôn nghĩa là trau dồi lời nói, hiền lành theo lẽ chí thiện. Mà lời nói vốn do khẩu căn phát xuất; thành thử, muốn thực hiện phép Lập ngôn, chúng ta phải làm chủ khẩu căn, để cho mình có đủ ngày giờ suy nghĩ, rồi sau sẽ thốt ra những lời mực thước, chơn thành. Đi sâu hơn nữa, chúng ta biết rằng lời nói là âm thanh, biểu dương tư tưởng, tình cảm ý kiến của người. Ấy vậy, chẳng những phải tịnh khẩu, mà chúng ta còn phải trau sửa tâm hồn, trí huệ nữa thì phép Lập ngôn mới có kết quả viên mãn. Nên biết rằng, thiên hạ lấy lời nói để đo trình độ tấn hóa của mình, còn đối với Luật Trời, một lời nói chẳng lành sẽ có họa trả lại. Vậy đủ hiểu lời nói trọng đại đến ngần nào. Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt bàn phép "Lập ngôn".

a.) LỜI NÓI ĐỐI VỚI LUẬT NHƠN QUẢ

THÁNH NGÔN: "Nơi thân phàm các con, Thầy cho một Chơn linh theo gìn giữ. Chơn linh ấy vốn vô tư, đặng phép giao thông cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật và các Đấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt việc lành, việc dữ, đều có ghi, vậy nên một mãy không sai; lành dữ đều có trả.

Lại nữa, Chơn linh ấy có tánh Thánh nơi mình, chẳng phải gìn giữ các con mà còn dạy dỗ nữa. Đời thường gọi lẫn là Lương tâm. Thánh nhơn xưa nói rằng: Khi nhơn tức khi tâm; khi tâm tức khi Thiên, khi Thiên đắc tội, hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã.

Như các con nói dối, điều ấy chưa dối đặng người, mà các con đã dối Lương tâm rồi. Một lời nói, tuy chưa thi hành, song tội tình cũng đồng thể, như đã có làm. Thầy dặn các con phải cẩn ngôn, cẩn hạnh. Thà các con làm tội mà chịu tội cho đành, chẳng hơn nói tội mà phải tội tình đồng thể".

Ngoài Thánh Ngôn trên đây, chúng ta thấy Kinh Dịch nói rằng: "Xuất từ ngôn thiện, tắc Thiên lý chi ngoại ứng chi. Xuất kỳ ngôn bất thiện tắc Thiên lý chi ngoại di chi". Nghĩa là nói ra một lời lành, thì ngoài xa ngàn dặm ứng lành; nói ra một lời chẳng lành thì ngoài xa ngàn dặm dời đó, tức đổi lành ra dữ.

Câu nầy, đại ý nói rằng: lời nói có sức mạnh làm chuyển động điện lực trong không gian và cảm thông với những tư tưởng đồng khí với nó để rồi cụ thể hòa lẫn nhau, cho đến thành một sự kiện hữu hiệu. Ấy vậy, nên nói lời chẳng lành, mặc dầu chưa thực hành, song tội tình cũng như việc đã thi thố rồi.

Huyền Trân nói rằng: "Nhơn gian tư ngữ, Thiên văn như lôi; ám thất khuy tâm, Thần mục như điện". Nghĩa là lời nói thầm của người; Trời nghe như sấm, những việc tà mị trong nhà kín, Thần thấy như điện.

Theo lẽ trên đây mà suy rộng ra thì lời nói của người ta, một khi thốt ra khỏi miệng rồi, nó có sức vang dội rất xa và nó sẽ có một cái phản lực rất mạnh. Lành thì người nói được phước, chẳng lành thì kẻ nói phải chịu tai họa. Lành dữ báo ứng một mảy không sai.

b.) LỜI NÓI TRONG KHI XỬ KỶ, TIẾP VẬT.

Có bốn điều răn cấm mà kẻ tu sĩ phải triệt để áp dụng vào đời sống của mình.

    1. Cấm vọng ngữ, tức cấm nói dối.

    2. Cấm lưỡng thiệt, tức cấm đem chuyện người nầy thuật lại với kẻ nọ, làm cho hai đàng cãi cọ.

    3. Cấm ác khẩu, tức cấm nói lời hung dữ.

    4. Cấm ỷ ngữ, tức dùng lời khôn khéo để gạt gẫm người ta sa vào tội lỗi.

Lời nói chẳng lành do nhiều nguyên nhân và hình thức khác nhau như:

Vì ghen ghét mà nói xấu người, tự cao mà chê bai người, thù vơ; oán chạ, mà nói lời chẳng lành; tự tôn, tự đại, hống hách, nói càn, sanh ra tranh luận. Ấy vậy, nên chúng ta luôn luôn phải kiểm duyệt lời nói của mình trước khi thốt ra.

Ngoài sự trì giới trên đây, chúng tôi xin đề cập thêm một pháp môn nữa là "Tịnh khẩu", tức kiềm chế khẩu căn vào cảnh thanh tịnh. Đành rằng lời nói do tâm mà sanh, ngược lại, lời nói cũng có ảnh hưởng đến tâm, cho nên kẻ nói nhiều thì bị loạn tâm; ít nói tâm được yên lặng.

Trong số vạn vật, duy có loài người biết nói, mà cũng vì biết nói, nên người ta sanh nhiều lời cãi cọ; nhiều việc tranh luận. Có một vài trường hợp, người ta đánh giết nhau cũng vì tiếng nói. Ấy vậy, nên sự Tịnh khẩu rất cần, nhứt là hàng tu sĩ cần Tịnh khẩu, để có ngày giờ suy nghĩ trước rồi sau sẽ nói.

Anh nên tập làm thinh; nhờ sự trầm lặng mà những quyền năng sâu kín sẽ tiết lộ; tư tưởng được ổn định. Anh phải theo chơn lý mà khai thông nó. Trong lúc hội đàm, anh nên lặng thinh và suy nghĩ những ý kiến của đối phương phát biểu. Đó là phương thức tạo sức mạnh, để rồi thốt lên những lời hòa giải, dung hợp tất cả ý kiến của người và bàn luận trong bầu không khí vui tươi, thuận thảo.

Một mình anh không thể có đủ sáng kiến để giải quyết mọi vấn đề. Tại sao anh buộc người khác phải theo ý kiến của anh? Phải để cho người ta bàn luận, tìm rõ lẽ phải. Làm thinh là cái gương thuyết giáo nhiều hơn lời nói. Đó là bước đầu tiên để đi đến chinh phục sức mạnh trong người mình và ở chung quanh mình.

Chúng ta phải làm chủ kỳ được khẩu căn. Chúng ta nói thật ít, càng ít càng hay. Chẳng những không nói hành; không nói xấu người, mà chuyện vô ích chúng ta cũng chẳng nên nói nữa.

Đức Lão Tử dạy chúng ta rằng: Ít nói thì mình theo được đạo tự nhiên. Rồi Ngài đặt thí dụ cho chúng ta hiểu. Ngài nói: "Chiêu phong bất chung triêu; sậu võ bất chung nhựt. Thục vi thử dã? Thiên địa. Thiên địa, thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhơn hồ!". (Đạo Đức Kinh chương 23). Nghĩa là trận gió lớn chẳng trọn buổi sáng; đám mưa to chẳng trọn cả ngày. Thử hỏi ai làm việc đó? Trời Đất. Thế thì Trời Đất còn không làm được việc lâu dài, huống chi người ta.

Đại ý bài này nói rằng: Kẻ tu sĩ ở vào hoàn cảnh nào, thì cứ an vui theo cảnh ấy. Ở với Đạo thì vui theo Đạo; ở với Đức thì vui theo Đức, ở với Nhân, Nghĩa, Lễ thì vui theo Nhân, Nghĩa và Lễ chớ cần chi phải vọng cầu vô ích.

Tuy thế mà chẳng lẽ chúng ta làm thinh mãi, thành thử, phải nói, nhưng nói thật ít; càng ít càng hay.

Ở đời, có những tư tưởng biến đổi được lòng người, có những tư tưởng làm nên sự nghiệp. Những tư tưởng ấy là ngọn đuốc thiêng dẫn dắt người ta vào cõi chí thiện. Chúng ta nên dùng lời nói của mình để phát biểu những tư tưởng giống như vậy. Trái lại, tư tưởng nào có tánh cách xoi bói người khác, hoặc làm hại người, hại vật, thì hẳn chúng ta không nên dùng lời nói của mình mà phát biểu nó ra ngoài.

Ông Mã Phục Ba nói: "Nghe người lầm lỗi cũng như nói tên cha mẹ mình. Tai nghe nhưng không chịu lập lại. Ai nghe lời lành mà quì lạy, như Vua Võ; ai nghe điều quấy của mình mà vui mừng, như Thầy Tử Lộ. Hạng người như vậy quả thật là người có khí phách Thánh Hiền".

Phải biết rằng lời nói chẳng lành chưa hại người mà nó đã hại mình, cũng như ngậm máu phun người, trước nhơ miệng mình. Ở đời thường xảy ra nhiều chuyện đôi co là tại mình hay nói. Kẻ sĩ gặp nhau nên nói những lời hữu ích, cùng người già nên bàn lẽ dạy con em; cùng trẻ thơ nên nói lẽ thảo thận, cùng chúng nhơn nên bàn trung tín, tư tưởng. Cường ngôn đoạt lý sẽ có phương hại chánh nghĩa, một lời nói mích lòng có thể phá hư Chơn đạo. Trang Tử nói: "Nói một lời lành thì ấm áp, như mặc y phục bằng vải, bằng lụa. Nói một lời có hại như dao đâm mình. Người ở đời chẳng nên lấy sự nói nhiều làm hơn, chớ khá lấy sự vui cười làm điều hay. Một vết thương do dao đâm, dễ lành hơn lời nói dữ. Miệng là cái búa giết người; lời nói là cái dao cắt lưỡi, cho nên người nào giấu lưỡi thật kín thì thân được yên. Người ta trong lúc khốn cùng, nếu khéo dùng một lời nói lành thì có thể cởi mở người trên và để phước hậu cho kẻ dưới".

Được nghe một lời phải cũng như được vàng ngọc. Nghe lời phải vui hơn nghe đờn cầm, đờn sắt, cho nên lời phải quí hơn văn chương, thi phú. Mình ít nói thì người ít bàn soạn đến mình, ít lòng dục thì giữ được Tâm. Thuốc hay đắng miệng, nhưng lợi cho bịnh; lời nói chánh nghe trái tai, nhưng lợi cho việc làm. Có lỗi mà không biết sửa, ấy là che lấp mình. Cũng vì nói mà bị oán thù. Ấy là tự làm cho mình mắc họa. Xảo ngôn thì loạn đức. Kẻ hay trách thiện người ta thì chẳng hay kết bạn vẹn toàn. Người nào hay dung túng mình thì người ấy không hay chừa lỗi lầm.

c.) CẨN NGÔN

Một hôm, Đức Khổng Phu Tử vào Miếu đường nhà hậu tắc (trào nhà Châu). Ngài trông thấy một cốt tượng người bằng vàng. Nơi miệng có ba sợi dây buộc, lại thấy phía sau lưng có khắc chữ rằng: "Đừng nói nhiều, vì nhiều lời nói thì nhiều lầm lỗi; ít bày việc thì ít lo sợ, lúc yên vui phải lo giữ gìn. Đừng tưởng không hại mà lầm. Cái hại nhỏ lần lần hóa ra to. Cũng đừng tưởng chẳng ai nghe mà chẳng sợ, vì lời nói thốt ra nó theo điển lực truyền đi rất xa. Phải giữ gìn khi chưa nói cũng như lửa, khi mới dập tắt, nếu để đến khi cháy bừng thì làm sao được, cũng như nước hồi còn ít phải lo ngăn đón, nếu để khi thành sông rồi thì làm sao được, cũng như cây, khi mới mọc thì phải lo nhổ, nếu để lớn rồi phải dùng rìu búa mà cốt. Cẩn thận là gốc của điều phước. Người quân tử biết thiên hạ không thể tránh hơn được, cho nên hạ mình ở chỗ thấp, biết kẻ chúng nhơn chẳng chịu ở sau; cho nên người quân tử lui lại sau. Khiêm cung nhỏ nhẹ, thì người ta mến".

Khi về đến nhà, Đức Ngài bảo kẻ Môn đệ rằng: "Các trò nên nhớ những điều này. Lời ấy quả là chơn ngôn".

Vàng ngàn lượng là quí, nhưng chưa bằng một lời lành. Bởi vì ngàn vàng dễ kiếm, lời Thánh khó tìm. Cầu người tha lỗi, không bằng mình đừng phạm lỗi. Người trí xảo hay luận bàn, người quê dốt ít nói năng. Ai xảo trá nấy nặng nhọc; ai quê dốt được yên vui. Người xảo trá mất Thiên lương (Tánh Trời phú cho), người quê dốt hay giữ được bổn tánh, lanh lợi gặp hung dữ; quê dốt gặp hiền lành. Ôi! Phải chi Thiên hạ quê dốt thì ĐẠO ĐỨC hoằng khai đáo để!

Tuy thế mặc dầu, nhưng gặp người đáng nói cũng phải nói. "Khả dữ ngôn, nhi bất dữ nhi ngôn, thất nhơn. Bất khả dữ ngôn chi, nhi dữ chi ngôn, thất ngôn. Trí giả bất thất nhơn, diệc bất thất ngôn".

Nghĩa là gặp người đáng nói mà chẳng nói thì mất người, gặp người chẳng đáng nói mà nói thì mất lời. Kẻ trí không để mất người mà chẳng để mất lời. Đại ý bài nầy nói rằng tuy chúng ta cẩn ngôn, cẩn hạnh; nhưng gặp trường hợp đáng nói thì phải nói. Giữa đám đông người, nếu chúng ta nói ra một lời nói có lỗi thì mặt mày hổ thẹn. Bởi vậy, nên lời nói chẳng khá chẳng dè dặt. Miệng là cửa hại người, nên có câu nói: "Họa tùy khẩu xuất".

d.) NÓI HAI ĐẦU

Chuyện người mặc người lo, chúng ta chẳng nên đem việc người nầy học với kẻ nọ mà phải sanh đôi co, cãi cọ.

Giấu sự lành của người là che lấp người hiền, bày việc dữ của người là tiểu nhơn. Nói cái lành của người thì mình vui, như mình đã có điều lành ấy, nói cái dữ của người cũng như mình đã mang việc chẳng lành ấy. Khi người ta chê mình thì đừng nổi giận, khi nghe người ta khen mình thì chớ vội mừng. Khi nghe người ta nói điều dữ của kẻ khác thì mình chớ vội chê. Trái lại, khi nghe người ta nói cái tốt của kẻ khác thì mình vui mừng hòa theo. Cổ thi có câu:

Chánh văn Thích nôm
Lạc kiến thiện nhơn, Vui thấy người hiền,
Lạc văn thiện sự, Vui nghe việc lành,
Lạc Đạo thiện ngôn, Vui nói lời lành,
Lạc hành thiện hành. Vui làm việc lành.

Nghe việc xấu của người như mình đạp chông gai; nghe việc tốt của người cũng như mình mang bông lan huệ. Đức Khổng Phu Tử nói: "Đem chuyện đầu nầy nói đầu kia là tự bỏ Đức mình vậy".

Trong sự giao du với bằng hữu, nên lấy điều ngay lành mà bảo thẳng; khéo tìm cách khuyên răn, nếu chẳng nghe thì thôi; chớ đừng chuốc lấy nhục. "Trọng cáo nhi thiện Đạo chi, bất khả bất chỉ, vô tư nhục yên". (Luận Ngữ).

e.) THỦ TÍN

Tránh lời dữ, nói lời lành và cũng phải nói nhỏ nhẹ, lễ phép. Còn khi nói ra rồi phải giữ lời nói của mình. Cổ nhơn nói: "Nhơn vô tín bất lập". Nghĩa là người không được tín nhiệm thì không làm nên được. Lại nói: Người không đức tính cũng như xe không gọng kéo. Xem đó đủ biết thủ tín là quan trọng dường nào?

Đức Lão Quân nói: "Người quân tử nói ra một lời bốn ngựa khó theo". Thủ tín là một đức tánh quan trọng trên đường giao tế. Vua tôi thất tín thì nước chẳng yên; cha con thất tín thì nhà chẳng hòa; anh em thất tín thì xa nhau; bậu bạn thất tín thì tình giao hảo phải đứt.

Những lời lẽ trên đây chúng ta nghiền ngẫm cho thành thói quen. Thói quen gọi là hạnh, hay hạ đức, rất cần khi xử sự tiếp vật.

TÓM LUẬN

Trong cõi lòng chưa có vọng động, thì đã có sẵn một điểm Minh đức ngự trị. Nho giáo cho Minh đức là đức của Trời phú cho người. Nó sáng suốt viên thông, có thể cảm ứng với Trời Đất, quán triệt Càn Khôn, tinh thông vạn vật. Giá như người ta giữ được cái đức ấy, để làm ngọn đuốc thiêng, rọi đường cho mình hành động thì ắt người ta được trọn lành. Nhưng có điều khó khăn cho người ở thế gian là vì họ còn phải vật lộn với đời sống vật chất, và còn phải lo tròn những bổn phận làm người. Ấy vậy, nên chúng ta phải thực hiện bốn đức thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí đã kể trước kia, để thay thế cho Minh đức trong lúc đức nầy chưa xuất hiện hoàn toàn. Thực hiện nghĩa là phải học tập thế nào cho bốn đức thường biến thành hạnh kiểm của mình, và sẵn sàng ứng đối xử sự tiếp vật.

Thứ nữa, phải kiểm điểm lại cách hành động, nói năng và phải sửa lại, nếu có tật hư, nết xấu.

Ở đời, nếu dùng Minh đức để rọi Thiên lý cho mình làm theo cũng như chúng ta dùng một ngọn đèn Trời chiếu diệu từ trên từng lầu trên xuống tận đến đất; rồi thung dung theo đó mà tiến thoái, dầu chưa bằng bậc Chí thiện, song cũng khá vậy.

Nên giữ hành động của mình cho trúng tiết. Vả lại, mỗi việc đều có mức thích đáng của nó. Hành động chưa đúng mức, thì việc làm ấy là sai; hoặc quá mức thì việc làm ấy cũng chẳng đúng. Đạo Trời chủ nơi sự điều hòa của nhị khí Âm Dương. Nếu Dương thạnh quá thì nóng; còn Âm suy quá thì không đủ lạnh để chế ngự nóng, rồi muôn loài phải khô táo. Đạo người chủ nơi Nhân, Nghĩa. Nhân quá thì yếu, Nghĩa quá thì khắc, Nhân thiếu thì ác, Nghĩa thiếu thì bạc. Hành động hoặc thái quá, hoặc bất cập, không đúng mức, thì thiên lệch cả.

Ví dụ: Nấu nồi cơm.

Lấy chừng đó gạo, đổ bao nhiêu nước, chụm lửa bao lâu. Có khi phải nhiều lửa, có khi phải it lửa. Trong những việc nói đây, nếu có một không đúng mức, thì nồi cơm: hoặc sống, hoặc cháy, hoặc nhảo, hoặc khô.

Ví dụ nấu nồi cơm đây, có lẽ dể hiểu lắm rồi.

Đạo Trời chi phối đời sống người ta bằng sự điều hòa, đúng mức, như đã nói trên. Ấy vậy, nên kẻ học luôn luôn giữ sự điều hòa nơi mình, tức điều hòa Tâm lý và Sanh lý; điều hòa với người nầy, kẻ nọ; từ gia đình ra ngoài xã hội, điều hòa thế nào cho giữ được thế quân bình cần thiết cho sự tấn hóa sanh tồn của mình và của vạn vật.

 

Chúng tôi thể theo sách Đại học: bàn sơ lược sự tu thân, âu cũng giúp một tia sáng vào phần "Phương châm nhập thế" của mình.

Cổ nhân rất chú trọng sự tu thân, họ thường bảo nhau: Từ vì Thiên Tử tới kẻ thứ dân, hạng người nào cũng phải tu thân trước rồi sau mới biết đường làm những bổn phận khác như: Tề gia, trị quốc, và bình Thiên hạ. Sửa mình là gốc đạo làm người; nếu gốc đã loạn thì ngọn không bao giờ yên được.

Thế mà tu thân là gì?

Phần "Phương châm nhập thế" đã nghị luận phép Tam lập (Lập đức, lập công và lập ngôn) cũng như trong sách Đại học nhắc thiên Khang cáo và thiên Thái giáp bảo rằng: "Khắc mình tuấn đức, giai tự minh dã". Nghĩa là sáng cái đức lớn của mình là tự giác, tức tự tu, tự độ vậy.

Vậy chữ "Lập đức" đã nói trong phần "Phương châm nhập thế" tức là đã thực hành được bốn điều mục của sách Đại học là "Cách vật, Trí tri, Thành ý và Chánh tâm". Công phu ấy, đại để là khám phá, tuyệt trừ nhơn dục, cầu cho bản tâm thanh tịnh vô vi. Hễ Tâm tịnh thì cái Minh đức cũng như lòng Nhân, ung dung phát triển sở năng tự nhiên của nó, chúng ta nương nó để thông cảm với Thiên lý, chủ trương đời sống của mình. Đó là thực hiện câu "Nhơn dục tận tịnh, Thiên lý lưu hành", còn Lập công và Lập ngôn là pháp môn đào luyện Thân căn và Khẩu căn cho được thuần thục, để chúng nó phát biểu trọn vẹn tư tưởng cửa Minh đức. Làm được như thế tức Thân, Khẩu, Ý đều khuynh hướng về Chí thiện vậy.

Về cách xử thế, Mạnh Tử bảo rằng: Ở thì nên ở chỗ quảng đại của thiên hạ, đứng thì nên đứng vào địa vị chánh đáng của thiên hạ, đi thì đi trên con đường lớn của thiên hạ. Khi đắc chí thì cùng nhơn sanh noi theo Đạo cả; lúc không đắc chí thì một mình giữ lấy đạo nghĩa của mình. Giàu sang không thay lòng, nghèo hèn không đổi dạ. Sự lập thân hành đạo dầu gian nan cũng đừng thối chí.

Đạo Đức Kinh chương 8 chép lời Đức Lão Tử nói rằng: Bậc Thượng thiện tánh giống như nước. Nước thì hay làm lợi muôn vật mà không tranh. Ở chỗ mà người ta hay chê, tức chỗ thấp, lánh chỗ cao mà tìm chỗ thấp, để lấp đầy những cái gì còn thiếu trên mặt đất: cho nên nói rằng nước hay chọn chỗ thấp; hay chịu chỗ thâm sâu. Xử thế thì dùng lòng Nhân; nói thì trung tín không sai chạy mà làm việc thì hợp với tài năng, cử động thì hợp thời. Ôi! Vì không tranh cho nên không lỗi lầm.

Chúng ta nên biết rằng: Trời muốn giáng một trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước khiến cho khổ tâm chí (trí), mệt nhọc gân cốt, đói rét thể xác, cùng quẩn thân thể; hễ muốn làm việc gì thì hoàn cảnh khiến gặp điều nghịch lý trở ngại. Trời làm như thế, để kích thích tâm tánh kiên nhẫn của người ấy, hầu có đủ nghị lực xúc hành những việc chưa làm được. (Cồ Thiên tương giáng đại nhiệm ư thị nhơn dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, khống hạp kỳ thân, hành phận loạn kỳ sở vi. Sở dĩ động tâm nhẫn tánh tăng ích kỳ sở bất năng, Mạnh Tử).

Đạo thơ gọi đó là thử thách, cũng như học sinh, sau năm học rồi phải chịu khảo thí rồi mới ban cho cấp bằng.

Xem tiếp phần thứ tư: PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ

[ Hình Bìa ]

 
Last changed: 09-03-2005