THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN I & II
Hợp Nhứt & Chú Thích

 

MỤC LỤC

 


MỤC LỤC
THI TẬP & THI VĂN DẠY ÐẠO

THI VĂN DẠY ÐẠO

Phần 1: Thơ Ðường luật (8 câu): (1-9)

1.

Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Ðỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

2.

Tân tả BẠCH NGỌC KINH

Một Tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,
Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

3.

Huỳnh lương một giấc cuộc đời in,
Có trí có mưu phải xét mình.
Phú quí lớn là giành với giựt,
Lợi danh cao bởi mượn và xin.
Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,
Một kiếp đeo đai mối nợ tình.
Biết số biết căn tua biết phận,
Ðường xưa để bước lại Thiên đình.

 

CHÚ THÍCH:
Bài thi số 3, cặp trạng ở trên là chép theo bản Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển 1 in năm 1964, còn bản in năm 1928, cặp trạng trên là:

Danh lợi lớn là giành với giựt,
Phú quí cao bởi mượn và xin.

4.

Ðời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương đời nên mới đến đem đường.
Ðường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khéo để gương.
Gương Ðạo noi theo đời Thuấn Ðế,
Ðế dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ, ai là chí,
Chí quyết làm cho thế khác thường.

 

CHÚ THÍCH:
Thuấn Ðế:
Vua Thuấn, nối ngôi vua Nghiêu. Dưới 2 thời vua nầy, dân chúng sống trong cảnh thái bình thạnh trị.Văn Vương: Vua Văn Vương là vị vua khai sáng ra nhà Châu bên Tàu. Ngài có công nghiên cứu và chế ra Bát Quái Hậu Thiên, giải thích Kinh Dịch. Lối Văn Vương: Ðường lối của vua Văn Vương là dụng đạo đức để thu phục lòng người.

5.

Thanh thanh nhựt nguyệt Cửu Trùng Thiên,
Hiện xuất cao nhơn tại nhãn tiền.
Bất quản hổ tranh thâu Bắc Cực,
Chỉ nguy long đấu đoạt Nam Uyên.
Sanh tồn cụ pháp vô công trác,
Tử hậu cùng đồ uổng lộ diên.
Hữu đạo, hữu công du tự khả,
Vô công, vô đạo tổng đồ nhiên.

 

CHÚ THÍCH:

Bài thi số 5 viết ra chữ Hán sau đây:

青青日月九重天
現出高人在眼前
不管虎爭收北極
只危龍鬥奪南淵
生存具法無功琢
死後窮途枉路延
有道有功逾自可
無功無道總徒然

GIẢI NGHĨA:
Trời xanh, mặt nhựt, mặt nguyệt và Cửu Trùng Thiên,
Trước mắt xuất hiện một vị cao nhơn.
Không quản ngại cọp tranh giành thâu cõi Bắc,
Chỉ hiểm nguy rồng tranh đấu đoạt vực Nam.
Ðầy đủ các pháp để sanh tồn, không cần công sức giồi mài,
Sau nầy đến đường cùng thì chết, uổng công kéo dài con đường.
Có đạo có công thì tự mình vượt qua được,
Không đạo không công thì tất cả không được gì cả.

6.

Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Ðài truyền Ðại Ðạo,
Hảo phùng Ngọc Ðế ngự trần gian.
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban.

 

CHÚ THÍCH:

Bài thi số 6 viết ra chữ Hán sau đây:

好南邦好南邦!
小國早開會涅槃
幸遇高臺傳大道
好逢玉帝御塵間
施恩濟眾千災盡
若實若虛萬代安
至寶人生無價定
能知覺世敕高頒

GIẢI NGHĨA:

Tốt đẹp thay nước Việt Nam!
Một nước nhỏ sớm khai Hội Long Hoa.
May mắn gặp Ðấng Cao Ðài truyền cho nền Ðại Ðạo,
Tốt đẹp gặp Ðấng Thượng Ðế ngự xuống cõi trần.
Ban ơn, cứu giúp dân chúng ngàn tai nạn mất hết,
Như là thực, như là không thực, muôn đời an ổn.
Rất quí báu cho nhơn sanh, không thể định giá trị được,
Nên biết giác ngộ người đời thì được Ðức Chí Tôn ban thưởng.

Cặp trạng của bài thi nầy thường được dùng làm đôi liễn viết vào hai bên Thiên Bàn thờ tại tư gia.

7.

Hữu vân hữu võ hữu phong ba,
Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quí hòa.
Thiên Ðịa Càn Khôn kiêm vạn loại,
Nhơn quần thảo mộc cập chư hoa.
Ly kỳ cảnh vật cao nhơn thưởng,
Ðáo để san hà thượng khách ca.
Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?
Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?

 

CHÚ THÍCH:

Bài thi số 7 viết ra chữ Hán sau đây:

有雲有雨有風波
日月陰陽四季和
天地乾坤兼萬類
人群草木及諸花
離奇景物高人賞
到底山河上客歌
我問諸儒何手造
敬吾為主道如何

GIẢI NGHĨA:

Có mây có mưa, có sóng gió,
Mặt trời, mặt trăng, khí âm, khí dương, bốn mùa hòa hợp.
Trời Ðất, Càn khôn thế giới bao gồm vạn vật,
Loài người, thảo mộc, đến các thứ hoa,
Cảnh vật đẹp lạ lùng cho cao nhơn thưởng thức,
Cảnh núi sông, thượng khách hết sức ca ngợi,
Ta hỏi chư nhu, tay ai tạo ra các thứ ấy?
Kính Ta làm chủ, nền Ðạo liệu như vậy sao?

8.

Ngọc ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào.
Giáng ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
Thế tạo lương phương thế cộng giao.
Giáo hóa nhơn sanh cầu triết lý,
Ðạo truyền thiên hạ ái đồng bào.
Nam nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
Phương tiện tu tâm kế diệt lao.

 

CHÚ THÍCH:

Bài thi số 8 viết ra chữ Hán sau đây:

隱石岐玉自高
天不負志英豪
頒福幸人同樂
造良方世共交
化人生求哲理
傳天下愛同胞
人醒感生高氣
便修心計滅勞

GIẢI NGHĨA:

Ngọc ẩn trong đá núi, ngọc ấy tự nó có giá trị cao,
Trời không phụ ý chí của người anh hùng hào kiệt.
Giáng trần để ban hạnh phúc cho loài người cùng vui vẻ.
Ðời tạo phương hay, đời giao hòa cùng chung với nhau.
Giáo hóa nhơn sanh cầu cái triết lý cao siêu của Ðạo,
Ðem Ðạo truyền cho dân chúng biết thương yêu đồng bào.
Người Việt Nam  tỉnh ra cảm ứng sanh chí khí cao thượng.
Phương tiện tu tâm là kế tiêu diệt các nỗi khổ đau.

9.

Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam Giáo qui nguyên dữ cộng đồng.
Phật Pháp khuyến nhơn qui mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
Diệu huyền chơn đạo tu tông hướng,
Mê hoặc tà mưu khả tự phòng.
Thế thượng dục tri Thiên sứ đáo,
Tam Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.

 

CHÚ THÍCH:

Bài thi số 9 viết ra chữ Hán sau đây:

祥光一氣照明東
三敎歸元與共同
佛法勸人歸美俗
儒宗復世享純風
妙玄眞道須宗向
迷惑邪謀可自防
世上欲知天使到
三期普度立奇功

GIẢI NGHĨA:

Một khí sáng lành chiếu sáng phương đông,
Tam giáo qui nguyên và cùng chung với nhau.
Giáo lý của Phật khuyên người trở về mỹ tục,
Ðạo Nho làm cho đời trở lại hưởng thuần phong.
Nền Chơn đạo huyền diệu, nên hướng sự tu hành về đó,
Mưu kế tà quái mê hoặc nhơn sanh, khá tự đề phòng,
Trên đời muốn biết các Thiên sứ đã đến,
Hãy lập công quả lớn trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

Xem tiếp Thơ Ðường luật (8 câu): (10-46)

[ Hình Bìa ]

Last changed: 27-07-2003