PHẦN THỨ TƯ
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ
Chữ Vật đây chỉ vào thân Ngũ uẩn: biết cảm giác; biết giao tiếp với sự vật ngoại cảnh liên đới quan hệ với đời sống của nó. Chính thân nầy phân biệt tốt, xấu, hơn kém, sướng, khổ và cũng chính cái cảm quan nầy xúi giục người ta tìm cái sướng và tránh cái khổ.
SẮC UẨN: Sắc uẩn chỉ về nhục thân có năng lực hay biết phân biệt tốt xấu, hơn kém, phải quấy. Vả lại, nhục thân thuộc về vật chất cho nên khi giao tiếp với sự vật bên ngoài thì nó ưng chịu, cho nên nói rằng: "Sắc uẩn sanh thọ uẩn".
THỌ UẨN: Khi nhục thân ưng chịu sự vật, thì sanh Trí phân biệt, tư tưởng theo đó mà sanh, cho nên nói rằng: "Thọ uẩn sanh Tưởng uẩn".
TƯỞNG UẨN: Có tư tưởng thì có động tác cho nên nói rằng: "Tưởng uẩn sanh Hành uẩn".
HÀNH UẨN: Hành uẩn chỉ về sự động tác, về tư tưởng, lời nói và việc làm, cho nên nói rằng: "Hành uẩn sanh Thức uẩn".
THỨC UẨN: Thức uẩn chỉ sự cảm biết, mà hễ cảm biết thì có trí phân biệt. Lòng hiếu ố theo đó mà sanh, rồi thân Ngũ uẩn tùy duyên biến hiện thiên hình, vạn trạng. Đại loại như thất tình, lục dục. Tâm linh, Phật tánh sở dĩ bị lu mờ là vì cái loạn động của thân Ngũ uẩn đó vậy.
Tóm lại: Ngũ uẩn tuy chia làm năm thành phần, nhưng lúc nào nó cũng liên đới, cấu hợp thành một cuộc sống...
Cái nhơn cách do thân nầy tạo ra gọi là cái "Ta". Duy thức học cho là Giả ngã; bởi vì nó do các nhơn duyên cấu sanh, chớ chẳng có tánh thường trụ. Hễ nhơn duyên hiệp thì sanh, mà hễ nhơn duyên tan thì tử. Cái thuyết "Vô ngã" của Phật giáo do đấy mà thành lập. Triết học Pháp có câu: "Le moi est haïssable". Cái Ta là đáng ghét.
Tại sao cái "Ta" (Giả ngã) đáng ghét?
Bởi vì một khi người ta đã cố chấp cái "Ta" của mình thì đó đã chỉ riêng biệt một cá nhơn rồi. Cái ý niệm cá nhơn sanh lòng vị kỷ và muốn thâu đoạt tất cả của quí, sắc đẹp, quyền cao, lộc cả về cho một mình. Và cũng cái ý niệm cá nhơn ấy, lôi cuốn người ta sống riêng, chớ không nghĩ đến Võ trụ, vạn vật. Đời sống ích kỷ chung quy phải bị loại ra ngoài vạn vật và đó là cái mầm nghiệp quả luân hồi.
Mặc dầu vậy, nhưng nhục thân rất cần cho kiếp hiện tại, để học hành đạo lý cho đến viên thông. Nó là cái võ chở che Linh hồn, nó là tài liệu học tập trên đường tấn hóa. Trong giới tu hành người ta thường sánh nó cũng như ngựa, chúng ta là người cỡi ngựa. Chúng ta có bổn phận săn sóc nó, nuôi dưỡng nó với những vật ăn uống tinh khiết; áp dụng cho nó những phép vệ sanh cần thiết, ấn định trên nền tảng Đạo pháp. Trái lại, nó có bổn phận phải tuân lịnh của chúng ta. Người và ngựa biết ý nhau, tương đắc nhau thì cuộc hành trình mới được an toàn viên mãn. Các bậc Tiên Phật ngày xưa, cũng nương nhờ nhục thân để tu hành cho đến đắc thành chánh quả.
Nên hiểu rằng: chúng ta là một phần tử của Võ trụ; chúng ta đã bẩm thọ một sự sống của cái nguồn sống tràn ngập cả Trời Đất kia. Thế nên, lúc nào chúng ta cũng phải hướng về đó, nghĩa là chúng ta phải sống trong luật điều hòa của Trời Đất, mà muốn đi đến kết đích ấy, chúng ta phải điều hòa bản thân của mình trước rồi điều hòa với xã hội loài người, điều hòa với muôn loài vạn vật. Một phần tử của Võ trụ, chúng ta không có quyền sống riêng.
Còn một lẽ nữa là nhục thân thuộc về vật chất, nó phải chịu dưới hệ thống luật tự nhiên: Sanh, già, bệnh, tử. Ấy vậy, nên khi nào nhục thân, vì một lẽ chi mà thọ bịnh, thì chúng ta phải tận lực cứu chữa cho kỳ được. Tinh thần sảng khoái chỉ ở tận một bản thân sức khỏe. Đó là nói về "Giả ngã".
Giả pháp là sao?
Tất cả sự vật ở thế gian, Phật giáo cho là Pháp. Vậy thử hỏi vạn pháp từ đâu mà đến và chung qui nó về đâu?
Đạo học quan niệm rằng vạn vật đều do khí Âm dương, Ngũ hành, cấu sanh hình thể. Khoa học chứng minh rằng: Điện âm, điện dương cấu thành nguyên tử. Nhiều nguyên tử cấu thành tế bào; nhiều tế bào cấu thành vật thể. Danh từ tuy khác, song tựu trung tất cả là một mà thôi, bởi vì tất cả đều do Thái cực sanh ra.
Vậy đủ hiểu mỗi vật đều do nhơn duyên cấu sanh và sống mãi đến lúc nào nhơn duyên tan rã thì chết. Mà hễ vật chết thì những nhơn duyên cấu sanh vật thể kia lại trở về với bản chất tự nhiên của nó, để rồi tùy duyên biến hiện vật thể khác nữa. Suy rộng ra nữa, chúng ta hiểu rằng vật chất vốn vô thường; chúng nó thoạt có; thoạt không, khi ẩn, lúc hiện, chẳng khác nào hình ảnh vận động trên màn chớp bóng. Duy thức học cho vật chất là Giả pháp, vật chất là giả tạm, cho nên chúng ta chỉ dùng nó tương đối với nhục thân, nghĩa là dùng nó để di dưỡng đời sống tạm và làm tài liệu học tập mà thôi; chớ chẳng khá làm nô lệ nó.
Cõi trần tỉ như một Huê viên. Khách trần tỉ như con bướm bay lượn trong Huê viên, để hút lấy nhụy hoa rồi bay đi, chớ chẳng khá hệ lụy vì kỳ hoa, dị thảo. Hoặc giả chư Pháp đối với kẻ tu hành cũng như chiếc thuyền đối với du khách sang sông. Đành rằng du khách phải cậy thuyền sang sông, nhưng khi sang sông rồi thuyền trở nên vô dụng.
Thì chư Pháp đối với kẻ học đạo cũng vậy, nghĩa là người ta phải dùng chư Pháp để sanh sống học tập, nhưng khi đã có kinh nghiệm rồi không nên chấp Pháp nữa. Bởi vì Ngã tướng và Pháp tướng là hai cái chướng ngại lớn trong khi thực thi Tâm pháp.
Danh từ của sự vật cũng là một món trở đương không nhỏ. Chúng ta cũng nên bàn qua cho rõ, để phá mê trong khi khải ngộ.
Nguyên lai mỗi vật có hệ thống của nó, nhưng người ta phân tách nó ra và ghép những mãnh vụn thành một hình thức khác rồi gán cho nó một quan niệm, một danh từ khô khan và cố chấp đó là sự thiệt, là lý chơn. Người đời hay cãi nhau cũng vì những ngụy biện ấy.
Chúng tôi xin thể theo sách Phật, thuật chuyện nhà vua hội đàm với một ông Sư để minh chứng danh từ của sự vật.
Nhà vua đến viếng ông Sư, ông Sư nói:
- Tâu Kim Thượng, Ngài đến đây bằng chi?
- Bằng xe, nhà vua đáp.
- Tâu Kim Thượng, có phải thùng là xe không?
- Không phải, nhà vua đáp.
- Tâu Kim Thượng, hai bánh xe và cặp gọng có phải xe không?
- Không phải, nhà vua trả lời nữa.
- Tâu Kim Thượng, nếu thùng, hai bánh và cặp gọng chẳng phải xe, vậy vật chi gọi là xe? Tâu Kim Thượng, nếu phân tách ra, thì chiếc xe vốn do nhiều vật liệu hợp thành, chớ chiếc xe chẳng có thực thể, mà nếu chiếc xe chẳng có thực thể, thì cái danh từ chiếc xe là tiếng nói trống rỗng. Tâu Kim Thượng, những danh từ ở thế gian nguyên lai như thế cả, rồi người ta căn cứ vào sắc tướng mà đặt một cái tên, để phân biệt vật này với vật nọ mà thôi. Như chiếc xe này, nếu ngày nào những vật liệu như: bánh, ví, thùng, gọng tan rã thì danh từ chiếc xe hết.
Còn một thứ danh từ do luật tương đối sanh ra nữa, người tìm chơn lý cũng nên quan tâm suy xét, như Đức Lão Tử nói rằng: Phàm sự vật nào mà người ta nghe thấy, rờ đụng được và cho là đẹp, thì sự vật ấy đã mất hết một phần đẹp. Tại sao? Bởi vì cái đẹp ấy vốn do cái chẳng đẹp mà ra. Giả tỉ như cái "CÓ" với cái "KHÔNG" sanh lẫn nhau, cái "KHÓ" với cái "DỄ" lập thành lẫn nhau; cái "DÀI" với cái "NGẮN" so sánh lẫn nhau; cái "CAO" với cái "THẤP" khuynh đảo lẫn nhau. Hoặc ví dụ như: Ngôi nhà đã cất rồi thì ngôi nhà phân biệt trước sân và sau hè. Nay như người ta phá ngôi nhà đi, thì cái danh từ trước sân và sau hè không còn nữa.
Vậy, những danh từ của sự vật như đã kể trên là giả danh. Cái giả danh ấy dùng để phân biệt vật nầy với sự nọ mà thôi, chớ học giả chẳng nên cố chấp.
Nói rút lại: Đến đây chúng ta đã rõ rằng thân Ngũ uẩn của mình, sự vật và danh từ của sự vật ở chung quanh chúng ta, không có tánh thường trụ. Nó hiện ra một thời gian nào đó, rồi nó lại ẩn đi, cho nên chúng ta chẳng khá cố chấp mà phải sa đọa vào chỗ giả tạm.
Cái thuyết Vô ngã, Vô thường của Phật giáo, là một bài thuốc trị bịnh mê chấp của chúng sanh. Chúng ta phải ý hội tận tường và cố vượt lên trên vật chất cảm thông với Đấng Toàn Tri, ngự trị trên ngôn Thái Cực và trong thâm tâm của mình, để lập thành nếp sống hiện tại, thì chung qui mới giải thoát được kiếp sanh tử.
Nhắc lại: "Cái thuyết Vô ngã, Vô thường" là một vị thuốc trị bịnh "Mê chấp". Khi có bịnh thì chúng ta dùng thuốc để trị. Khi bịnh hết rồi chúng ta cũng chẳng khá giữ thuốc lại, vì hết dùng rồi. Cũng như chúng ta đạp gai thì dùng cây gai thứ nhì để lể cây gai thứ nhứt. Khi lể được cây gai thứ nhứt rồi cây gai thứ nhì cũng vô dụng. Chúng ta chẳng lẽ giữ vật vô dụng để làm gì?
Xin xem lại phần sách "Phương châm nhập thế" rất cần cho sự trau giồi thân Ngũ uẩn.

Xem tiếp phần thứ tư: PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ Thân Trí