MỤC LỤC
THI TẬP & THI VĂN DẠY ÐẠO
|
Thơ Ðường luật (8 câu): (10-46)
|
|
10. |
Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong chác thế thường.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét đạo nực mùi hương.
Rừng thiền ngàn dặm Trời soi bước,
Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp được nẻo ngay, đời có mấy?
Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương. |
|
11. |
Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.
Diêu Trì Kim Mẫu |
|
12. |
Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc Hư toàn ngự đấng tinh anh.
Luật điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vùa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.
Lý Giáo Tông |
|
13. |
Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẳn nên trường khảo,
Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành. |
|
14. |
Màn Trời đã vẹt ngút mây trương,
Bước tới đài hoa thấy tỏ tường.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loán mùi hương.
Nhàn Âm Ðạo Truởng |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðài hoa: Ý nói Ðài vinh quang. Ngọc sáng non Côn: Ngọc đẹp trong đá của núi Côn. Ðộng Bích: Bích Du Cung của Thông Thiên Giáo Chủ.
Cặp trạng: Gặp được Chánh đạo quí báu, Chớ lầm đường vào Tà đạo.
|
|
15. |
Ðổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.
Rừng tòng thanh nhã say mùi Ðạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Buồm trương lái vững chờ sông lệ,
Ðưa chiếc thuyền sen đến đảnh Thần.
Cao Thượng Phẩm |
| |
CHÚ THÍCH:
Sông lệ: Ý nói: Biển khổ. Lệ là nước mắt. Thuyền sen: Chiếc thuyền do Phật Tổ lấy một cánh sen nơi cõi Cực Lạc Thế Giới tạo thành. Ðó là chiếc thuyền Bát Nhã. Ðảnh Thần: Núi Thần, chỉ cõi Tiên.
|
|
16. |
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt.
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
Bát Nương |
| |
CHÚ THÍCH:
Nga mi: Mày tằm, mày ngài, chỉ người con gái đẹp. Thanh sử: Sử xanh, ý nói sách lịch sử. Nữ kiệt: Người phụ nữ tài trí hơn người.
|
|
17. |
Thiều quang nhặt thúc khuất màu xuân,
Trở bước quanh co rán liệu chừng.
Hứng giọt Ma Ha lau tục lụy,
Ngừa thuyền Bát Nhã thoát mê tân.
Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
Phước gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,
Gắng tu kịp buổi lướt Ðài Vân. |
| |
CHÚ THÍCH:
Giọt Ma Ha: Nước Thánh dùng trong phép Tắm Thánh và Giải Oan. Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa: Nước Ma Ha có khả năng tiêu hủy sự đày đọa do oan nghiệt tội chướng. Tục lụy: Nỗi phiền não nơi cõi trần. Ngừa: Chờ. Mê tân: Bến mê, chỉ cõi trần. Ðài Vân: Cái đài cất cao tới mây để vẽ hình và ghi tên các đại công thần thời nhà Hán. Ý nói đài vinh quang của người đắc đạo.
|
|
18. |
Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,
Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.
Mùi tục lần xa, vui đạo đức,
Cõi tâm rộng mở khổ giồi trau.
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu. |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðộng đào: Cõi Tiên. Nước dương: Nước nhành dương, chỉ nước Cam Lồ. Bờ giác: Giác ngạn, bờ giác ngộ, chỉ cõi của người đắc đạo.
|
|
19. |
Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú quí sương tan lố bóng Trời.
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.
Làm lành sau cũng lành vay trả,
Chác dữ âu hay dữ vốn lời.
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi. |
|
20. |
Lần lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.
Rạng nẻo chung soi đèn Bạch Ngọc,
Dò đường xúm núp bóng Hồng Quân.
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
Biết Ðạo khá lo trau hạnh đức,
Dữ lành đợi buổi cũng cân phân. |
|
21. |
Ngày chầy dặm thẳng gắng đưa qua,
Chịu khổ trau tâm chí mới già.
Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,
Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.
Lòng trần gội sạch noi đường chánh,
Nét Ðạo gìn thanh lánh nẻo tà.
Ðèn huệ chực soi mau tiến bước,
Nơi miền Cực Lạc dễ đâu xa. |
|
22. |
Ðường về muốn vẹn để công trình,
Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
Xuân hé đã hay cơn ác lố,
Ðông tàn khá biết lúc Trời chinh.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
Hay chi thế tục chước cầu vinh. |
|
23. |
Nhiệm mầu Tạo hóa cuộc vần xây,
Thưởng phạt cũng do một buổi nầy.
Ðức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,
Nhân sau để dấu chí đừng lay.
Ðường mây thẳng gió hồng trương cánh,
Bước Ðạo êm chơn nguyệt rọi mày.
Dìu dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài. |
|
24. |
Liễu Huệ nhuần sương Liễu Huệ tươi,
Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
Màn Trời mây khỏa muôn sao lố,
Thuyền Ðạo buồm treo một sắc phơi.
Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,
Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.
Lần theo bước rạng non Thần đến,
Chớ luyến phồn hoa lụy đến nơi. |
|
25. |
Vun nền đạo hạnh khá rèn lòng,
Gặp hội đành vui chữ sắc không.
Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
Xuôi chiều đổ bến êm dòng bích,
Phải lúc nương mây chớp cánh hồng.
Nhuần gội ơn Trời âm chất vẹn,
Mau chơn ngày tháng đã qua đông. |
| |
CHÚ THÍCH:
Sắc Không: chỉ sự tu hành, do câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh: Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Vắng hơi thung: Ý nói vắng bóng người tu hành. Cánh hồng: Cánh của con chim hồng.
|
|
26. |
Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
Ách đất rắp nhồi trường náo nhiệt,
Cửa Trời kịp mở vớt quần sinh.
Nâng đời khá gắng trau nhơn đức,
Học Ðạo tua năng luyện tánh tình.
Khổ hạnh chí mong qui nẻo chánh,
Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh. |
| |
CHÚ THÍCH:
Rừng thung: Chỉ cảnh chùa, nơi tu hành. Ách đất: Tai họa do đất gây ra, như động đất, núi lửa. Trường náo nhiệt: Nơi tranh giành danh lợi kịch liệt. Hư vinh: Cái vinh dự hảo huyền, không thật.
|
|
27. |
Non chiều ác xế bóng Trời thâu,
Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.
Theo bước kịp thì tìm ánh sáng,
Ngừa thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.
Soi gương hạnh đức trau lòng tục,
Hứng giọt từ bi rửa bợn sầu.
Nhặt thúc quang âm xuân đã lụn,
Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu. |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðáo đầu: Ðến đầu cùng, ý nói việc đến lúc kết thúc. Ngừa thuyền: Chờ thuyền. Giọt từ bi: Giọt nước Cam lồ của Phật. Tang dâu: Ý nói Tang điền thương hải: Ruộng dâu biến thành biển xanh, chỉ cuộc đổi thay của Trời Ðất không lường trước được.
|
|
28. |
Thìn trau đức tánh để nêu gương,
May gặp Ðạo mầu gắng liệu phương.
Cội Bắc chim về chiều ngã bóng,
Non Nam ác lố ánh tan sương.
Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,
Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.
Ðộ chúng cứu đời công nghiệp để,
Thiên ân hưởng trọn khá lo lường. |
| |
CHÚ THÍCH:
Non Nam ác lố ánh tan sương: Ðạo mở ra ở nước VN như ánh mặt trời mọc, làm tan màn sương u ám. Thuyền từ: Thuyền từ bi của Phật, đó là chiếc thuyền Bát Nhã. Cảnh trí: Cảnh của người trí huệ, cảnh Tiên.
|
|
29. |
Cành mai thơ thới đượm hơi xuân,
Dìu dắt đem nhau lại đảnh Thần.
Tích đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt phàm gắng chí thoát mê tân.
Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,
Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.
Công nghiệp dồi dào âm chất đủ,
Long Hoa đợi hội hưởng Thiên ân. |
| |
CHÚ THÍCH:
Diệt phàm: Tiêu diệt các nét tầm thường thấp kém của mình, tức là phải tu thân. Ðài ngọc: Ðài vinh quang. Âm chất: Công đức thầm kín, không phô trương. Long Hoa đợi hội: Ðợi đến Hội Long Hoa.
|
|
30. |
Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
Ác lố rọi tan lằn gió bụi,
Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.
Ðường tu ví sớm noi gương rạng,
Cội phúc mai sau hưởng quả lành.
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành. |
| |
CHÚ THÍCH:
Bước công khanh: Ý nói bước đường làm quan. Ngựa qua cửa sổ: Chữ Hán là Bạch câu quá khích, ý nói thời gian qua rất mau.
|
|
31. |
Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,
Rưới chan vạn vật khối sinh quang.
Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,
Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn.
Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.
Thần thông trói chặt Ma vương quái,
Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn. |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðịa hoàn: Trái đất. Khối sinh quang: Cái khối phát ra ánh sáng để nuôi dưỡng sự sống cho chúng sanh. Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ: Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba nên ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục và mở rộng cửa Trời.
|
|
32. |
Viết thử Thiên thơ với nét trần,
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
Công danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa mốc dân sanh gắng gội nhuần.
Lý Giáo Tông |
| |
CHÚ THÍCH:
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng: Nghe tiếng phụng gáy ở núi Kỳ Sơn, báo hiệu có vua Thánh ra đời là Văn Vương, mở ra nhà Châu. Nước Lỗ biến hình lân: Nước Lỗ có kỳ lân xuất hiện báo hiệu cho biết có Thánh nhơn (Ðức Khổng Tử) ra đời phục hưng Nho giáo.
|
|
33. |
Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
Hồn về nước cũ đời nương thế,
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
Ðảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
Cao Thượng Phẩm |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðường mây: Ðường công danh. Xa thơ: Xe và sách, ý nói nền văn hóa của một dân tộc. Mối giềng: Ý nói Tam cang và Ngũ thường, dịch là 3 giềng và 5 mối. Uy linh: Oai quyền thiêng liêng. Ðài liên: Ðài sen, tòa sen.
|
|
34. |
Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.
Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,
Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng.
Bể khổ mênh mang lo giải khổ,
Nền công nghiêng ngửa gắng nên công.
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng. |
| |
CHÚ THÍCH:
Kỳ Ký: Ngựa Kỳ và ngựa Ký, là loại thiên lý mã, chạy mau và xa. Hộc Hồng: Chim Hộc và chim Hồng, loại chim cánh rất khỏe, bay cao và xa. Dải đồng: Cái dây thắt lưng bằng lụa dùng tặng cho nhau để biểu thị tình cảm khắng khít. Kết dải đồng: Kết chặt tình thương mến.
|
|
35. |
Bạch Vân nhàn lạc khỏe thân già,
Thương kẻ nặng mang nợ quốc gia.
Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,
Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.
Thiện nam gắng giữ nền nhân nghĩa,
Chơn nữ hằng ghi thuyết cộng hòa.
Trách nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,
Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.
Thanh Sơn Ðạo Sĩ |
| |
CHÚ THÍCH:
Bạch Vân: Bạch Vân Ðộng. Bài thi nầy của Ðức Thanh Sơn Ðạo Sĩ, Ngài là Sư Phó của Bạch Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Thiện nam: Người nam lành. Chơn nữ: Người nữ chơn thật. Âu ca: Ca hát vui vẻ, ý nói thời thái bình thịnh trị.
|
|
36. |
Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,
Lánh nguy nguồn Ðạo vẹn tìm phương.
Vùi sầu nay gắng chung vai gánh,
Hưởng phước sau may hiệp bước đường.
Cay đắng lần soi gương trí huệ,
Chia phui chờ trải lối tang thương.
Dặn mình tua chặt trong gan tấc,
Sau trước lòng son giữ đặng thường. |
| |
CHÚ THÍCH:
Trí huệ: Trí não được khai sáng đặc biệt, biết được những điều huyền vi của Trời Ðất. Tang thương: Do thành ngữ: Tang điền thương hải, ý nói việc đời luôn luôn thay đổi không lường được. Lòng son: Tấm lòng tốt đẹp không thay đổi.
|
|
37. |
Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Ðời đem thử gan Anh Tuấn,
Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.
Ðau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non sông Việt chủng ngày êm lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập quyền.
Thanh Sơn Ðạo Sĩ |
|
38. |
Những là khổ nhọc chịu cơ đời,
Hạnh phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
Ðường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi.
Thoát tục ví ai tìm nẻo Thánh,
Bến mê lướt sóng đến ven Trời.
Bát Nương |
|
39. |
Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
Ðầm ấm hơi xuân nở mặt mày.
Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,
Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.
Trường Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.
Lọc nước rửa đời Trời để dấu,
Riêng che Nam đảnh một cân đai. |
|
40. |
Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp lối đường quanh khó tách dời.
Thuyền Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,
Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.
Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,
Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.
Nhắn nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,
Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời. |
|
41. |
Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,
Ðể bước tìm nơi Ðạo gội nhuần.
Sóng khỏa thuyền về còn lắc lở,
Rừng chờ khách trở buổi cân phân.
Trau gương hạnh đức pha lòng tục,
Giồi trí thanh cao giữ tánh Thần.
Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,
Xét mình một khắc một mau chân. |
|
42. |
Dìu dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng Trời xúm xít đỡ nương chung.
Dài đường chớ ngán con Kỳ Ký,
Ngược gió đừng nao cánh Hộc Hồng.
Nhướng mắt tua dò theo kẻ trí,
Thìn lòng khá gắng đắp nền công.
Sen tàn cúc nở qua ngày tháng,
Nhặt bước đường hoa đến cội tùng. |
|
43. |
Cái kiếp hồng nhan kiếp đọa đày,
Phải làm cho gái hóa ra trai.
Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.
Phòng tía cất thành hình thổ võ,
Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.
Muốn đi cho tận trường sanh địa,
Phải đổi giày sen lấy thảo hài. |
| |
CHÚ THÍCH:
Vẻ ngọc: Sắc đẹp của phụ nữ. Gươm sắc: Cây gươm bén. Hình hoa: Hình dáng của phụ nữ. Phòng tía: Cái phòng sơn màu tím, chỉ chỗ ở của đàn bà con gái. Thổ võ: Ðất đai của một nước. Cung loan: Nơi ở của người vợ. Trường sanh địa: Cõi TLHS, vì con người ở nơi đó thì trường sanh bất tử. Giày sen: Giày của người phụ nữ. Thảo hài: Giày bằng cỏ của người tu hành.
|
|
44. |
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì. |
| |
CHÚ THÍCH:
Bài thi 44: Cặp trạng cho biết Ngọc Hư Cung trở pháp, giao cho Hiệp Thiên Ðài nắm quyền nền Ðạo. (Xem bài Thánh Ngôn 164)
|
|
45. |
Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Ðẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiềm cung mở rộng cửa hà ngân.
Xuân thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
Bát Nương |
| |
CHÚ THÍCH:
Ðào Nguyên: Nguồn đào, chỉ cảnh Tiên. Việt Thường: Tên xưa của nước VN. Xích quỉ: Quỉ đỏ. Thiềm cung: Chỉ mặt trăng. Hà ngân: Ngân hà, sông Ngân, chỉ biển khổ. Xuân Thu: Cổ pháp của Nho giáo, chỉ đạo Nho. Phất chủ: Cổ pháp, cũng là bửu bối của đạoTiên.
|
|
46. |
Mở rộng đường mây rước khách trần,
Bao nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.
Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
Chuyển nổi Càn khôn xây võ trụ,
Nhẹ nâng nhựt nguyệt chiếu Ðài Vân.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.
Bát Nương |
| |
CHÚ THÍCH: Cầu ngọc: Cây cầu thấy trắng như ngọc, bắc qua biển khổ. Gươm huệ: Cây gươm trí huệ. Người tu dùng trí huệ của mình như cây kiếm để quyết thắng giặc vô minh và phiền não.
|

Xem tiếp Thơ Tứ tuyệt (4 câu): (1-126)
|
| |