MỤC LỤC
THI TẬP & THI VĂN DẠY ÐẠO
|
Phần 2: Thơ Tứ tuyệt (4 câu): (1-126)
|
|
1. |
Ðã từng muôn kiếp có tên Ta,
Ta bởi Ðạo Trời mở cửa ra.
Ra để rước người lành đến ở,
Ở chung một cõi lại chung nhà. |
|
2. |
Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ căn nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay. |
|
3. |
Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình phải ở xa?
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Tiên xuất nhập cũng như nhà. |
|
4. |
Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên. |
|
5. |
Mơ màng chưa khỏi lụy phồn hoa,
Chưa biết nên thân tính sắm nhà.
Cải hạnh đố ngươi về tập thử,
Tháng sau sẽ đến trước trình Ta. |
|
6. |
Trình Ta, Ta phải đỡ nâng chơn,
Khuyên một điều con khá giảm hờn.
Hễ ghét người thì Trời ghét lại,
Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn. |
|
7. |
Nào hơn vui thú đức tài lo,
Sẵn gối sẵn chăn cứ xuống đò.
Ngoài nữa còn cha còn chú bác,
Làm gương cho đáng mới nên trò. |
|
8. |
Nên trò đạo đức dễ gì đâu,
Vui chẳng vui, sầu chẳng dám sầu.
Cái khổ của đời mình ước vọng,
Cái chê của chúng lại nài cầu. |
|
9. |
Ký thành một cuốn gọi Thiên thơ,
Khai Ðạo muôn năm trước định giờ.
May bước phải gìn cho mạnh trí,
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ. |
| |
CHÚ THÍCH:
Nắm đuôi phướn phụng đến dương bờ: Do câu Hán văn: Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn. Nghĩa là: Con chim phụng ngậm sắc mệnh của Ðức Chí Tôn tiến lên bờ đạo đức.
Dương bạn là Bờ dương, ý nói bờ đạo đức, bờ giác ngộ, do câu trong Kinh Ðạo Ðức: Dương vô trần nhiễm, Ðạo giả như dương. Nghĩa là: Cây dương không nhiễm bụi trần, Ðạo như cây dương. Cả câu, ý nói rằng: Cứ nhắm theo chân Ðức Chí Tôn thì nhứt định sẽ đắc đạo.
|
|
10. |
Thơm tho chi cũng vốn mùi đời,
Chưa kẻ dùng nên của để chơi.
Mua bán chọn lừa như buổi chợ,
Về nhà chưa tối đã qua đời. |
|
11. |
Ðinh ninh Thầy dặn trẻ đôi lời,
Mình biết Ðạo mình giữ đó thôi.
Mặc kẻ thường tình ngu biếm nhẻ,
Phải coi nên chỗ để nên lời. |
|
12. |
Ngừa thuyền Thầy đợi kẻ sang chơn,
Khổ hạnh khuyên con chớ dạ hờn.
Sắm nghiệp trần gian còn phải khó,
Lựa là nghi trưởng tại Bồng Sơn. |
| |
CHÚ THÍCH:
Ngừa thuyền: Chờ thuyền. Nghi trưởng: Vị Tiên trưởng oai nghi.
|
|
13. |
Hay cho kẻ sĩ biết tu hành,
Hành ấy thì thân chẳng mến danh.
Danh vốn là bùa mê muội thế,
Thế không đạo đức thế không thành. |
|
14. |
Mưa nắng thương thân chịu lắm lần,
Ðành đem đức gởi tại Chiên Tân.
Thanh cao là biết ngon dưa muối,
Hơn ngự lầu yên ngó đảnh Tần. |
| |
CHÚ THÍCH:
Chiên Tân: (?) Lầu yên: tức là Ðài vân, Ðài vinh quang. Yên là mây. Ðảnh Tần: Núi Tần, chỉ lòng nhớ quê nhà.
|
|
15. |
Bát Nhã xin con trở mái chèo,
Thìn lòng thương lấy chúng sanh eo.
Trăm năm chưa hẳn nên hiền đức,
Tấn nẻo chông gai khá lựa dèo. |
|
16. |
Lựa dèo lựa thế độ nhơn sanh,
Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.
Ám muội thì nhiều, mưu trí ít,
Ðường Tiên chẳng bước, đọa thì đành. |
|
17. |
Vong xu trọn cả một Càn Khôn,
Hết kiếp thịt xương tới kiếp hồn.
Ngảnh lại hỏi người là chắc đó,
Trăm năm là tuổi chết rồi chôn. |
|
18. |
Ra vòng thế tục ít người toan,
Vì chẳng ưa mua một chữ nhàn.
Rồng rắn cùng đời, rồng hóa rắn,
Vinh huê ngó lại, giấc mơ màng. |
|
19. |
Sánh vai Sào Phủ ẩn danh xưa,
Vì nẻo lợi danh cũng đã thừa.
Mau bước lui lần qua cõi tục,
Cười than vui khóc, thấy hay chưa? |
|
20. |
Nghe nghe thì lắm tiếng hiền lương,
Ðạo đức con tua giữ một đường.
Biển đổi, non dời, đời phải tuyệt,
Ðức cao bền vững khó cân lường. |
|
21. |
Bày đờn ai khéo sắm đờn đây,
Ðể quỉ để ma ở cả bầy.
Lẩn bẩn cứ theo toan cám dỗ,
Làm cho nên nỗi Ðạo xa Thầy. |
|
22. |
Sắc Trời đã đến tận nơi tay,
Cực nhọc khuyên con chớ dạ nài.
Lập Ðạo dầu nên ngàn thuở để,
Nêu danh hậu thế tiếng bền dai. |
|
23. |
Từng lo tu luyện bấy lâu nay,
Chuộng Ðạo từ đây đã gặp Thầy.
Một chức giáo dân tua lãnh lịnh,
Làm cho đời tệ hóa ra hay. |
|
24. |
Ðức cao thì mới đáng nên người,
Ðức thắng tài kia đã mấy mươi.
Có đức có tài giềng Ðạo trọng,
Không tài không đức hóa không thời. |
|
25. |
Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn, dân hóa quan.
Dân trí có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan. |
|
26. |
Trời hằng thương mến lũ nhơn sanh,
Giận nỗi cưu cưu ở bạc tình.
Ép trí sợ trôi, trôi khó níu,
Thương thì để dạ, dụng oai linh. |
|
27. |
Bay đến Hồ Dương phụng gáy chiều,
Thần Tiên giáng thế biết bao nhiêu.
Trở chơn ít kẻ lo đi ngược,
Bước đọa xem qua dấu dập dìu. |
|
28. |
Dập dìu lắm kẻ ngó Thiên đường,
Buổi thế không lo níu nhánh dương.
Dương thạnh thì hay đời mạt kiếp,
Nêu thân ở giữa cuộc tang thương. |
|
29. |
Tang thương đã biến cuộc hầu gần,
Bắc Hải rồi sau lại hóa sân.
Thanh thế con người toan cải ác,
Tùng theo nhơn cách đặng phong Thần. |
|
30. |
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô?
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ. |
| |
CHÚ THÍCH:
Phong Thần: Ðây là Trung Hoa Phong Thần, cuối đời vua Trụ, bắt đầu nhà Châu. Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần của Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn phong Thần cho các hồn tử trận. Lão Tô: Ông Tô Ðông Pha (1037-1101), một nhà Nho nổi tiếng vào thời nhà Tống bên Tàu. Viết của chàng Hồ: Cây viết của Ông Ðổng Hồ. Ðổng Hồ làm quan Thái Sử (quan viết sử) đời vua Tấn Linh Công nước Tấn thời Xuân Thu. Ông chép sử rất trung thực, vô tư, không sợ sự đe dọa của bạo quyền, được Ðức Khổng Tử khen là: Cổ chi lương sử.
|
|
31. |
Chia đôi lỡ ở, lỡ khi về,
Cách trở một mình biết mấy quê.
Thạnh bỏ suy đương lao khổ phận,
Cũng như Bạch Khỉ đến hôn mê. |
| |
CHÚ THÍCH:
Bạch Khỉ: Bạch Khởi, một đại tướng tài giỏi của nước Tần vào thời Chiến Quốc bên Tàu, được vua Tần phong là Võ An Quân, nhưng tánh tình độc ác và hiếu sát. Trong trận đánh nước Triệu,trong một đêm, Bạch Khởi ra lịnh giết chết 40 vạn quân Triệu đã đầu hàng. Sau, Bạch Khởi bị gièm, nên bị vua Tần giết.
|
|
32. |
Hôn mê chẳng quản một thân hiền,
Tâm niệm tự nhiên đặng thấy Tiên.
Thử để hỏi tâm, tâm sẽ dạy,
Rằng trong thế giới Lão cao quyền. |
|
33. |
Cao quyền khó kiếm đặng cao ngôi,
Ðạo đức gầy nên đã phải hồi.
Mượn của trần gian lưu chất lại,
Thiên niên còn mặc đứng gầy Trời. |
|
34. |
Ngu vì đạo đức ấy ngu hiền,
Thành dạ thì toan đến cảnh Tiên.
Nước mắt chưa lau cơn kiếp trái,
Có công phổ độ giải tiền khiên. |
|
35. |
Tiền khiên đã mãn nghiệp căn xưa,
Phải biết ăn năn chiếm thượng thừa.
Một kiếp muối dưa xong kiếp nợ,
Cuộc đời oan nghiệt thấy rồi chưa? |
|
36. |
Chưa rồi nửa kiếp lắm lo lường,
Thấy kẻ lòng thành Lão cũng thương.
Nếu muốn an vui theo lẽ đạo,
Từ từ đừng vọng vị cao lương. |
|
37. |
Cao lương mỹ vị hại thân phàm,
Hỏi thử thế đời mấy món tham?
Cao chức vợ nhiều ăn lớn đũa,
Thầm lo lự tứ với ưu tam. |
| |
CHÚ THÍCH:
Lự tứ với ưu tam: Lo bốn buồn ba, ý nói lo buồn nhiều.
|
|
38. |
Tam ưu Bàng Cử trắng đầu non,
Mua lấy chức quan đức phải mòn.
Chi bẳng một bầu đầy nhựt nguyệt,
Thông minh miệng thế mặc dò đon. |
| |
CHÚ THÍCH:
Bàng Cử: Hiệu của Nhạc Phi. Nhạc Phi làm đến chức Ðại Nguyên Soái đời vua Tống Cao Tông, một lòng tận trung báo quốc, đánh thắng nước Kim, bảo vệ bờ cõi, dẹp giặc trong nước, nhưng vua Cao Tông hôn ám, dùng gian thần Tần Cối làm Tể Tướng, để Tần Cối hãm hại giết chết Nhạc Phi.
|
|
39. |
Dò đon cho rõ nẻo Thiên thai,
Cái tiếng tài khen chẳng phải tài.
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy,
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai. |
| |
CHÚ THÍCH:
Dò đon: Hỏi thăm để dò xét cho biết tình hình. Thiên thai: Tên một hòn núi có Tiên ở, chỉ cõi Tiên.
|
|
40. |
Người đâu biết đặng tấc lòng mình,
Họa hỏi đến Trời mới biết linh.
Thiệt thiệt hư hư vì mắt thịt,
Thôi thì đợi chết biết tiền trình. |
|
41. |
Tiền trình Thầy dạy các con tường,
Ðợi hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn,
Ðến chừng ấy khá Ðạo lo lường. |
|
42. |
Lo lường cho rõ thấu Thiên cơ,
Biết đặng thì tua tính kịp giờ.
Khuyến thiện đã nhiều công cực nhọc,
Toan lo cho vẹn Ðạo đồ thơ. |
|
43. |
Ðồ thơ oằn oại gánh nghiêng vai,
Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.
Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,
Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai. |
|
44. |
Xem mai trông gặp trổ hai lần,
Như Ðức Khổng xưa muốn thấy lân.
Hờn gió giận mưa hoài trí tính,
Thâu niên chẳng đoái chút tinh thần. |
|
45. |
Tinh thần đầy xác mới tinh anh,
Ðừng vướng nẻo công với mối danh.
Thường hứng gió đông tua biết gió,
Ðừng trương cánh nhạn bị tan tành. |
|
46. |
Tan tành khó nỗi kết làm nguyên,
Như chỗ non cao muốn quá thuyền.
Mình biết phận mình an thú vị,
Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên. |
|
47. |
Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành. |
|
48. |
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương.
Hiền ngõ rủi sanh đời bạo ngược,
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường. |
| |
CHÚ THÍCH:
Chi Lan: Cỏ chi và cỏ lan, có hoa tiết ra mùi thơm nhẹ nhàng, hương hòa hợp nhau. Dữ thiện nhân cư nhập chi lan chi thất: Ở với người lành như vào nhà có cỏ chi cỏ lan.
|
|
49. |
Cao Ðài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng.
Chiều lụy đòi phen xem quá tục,
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan. |
| |
CHÚ THÍCH:
Tá thế: Giúp đời.
|
|
50. |
Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con, nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy. |
|
51. |
Lòng lành là vốn có căn xưa,
Bao quản lợi danh chẳng dám chừa.
Nỗi phận, nỗi nhà còn biến đổi,
Thương mình khá nghĩ phận mình xưa. |
|
52. |
Mình xưa chưa kẻ độ nên phàm,
Phải ngó tâm mình Ðạo mới ham.
Phải phải cùng đời, đừng sửa quấy,
Quấy nhiều tức quỉ giục mình tham. |
|
53. |
Yến Tử Hà xưa lúc vận cùng,
Còn mang dép rách đến Quan Trung.
Nay con chưa đủ thông đường Ðạo,
Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng. |
| |
CHÚ THÍCH:
Yến Tử: "Yến Tử Hà là tôi của nước Hàn, nước Hàn mất, đi tìm nơi cầu cứu hầu rửa nhục cho nước mình. Sở Bá Vương chê người Hàn không dùng, nên Yến phải lận đận, nghèo khổ, phải mang dép rách đến Quan Trung tìm Hớn Bái Công." (Thuyết đạo ÐHP). Yến Tử Hà phò Bái Công, dẹp Tần, tiêu diệt Sở, thống nhứt nước Tàu, xin khôi phục nước Hàn, làm chư Hầu nhà Hớn. Quan Trung: Tên của phần đất ở giữa 2 ải: Hàm Cốc và Lũng quan, địa thế rất tốt, 3 mặt đều có thiên nhiên hiểm trở che chở? nên được nhà Tần và nhà Hán làm nơi đóng đô.
|
|
54. |
Trữ đức còn hơn muốn trữ vàng,
Giàu sang chẳng chuộc gánh giang san.
Thế đời càng dữ càng kiêng đức,
Võ lực hùng oai cũng chẳng màng. |
|
55. |
Trước lâm chứa đặng Bảy Ông Hiền,
Vì bỏ tục trần mến cảnh Tiên.
Hồng cấu đã chui thân phải vấy,
Hơn thua cười kẻ biết nơi tiền. |
| |
CHÚ THÍCH:
Trước Lâm chứa đặng bảy Ông Hiền: Thường gọi là Trúc Lâm Thất Hiền thời nhà Tấn bên Tàu (265-317), kể tên: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh, Sơn Ðào, Nguyễn Hàm, Hướng Tú, và Vương Nhung. Hồng cấu: Bụi đỏ.
|
|
56. |
Cao ngôi chưng Ðạo chẳng cao quyền,
Mở lối dắt người đến cảnh duyên.
Ham hết công danh mòn mỏi đức,
Cũng như ham chở khẳm khuôn thuyền. |
|
57. |
Khuôn thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi quá như bông, nặng quá kim.
Có Ðạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không duyên một đứa cũng là chìm. |
|
58. |
Thiên Cơ đã lộ lúc khai Trời,
Kêu khách phàm trần đã hụt hơi.
Cứ mến vinh huê cùng lợi lộc,
Chẳng lo kiếp thác đến gần nơi. |
|
59. |
Gần nơi Tiên cảnh phải xa phàm,
Cái kiếp trần nầy trẻ chớ ham.
Một miếng đỉnh chung trăm giọt thảm,
Phải toan lui gót tránh vòng tham. |
|
60. |
Nơi lòng Thầy ngự, động Thầy hay,
Ngặt nỗi là xưa chẳng thế bày.
Ðạo hạnh khuyên con gìn tánh đức,
Cửa Cung Bạch Ngọc đã gần khai. |
|
61. |
Mày râu đã đủ phận cùng người,
Biết Ðạo thì con chớ dể ngươi.
Ăn mượn ở thừa đời gắt gổ,
Thì toan lo tránh, chớ đua bơi. |
|
62. |
Suy thời dầu quí cũng ra hèn,
Nghiệp cả khuyên con lửa nhúm nhen.
Ðòi lúc phân vân đời vẫn thế,
Màng chi miệng độc để chê khen. |
|
63. |
Nên hư cuộc thế gẫm thường tình,
Ðừng mỗi muôn điều đổ Chí Linh.
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa,
Thành tâm ắt thấy hết thần minh. |
|
64. |
Bề trong ngay thẳng tỏ bề ngoài,
Miệng chánh thì đời vốn trái tai.
Lừa lọc cho cùng rồi nhứt định,
Ðừng quen tính một chẳng dè hai. |
|
65. |
Phòng cơn biển nọ hóa cồn dâu,
Chưa hết quan viên há hết chầu.
Cái bả vinh huê đời rối rắm,
Nguồn đào thong thả đã là đâu? |
|
66. |
Tham chi sự thế lắm đua tranh,
Cái miếng đỉnh chung xúm giựt giành.
Bỏ hết trong cơn mê một giấc,
Trăm năm ngắn ngủi nhớ làm lành. |
|
67. |
Làm lành cho trọn Phật Trời thương,
Hai chữ hơn thua chớ liệu lường.
Mừng thiệt là khi nương cảnh tịnh,
Khen chê giận ghét lẽ đời thường. |
|
68. |
Lời vàng nhắn hỏi khách trần gian,
Một nẻo đường Tiên đáng mấy ngàn?
Bụi đất của trần là của tục,
Chưa ai đem đổi cảnh an nhàn. |
|
69. |
Tâm thành có thuở nghiệp nhà nên,
Ðạo đức khuyên con cứ giữ bền.
Hễ đặng bữa cày, buông bữa giỗ,
Phân thân đâu đặng hưởng hai bên. |
|
70. |
Ðài Vân Quan Võ để phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn đức ngàn lành không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần. |
|
71. |
Thiên Thai nào phải tại trần nầy,
Chẳng phải giữa Trời, chẳng phải mây.
Ðưa phép sanh tồn khuyên trẻ ngó,
Theo chơn giỏi bước níu sau Thầy. |
|
72. |
Khờ ngây đã quá hội xuân rồi,
Rồi mới biết đời có mấy thôi.
Thôi chẳng tranh chi mồi phú quí,
Quí là đạo đức đó ai ôi! |
|
73. |
Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa bốn phương Trời cũng kiếm ra.
Ra mối manh thì tua liệu lấy,
Lấy nền Ðạo chánh dẫn truyền ra. |
|
74. |
Sanh đời nắng lửa với mưa dầu,
Tội là đâu, phước lại là đâu?
Chiu chít như chim cơn khuất bóng,
Mới vui rồi tới chịu đeo sầu. |
|
75. |
Cung trương chim đỡ thế nào đang,
Mất phước ôn nhu ấy mất nhàn.
Quyền biến dầu dùng khi buổi ngặt,
Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian. |
|
76. |
Sum vầy các sắc các con nhà,
Dầu phải sang hèn cũng một Cha.
Nương dựa con tua vầy hiệp bạn,
Ðường đời cũng thế chẳng bao xa. |
|
77. |
Khánh chuông tiếng khởi giục nhơn sanh,
Bỏ ác mà đi đến nẻo lành.
Kiếp trước phải ngừa là kiếp phạt,
Hễ là có thưởng, phạt theo mình. |
|
78. |
Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Ðã thấy trọn quyền Ðấng Chí Thiêng.
Lo lập nghĩa nhân đồng loại giúp,
Ðừng ham quyền thế một mình riêng. |
|
79. |
Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu cả hết chúng sanh thành. |
|
80. |
Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dể ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chung danh lợi hết gần Trời. |
|
81. |
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều.
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Ðường tu ví bẳng không lo trước,
Ðền điện Lương vương phải cháy tiêu. |
| |
CHÚ THÍCH:
Lương vương: Vua nhà Lương, tức là Lương Võ Ðế (502-549) bên Tàu. Lương Võ Ðế rất hâm mộ Ðạo Phật, qui y Phật pháp năm 517, nhà vua xuất tiền của trong kho xây dựng rất nhiều chùa Phật ở khắp nơi trong nước. Nhà vua đang lúc ở ngôi, 2 lần vào chùa làm sư tu hành. Do đó, nhà vua chểnh mảng việc chánh trị và quân sự, nên bị tướng Hầu Cảnh làm phản, vây Lương Võ Ðế và tuyệt đường lương thực, làm vua phải chịu chết đói trong cung.
|
|
82. |
Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ngờ ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mũi kim qua chẳng lọt,
Ðừng đừng xảo mị gọi tài tình. |
|
83. |
Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Ðể mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Ðạo đức mãn đời đừng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm. |
|
84. |
Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn đạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết chút đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân. |
| |
CHÚ THÍCH:
Khanh tể: Những chức quan lớn trong triều đình như : Khanh tướng, Tể tướng. Bẳng: Bằng. Các lân: Cái lầu cao trên đó có chạm hình con Kỳ lân, do vua Hán Tuyên Ðế lập nên để thờ 11 vị Khai quốc Công Thần của nhà Hán. Ðây là đài vinh quang của kẻ bề tôi, còn đối với người tu thì ý nói là nơi đắc đạo.
|
|
85. |
Khuya sớm tương dưa hết dục lòng,
Lòng dầu toan kế, kế sao xong.
Xong bề nhơn đạo tua gìn trước,
Trước cửa không rồi mối đạo thông. |
| |
CHÚ THÍCH:
Cửa không: Không môn, cửa Phật, cửa chùa, nơi tu hành. Mối đạo thông: Thông suốt mối đạo, đạt được trí huệ, đắc đạo.
|
|
86. |
Mão đội không bằng lọng mát đầu,
Làm sao cho đặng lọng cao cao?
Che năm họ mát lòng thêm mát,
Muốn đặng mát thì học sách nào? |
|
87. |
Thiệt vàng gặp lửa tuổi càng cao,
Dầu gọi mình khờ cũng chẳng nao.
Theo Ðạo Cao Ðài ơn cứu độ,
Muôn năm hưởng phước trở về sau. |
|
88. |
Nhiễu điều ví đặng phủ gương trong,
Thì mới làm cho cái nghĩa đồng.
Dồn dập mối sầu thân thảm thiết,
Thầy khuyên hành đạo sẽ vui lòng. |
|
|
CHÚ THÍCH:
Nhiễu điều: Tấm lụa đỏ. Gương trong: Tấm gương rất sạch, không dính bụi. Ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. Nhiễu điều ví đặng phủ gương trong, ý nói: chúng ta phải thương yêu nhau.
|
|
89. |
Ðắc thất đều do tại máy Trời,
Làm sao qua đặng chốn non khơi.
Tuy không cao mấy mà khôn với,
Biết rõ cơ quan ắt biết đời. |
|
90. |
Thiện ác đáo đầu đã biết chưa?
Hiểu rồi cái ác cũng nên chừa.
Theo làm âm chất may bồi đắp,
Thì sẽ trở về chỗ vị xưa. |
|
91. |
Sách dầu muôn cuốn dạy câu lành,
Nào kẻ học cao thế gọi lanh.
Ðổi thử máy Trời coi có được,
Thì Ta đổi tội dữ ra lành. |
|
92. |
Sai lầm một thuở biết ăn năn,
Năn nỉ lòng kia tự xét rằng.
Rằng ở đời thì nhơn đạo trọn,
Trọn rồi Thiên đạo mới hoàn toàn. |
|
93. |
Gồng gánh hai vai nặng nợ trần,
Có thân âu hẳn khổ cho thân.
Chưa no buổi sớm, lo nồi tối,
Cái kiếp oan kia khá dứt lần. |
|
94. |
Lánh đường trần tục đến non Tiên,
Lấy nước nhành dương tưới lửa phiền.
Ðã chẳng phải duyên không phải nợ,
Can chi con buộc tấm tình riêng. |
|
95. |
Bên mình sầu vướng khá âu lo,
Bước nhọc đường gay gắng chí dò.
Biển khổ chơi vơi lằn sóng dập,
Mau chơn kẻo trễ bước con đò. |
|
96. |
Lòng Trời đâu có phụ riêng ai,
Ai đạo đức hơn trổi một vài.
Vài quả thì công trình phải nặng,
Nặng mà sau đặng đứng trên vai. |
|
97. |
Trên vai gánh nặng cả Càn khôn,
Khôn khéo rủ nhau xuống cả phồn.
Phồn tục theo hoài quên trở gót,
Gót son biết đặng mất hay còn. |
|
98. |
Phụng gáy non Nam, Ðạo trổ mòi,
Trổ mòi nhân vật bốn phương Trời.
Trời Âu biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi. |
|
99. |
Tính chi những việc tới đâu đâu,
Ðâu cũng Trời cao ở khỏi đầu.
Ðầu nhà xem rõ cơ Trời Ðất,
Trời Ðất không sai một mảy hào. |
|
100. |
Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già. |
|
101. |
Tích phước cho con, Tích hỡi con!
Con còn lăn líu lắm nghe con!
Con thương con cháu là thương Ðạo,
Ðạo chẳng ở xa, ở tại con. |
|
102. |
Tánh tự thông minh hỏi của ai?
Ban cho nên mới rạng cân đai.
Ðường tu, ví biết hồi lui bước,
Kẻo để ngày qua hết một ngày. |
|
103. |
Triều Thiên nhứt lộ định phong quang,
Bất nhá trần ai khả quí nhàn.
Thiện tánh tu tâm căn hữu thiện,
Thiên niên gia sự đắc bình an! |
|
|
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 103 viết ra chữ Hán sau đây:
朝天一路定風光
不惹塵埃可貴閑
善性修心根有善
千年家事得平安
GIẢI NGHĨA:
Ði chầu Ðức Chí Tôn, một đường định được cảnh vật.
Không dính bụi trần, khá quí trọng chữ nhàn.
Tánh lành tu tâm có căn lành,
Ngàn năm việc nhà được bình an.
|
|
104. |
Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm,
Cao bất cao, thâm bất thâm.
Cao khả xạ, hề thâm khả điếu,
Cao thâm vạn sự tại nhơn tâm. |
|
|
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 104 viết ra chữ Hán sau đây:
道高深道高深
高不高深不深
高可射兮深可釣
高深萬事在人心
GIẢI NGHĨA:
Ðạo cao sâu! Ðạo cao sâu!
Cao mà không cao, sâu mà không sâu,
Cao mà có thể bắn được, sâu mà có thể câu được,
Cao sâu muôn sự tại lòng người.
|
|
105. |
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn. |
| |
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 105 viết ra chữ Hán sau đây:
醒悟舍身在梵門
勸修後日度生魂
無勞不復回眞命
醒世其身得正尊
GIẢI NGHĨA:
Tỉnh ra mà biết rõ thì đem thân hiến vào cửa Phật,
Khuyên tu hành để ngày sau cứu độ linh hồn chúng sanh.
Không mệt nhọc làm công quả thì không phục hồi được mạng sống của mình nơi cõi thiêng liêng,
Tỉnh giấc mộng trần, thân ấy sẽ được đắc đạo.
|
|
106. |
Thiện tâm minh đạo đắc chơn truyền,
Bảo mạng trì thiên tất đắc viên.
Hậu nhựt khả tri danh lợi chí,
Tâm lưu nhứt thứ thị đương nhiên. |
|
|
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 106 viết ra chữ Hán sau đây:
善心明道得眞傳
保命持天必得圓
後日可知名利至
心留一次是當然
GIẢI NGHĨA:
Tâm lành, đạo sáng, được chơn truyền,
Bảo vệ và giữ gìn Thiên mạng tất được vẹn toàn.
Ngày sau có thể biết danh lợi tới,
Lưu tâm thứ nhứt là lẽ đương nhiên.
|
|
|
LỜI THANH MINH
20 bài thi tứ tuyệt sau quyển Thánh Ngôn (bổn thứ nhứt) bằng Nho Văn không được rỏ ràng và khó hiểu, nếu tái bản thêm tốn giấy mà không bổ ích cho độc giả nên miễn đăng. Trái lại có mấy bài Thánh Giáo bằng Pháp Văn dịch ra Việt Ngữ nên in vô quyển nầy để giúp độc giả rộng hiểu thêm.
Trưởng Ban Kiểm Duyệt
Hiến Pháp TRƯƠNG HỮU ÐỨC
20 bài thi Tứ tuyệt Hán văn từ số 107 đến 126, Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức, Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách Ðạo, bỏ ra từ bản in năm 1964, nay xin chép bổ sung:
|
|
107. |
Bình sanh tâm địa náo trung can,
Nhược thể nan tri thế đạo tàn.
Thích hạt công danh tâm mộ hám,
Hữu nhơn hữu đức đắc giang san. |
|
108. |
Tứ quân bạch trực nhứt tâm ưu,
Mãn hạn tu hành Ðạo thị mưu.
Cư thế đắc thành nan vị thế,
Thánh tâm vô đức nạn năng cừu. |
|
109. |
Ðạo căn nhứt lượng tẩm sài hồ,
Chuyên trị nhứt thời hạnh khả đô.
Khánh nhựt đắc kỳ y hữu lộ,
Bắc phương đắc ngộ tấn sinh đồ. |
|
110. |
Tiên đàng nhứt thế biến Lôi Âm,
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm.
Thánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi nhập nhứt Ðạo Kỳ Tam. |
|
111. |
Tường quang nhứt khí chiếu minh Thiên,
Ðạo thử khả tri ý diệu huyền.
Nhơn phẩm bất phân Tiên Phật vị,
Ðào trang thỉnh nhập cửu quyền nhiên. |
|
112. |
Bửu kinh đệ chiếu triệu qui hồi,
Khả tác từ viên bất cử bôi.
Thiên Ðịa vô công nan nhập hội,
Thành công tùy lực khích nhơn hồi. |
|
113. |
Chí cao tự hữu chí cao sanh,
Sanh lạc cảnh thiền khí tự sanh.
Sanh trị nhơn bàng tâm tức lự,
Lự thanh lự trược tất hương sanh. |
|
114. |
Lưu danh tự thế, thế năng tồn,
Tồn tính tồn tâm vật tự tôn.
Tôn bái bổn thần thành quái sự,
Sự đương nhiên hại bổn kiền khôn. |
|
115. |
Thành tâm tu niệm đắc Thiên ân,
Ân tứ hiền nhân dữ thiện nhân.
Phân thị phân phi, phi thị thị,
Thị phi hậu thức giả phân phân. |
|
116. |
Thánh vô trí giả tự nhiên nghinh,
Thế bất Ðạo tùng, thế tất khuynh.
Mạc hám hồng trần khiêm tạo mộng,
Thức tâm dị chưởng đáo hồ đình. |
|
117. |
Hán chất vô tri thử dược cầu,
Ðình tiền tu tỉnh mộng huyền cầu.
Thành tâm háo Ðạo thiên tai tán,
Chánh thị kỳ khoa đắc sở cầu. |
|
118. |
Chí Ðồng đắc kiến diện Thần Nông,
Bác ái tương tâm khấn bạch hồng.
Ðắc dược khả đình tiền khấu phục,
Thiên trung hữu Ngã giáng tinh thông. |
|
119. |
Huyền vi nhứt trí thức Càn khôn,
Tặng nhữ diệc tri độ thử hồn.
Nghiệt trái khuyến quân tu tuyệt tận,
Thiên đình hữu lộ dĩ khai môn. |
|
120. |
Bá lạc hữu duyên hưởng Thánh tình,
Khoan hồng thức tỉnh mộng oai linh.
Thử nhân đắc vấn quân tu thuyết,
Bán thế vô công hữu đắc sinh. |
|
121. |
Hy sanh hà xứ đáo Chơn thần,
Tại thế hữu nhơn tất hữu quân.
Ðộc chiếm nhứt quyền sanh thế giới,
Thiên căn vạn kiếp vĩnh tri thoàn. |
|
122. |
Thiên thơ dĩ định nhứt danh qui,
Tam Giáo qui nguyên chỉ thị kỳ.
Ðạo thị tối cao vô thế đoán,
Hà nhơn đạm tánh đáo khinh khi. |
|
123. |
Quảng trí minh tâm đắc thức thì,
Hành tàng huyền diệu thế nan tri.
Kỳ t âm sở hướng tà hồi chánh,
Ðắc cảnh Thiên ban quá dạ tri. |
|
124. |
Niên ngoạt nhứt thời hữu định phân,
Bất tri thế sự thủy phong vân.
Thương tâm hoài cổ Lưu Linh chí,
Thiện ác tùy công diệt đọa trần. |
|
125. |
Diệu đạo tùy đường chí hữu linh,
Thanh trung liên cộng tác liên bình.
Thùy tri thế sự tâm thiềm quí,
Ðắc nhữ trung toàn vạn lý minh. |
|
126. |
Nhựt tại thiềm đầu, nguyệt tại song,
Hà thời liễu đạo đắc Tiên phong.
Thùy tri công đức Thiên tâm khiển,
Ðắc địa nhơn do tánh tự phòng. |

Xem tiếp: Thơ Tứ tuyệt (4 câu): (127-196)
|