THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN I & II
Hợp Nhứt & Chú Thích

 

MỤC LỤC

 


MỤC LỤC
THI TẬP & THI VĂN DẠY ÐẠO

 

THI TẬP

 

Hội Thánh xin trích lục ra đây để cống hiến chư đạo hữu những bài thi và những lời chỉ giáo của các Ðấng Tiền Bối đã sẵn lòng giúp chúng ta xây dựng nền Ðạo.

Những bài thi ấy cho từ cuối năm Ất Sửu (1925) lúc còn xây bàn và đầu năm Bính Dần (1926) trước khi mở Ðạo.

Ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Sửu (26-07-1925), vong linh Cụ cố CAO QUỲNH TUÂN, tức là Cụ thân sinh của Ông CAO QUỲNH CƯ (Ðức Cao Thượng Phẩm) giáng cho trong cuộc xây bàn bài thi sau đây:

THI

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Cao Quỳnh Tuân

(Mi tức là Ô Cư)

Ngày mùng 10 kế đó, Cô Ðoàn Ngọc Quế giáng cho ba bài dưới đây:

THI

Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm đình.

Người thì Ngọc mã với Kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

Ðoàn Ngọc Quế

  CHÚ THÍCH:
Ngọc các: Lầu ngọc, chỉ nhà cao sang quyền quí. Tuyền đài: Suối và lầu đài, chỉ cõi Âm phủ. Tình sông núi: Tình cảm thương nhớ công ơn sanh dưỡng của cha mẹ, do câu ca dao: Công cha như núi Thái sơn (núi), Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. (sông). Trúc mai: chỉ tình yêu thắm thiết giữa một đôi nam nữ. Ðoàn Ngọc Quế: Tá danh của Thất Nương Diêu Trì Cung.

Bà Bát Nương giáng làm thi vấn đề: Tiễn biệt tình lang, dưới đây:

THI

Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.

Bát Nương

HOẠ VẬN

Ình ình trống giục thảm trường đình,
Ðau nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.

Quí Cao

  CHÚ THÍCH:
Trường đình: Nơi từ giã chia tay nhau khi đưa tiễn. Vàng đá: Lời thề chắc chắn hẹn ước cuộc trăm năm. Phụng lầu gác quyển: Trên lầu Phụng, gác cái ống sáo chờ người yêu đến để cùng thổi sáo. (Ðiển tích: Tiêu Sử và Lộng Ngọc)

 

Ngày 14 tháng 8 năm Ất Sửu (dl. 01-10-1925).

NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG

Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (dl. 01-10-1925), vì có sự thành khẩn nên Lục Nương giáng cho bài thi sau đây:

THI:

Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.

Lục Nương

Giải nghĩa hai câu thứ 5 và thứ 6 của bài thi :

Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.

Trường quang: Ánh sáng mặt trời.
Kim mã là ngựa vàng, tức mặt trời.
Ngọc thố là thỏ ngọc, tức mặt trăng.
Có nghĩa là ngày giờ qua mau, rất lẹ.

THẤT NƯƠNG

Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,
Cảm tình trông đợi dạ ân cần.
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

(22-8-Ất Sửu, 9-10-1925)

A Ă Â

Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ đạo nghĩa nhau T. . . xúc tình.
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
Phong trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng đảo vì ai giữ tấc thành.
Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.

BÁT NƯƠNG

Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

QUÍ CAO

Tử sanh dĩ định tự Thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Thất Nương giải nghĩa hai câu chót:

Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang Ðông, gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hợp, kết làm anh em.

Như Hoành than rằng: Bắc Ngụy văn thiên thụ.

Bạch Hàm than rằng: Giang Ðông nhứt mộ vân.

Nghĩa là:

Ngó Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn,
Nhìn Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh.

 

VỊNH MAI

Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.

(9-12-1925)

Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.
Xuân có tuyết mai xuân hiệp tuyết,
Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.

Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch, mai giành hương.

Nhơn vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.

(14-10-1925)

  CHÚ THÍCH: Bài thi Hán văn viết ra chữ Hán:
人 無 從 世 得 從 天
憂 慮 塵 間 意 未 然
莫 悔 前 程 根 已 定
自 然 以 後 返 如 前

Người không tùng theo đời thì được theo Trời,
Lo nghĩ việc đời ý kiến chưa rồi.
Ðừng hối tiếc tiền trình, vốn đã định,
Tự nhiên về sau sẽ trở lại như trước.

A Ă Â

Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

(19-12-1925)

  CHÚ THÍCH:
Cứu chuộc: Cứu giúp và chuộc tội. Ðơn sai: Không làm đúng theo lời nói.

Có cơ có thế có tinh thần.
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

(20-12-1925)

THẤT NƯƠNG
(Cho Ông Chấn)

Hồ thủy vẫy vùng đáng phận trai,
Trời chiều nay đã rạng cân đai.
Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
Lộc nước gắng đền công chín tháng,
Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.
Qui điền có lúc phong trần rảnh,
Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.

(21-12-1925)

BÀ THIÊN HẬU

Trước có căn duyên ở ngọc cung,
Cầu con nên phải đến phân cùng.
Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,
Nương cậy về sau khỏi não nồng.

(21-12-1925)

THẤT NƯƠNG

Ðã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lãng xao.
Ðàng Ðạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao Ðài.

(22-12-1925)

LỤC NƯƠNG

Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.

(23-12-1925)

BÁT NƯƠNG

Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Ðường Ðạo từ đây bước vững vàng.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.

  CHÚ THÍCH:
Nhành dương: Cành cây dương liễu để rải nước Cam lồ. Nhành dương là chỉ nước Cam lồ. Nghĩa sơ giao: Tình nghĩa lúc mới quen biết nhau. Ðồ thơ: Bức họa đồ và sách, chỉ nền văn hóa của một dân tộc. Thanh Thủy: Bút hiệu của Ngài Cao Hoài Sang.

HUỆ MẠNG TRƯỜNG PHAN (1)

Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

(23-12-1925)

(1) Huệ Mạng Trường Phan là Ông thầy chùa nhỏ trên núi Ðiện Bà.

A Ă Â

Trước vốn thương sau cũng thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho thường.
Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một trường.

HỚN THỌ ÐÌNH HẦU

Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,
Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.

(25-12-1925)

A Ă Â

Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

LÝ BẠCH

Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.

(Noel 1925)

ÐỖ MỤC TIÊN (họa Lý Bạch)

Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui đạo hưởng an nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui mùi đạo,
Mơi viếng Kỳ Sơn tối Cẩm San.

LỤC NƯƠNG

Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu Thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

(Noel 1925)

  CHÚ THÍCH:
Vui thiền: Ý nói vui với việc tu hành. Thế tải: Một năm nơi cõi trần.

LỤC NƯƠNG

Mừng nay đường Ðạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục, phẩm chi sờn.

(13-1-1926, Cầu Kho)

  CHÚ THÍCH:
Rượu cúc Bàn đào: Ý nói Hội Yến Bàn đào nơi Diêu Trì Cung. Hội ẩm: Hội họp nhau mà uống rượu vui vẻ. Lò tạo: Cái lò để tạo hóa ra vạn vật. Bồng Lai, Dinh đảo: Ðó là đảo Bồng Lai và đảo Dinh Châu ở cõi Tiên, chỉ cảnh Tiên.

THẦY

Thành tâm niệm Phật,
Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh, là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo.

(14-1-1926)

Ông Ðốc Bản (Ðoàn Văn Bản) xin chấp bút,

THẦY

Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.

Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Ðôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

Quí Cao (16-1-1926)

THẦY

Thiệt thiệt hư hư dễ biết chăng?
Hành tàng chơn đạo gọi sao rằng.
Khai Thiên lập Ðịa, ai là chủ?
Thánh Phật là ai dám đón ngăn.

(21-1-1926)

Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Ðấng Cao Ðài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia, hỏi bởi ai?

(21-1-1926)

Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật đạo vốn như nhà.

(23-1-1926)

  CHÚ THÍCH:
Chín Trời: Chín từng Trời, thường gọi là Cửu Trùng Thiên. Mười Phật: Mười phương Phật, tức là Thập phương chư Phật, hay chư Phật ở 10 phương. Mười phương đó là: Ðông, Tây, Nam, Bắc, Ðông Nam, Ðông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, phương trên và phương dưới.

Các Ðấng khai mở 9 từng Trời và 10 phương Phật đều là những hóa thân của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

Ta: Tiếng tự xưng của Ðức Chí Tôn. Nhánh nhóc ba: Ý nói Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.

Khai Ðàn Cao Quỳnh Cư :

THẦY

Ðã để vào Tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ Cao Sắc,
Sống có Ta, thác cũng có Ta.

Ðài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.

(27-1-1926)

LÝ BẠCH

Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Ðơn tâm khó định lấy chi mong.

(21-7-1926)

LỤC NƯƠNG

Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
Võ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.

(27-1-1926)

THẦY

Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.

(28-1-1926)

Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau; Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.

(29-1-1926)

Khai Ðàn cho Ông Lê Văn Trung:

THẦY

Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

(31-1-1926)

THẦY

Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết rằng đời trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

(23-2-1926)

Xem tiếp Thơ Ðường luật (8 câu): (1-9)

[ Hình Bìa ]

Last changed: 27-07-2003