PHẦN THỨ TƯ
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ
Tâm là chủ tể của thân thể; Tâm muốn hành động thì thân thể phải tuân theo. Thế mà Tâm ra sao? Tâm vốn tịnh là Tánh Trời phú cho. Nhưng khi người ta nhập thế cuộc, thân cảm nhiễm vật chất rồi thân lôi cuốn Tâm làm cho Tâm phải động; mà Tâm động thì trạng thái ấy gọi là Ý. (Tâm chỉ phát động tiện thị Ý - Vương Dương Minh). Ý hiệp với cái Thức của Thân ngũ uẩn để tạo một nếp sống hiện tại thì Ý khuynh hướng về phàm trần, phóng túng theo vật chất mưu cầu sự thỏa thích Nhân thân thì Ý sanh dục vọng. Đó là mối loạn Tâm đó vậy. Phép "Thành ý và Chánh tâm" sau đây sẽ giải quyết vấn đề ấy.
Ý khi hòa hợp với cái Thức của Thân ngũ uẩn thì nó khuynh hướng về phàm trần, phóng túng theo vật chất, mưu cầu sự ích lợi cho nhục thân; nhơn đó mà Ý sanh vọng động và ham muốn vật chất. Tình dục sôi nổi làm loạn Tâm cũng vì Ý vọng động đó. Thành ý nghĩa là sửa ý trở nên Chơn thật. Bởi chữ Thành nghĩa là vô dục, tức trừ tuyệt sự ham muốn vọng động của Ý gọi là Thành Ý, và cũng vì thế nên chữ Thành Ý cũng có nghĩa là cảm hóa Ý trở về với Tâm thanh tịnh vô vi.
Ý tuy có một danh từ, nhưng sự động tác của nó có bảy thức khác công đồng hiệp tác, thành ra Bát thức là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Ý thức, Mạt na thức và A lai da thức. Muốn được dễ bề giảng luận, chúng tôi xin tạm chia ba đoạn như sau:
-
Ý thức
-
Mạt na thức
-
A lai da thức
Ý thức sở dĩ phát sanh là do năm thức ngoài thông truyền Pháp trần (sự vật ngoại giới) vào nó. Ý thức chấp lấy Pháp trần ấy rồi phân biệt tốt xấu, hơn kém, lành dữ. Lòng hiếu ố theo đó mà sanh. Lòng hiếu ố, nếu người ta không kềm hãm được thì ý thức chạy rong ra ngoài, khiến người hóa theo vật, nghĩa là lúc bấy giờ người ta cứ theo lòng hiếu ố mà hành động. Xin xem ví dụ kế đây:
Ví dụ thứ nhứt: Khi ngườì ta gặp cảnh không vừa ý thì hờn giận, oán ghét, buồn khổ và lo tránh xa cảnh ấy.
Ví dụ thứ hai: Khi gặp sự vật thích ý thì ham muốn, trìu mến, rồi lo làm thế nào cho sự vật ấy về tay mình. Nếu được thi vui mừng và sợ mất, sợ hư mà phải gìn giữ, săn sóc. Trái lại, nếu thất vọng thì đâm ra thù hiềm, oán giận. Những tưởng lượng lực nầy biến hóa thiên hình vạn trạng kể không xiết. Kinh Phật gọi tóm tắt là Thất tình (mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét và muốn) và Lục dục (muốn sắc, muốn thinh, muốn hương, muốn vị muốn xúc và muốn pháp).
Thất tình và lục dục tùy bên ngoài mà hiện sinh, như chúng ta thấy có người đương vui mà bỗng nhiên buồn; đương giận mà bỗng nhiên thương; đương yêu mà bỗng nhiên ghét. Những tư tưởng ấy hoạt động sôi nổi đến khi hết cơ duyên bên ngoài, thì nó tạm yên và biến thành những dấu vết tinh vi và theo Truyền thống thức là thức thứ bảy, vào ẩn náo trong Hàm tàng thức là thức thứ tám, và chờ cơ duyên khác đặng xuất hiện, tác động nữa và cứ thế mãi mãi.
Mạt na thức cũng có tên là ý căn. Bởi vì ý thức dựa vào nó mà hiện sanh. Duy thức học bài số năm chép rằng:
Thử dĩ nhị năng biến.
Thị thức danh vi Mạt na.
Y chỉ chuyển duyên hỉ.
Tư lường vi tánh tướng.
Nghĩa là cái năng lực biến hóa thứ hai tên là Mạt na thức, nó mượn thức thứ tám làm đối tượng để suy nghĩ. Tư lường là tánh tướng của nó. Phận sự của nó là thông truyền chánh niệm của Tâm linh ra sáu thức ngoài để thực hiện đạo đức và nó cũng có phận sự khác là truyền tống những Tà kiến, Ác kiến ở ngoài vào trong Hàm tàng thức để cất kín. Nó vốn ỷ lại vào thức thứ tám, cho nên nó cố chấp cái thân của A lai da thức, tức thân Ngũ uẩn, làm chơn thật và trường tồn để tư lường.
Duy thức học bài số 6 chép rằng:
Tứ thường não thường câu.
Vị ngã si, ngã kiến.
Tịnh ngã mạn, ngã ái.
Cập dữ xúc đẳng câu.
Nghĩa là bốn căn phiền não thường vấn vít lẫn nhau, là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái cùng với các sự xúc động khác như: tham, oán, si, ái nối tiếp lẫn nhau mà làm rối loạn Tâm linh. Tham, sân, si, ái đã nghị luận rồi, bây giờ chúng tôi xin bàn bốn căn phiền não.
1. Ngã si: Ngã si nghĩa là mê muội, không biết bổn tánh chơn thật của mình, rồi nhận cái giả làm cái chơn, và đối với lẽ Đạo: không biết Võ trụ, Nhơn sanh là gì mà bướng bỉnh cho là quán thông Chơn lý.
2. Ngã kiến: Ngã kiến nghĩa là chấp lấy ý kiến của mình là Chí thiện, rồi chẳng học hỏi chi nữa. Kinh Phật chép chuyện bọn người mù xem voi: người thứ nhứt rờ đuôi voi, rồi bảo rằng voi giống cây chổi; người thứ hai rờ chân voi, rồi bảo rằng voi giống cây cột, mỗi người quả quyết cái biết của họ là đúng chớ không sai lầm nữa, người sáng nghe thấy bọn mù thì buồn cười. Thế mà họ hiu hiu tự đắc. Người đời, nếu căn cứ theo cái mê lầm của Mạt Na thức để nhận định sự vật (Chư Pháp) thì chẳng khác nào nhóm người mù biết voi.
3. Ngã mạn: Ngã mạn, nghĩa là bướng bỉnh, khoe khoang tự cho mình là tài trời, hơn tất cả mọi người.
4. Ngã ái: Ngã ái nghĩa là chỉ biết có mình là quí trọng, tài cao, đức rộng, không ai sánh bằng và muốn mình được tôn sùng và sống mãi.
Nói rút lại, Mạt Na thức có tánh si mê, bướng bỉnh, nó chấp lấy nhục thân là cái Ngã chơn thật rồi theo đó mà hoạt động nói tỉ như khi thức nó bắt chúng ta chạy tần, chạy sở cầu sự ích lợi, thỏa mãn nhục thân. Còn khi chúng ta ngủ, nó lại bắt chúng ta mê tít đi, mặc dầu, thân thể nầy còn nằm trên giường ngủ, nhưng nó bắt chúng ta làm thân khác. Nếu mộng làm thân giàu sang thì lên xe, xuống ngựa và sống một cuộc đời Vương giả. Còn như mộng làm thân nghèo hèn thì rách rưới lang thang đi theo đầu làng xó chợ. Ông Trang Tử thuật lại rằng: Xưa kia ông nằm mộng thấy ông là bướm. Lúc bấy giờ, ông hớn hở làm bướm với một cách thích thú. Mãi đến khi bừng tỉnh dậy mới hay rằng nhục thân của ông vẫn còn nằm trên giường ngủ. Ông tự nghĩ: Không biết Trang Tử mộng ra bướm, hay bướm mộng ra Trang Tử.
Thật Mạt Na thức khiến người ta ngộ nhận cái giả làm cái chơn. Nếu người ta không nghĩ lại thì cái ngộ nhận ấy sẽ xô người ta vào trong phép Luân hồi chuyển kiếp vô cùng tận.
A lai da thức là biến thể của Tâm linh, thành thử, khi còn thanh tịnh thì nó sáng suốt. Phật học thí dụ nó cũng như biển giác, một màu trong sạch, toàn thể viên minh. Lúc bấy giờ nó ra lịnh cho nhục thân hành động theo Thiên lý. Nhưng về sau, nghĩa là thân Ngũ uẩn bị nhiễm trần, lôi cuốn nó biến thành một trạng thái khác, mang danh là thức thứ tám. Nó là căn bản của bảy thức kia và chung qui nó vẫn giữ cất kín những vọng thức ở ngoài truyền vào, cho nên nó cũng có tên là Hàm tàng thức.
Sự hàm chứa của A lai da thức như vầy: Nguyên những tư tưởng ở trong ý thức, tùy cơ duyên bên ngoài mà động tác, mãi đến khi hết cơ duyên bên ngoài thì nó biến thành những dấu vết cực nhỏ, cực vi và theo Mạt na thức vào ở ẩn trong A lai da thức, chờ cơ duyên khác đặng phát xuất động tác nữa. Mà mỗi một lần xuất hiện động tác rồi, lúc trở vào thì những dấu vết cực vi, cực nhỏ ấy lại thâu thập thêm một phần sức mạnh nữa. Tích thiểu thành đa, cho nên từ muôn vàn kiếp quá khứ đến nay, những hạt giống Vọng thức tích lũy trong thức thứ tám không biết đâu mà kể cho hết. Cũng vì lẽ ấy nên A lai da thức cũng có tên là Chủng tử tạng, tức cái tạng chứa đủ các thứ hột giống để sanh hóa.
Nên hiểu rằng: hột giống nói đây không phải vật chất như hột đậu, hột mè, mà thật là một sức mạnh vô hình có đủ cơ năng tùy duyên biến hiện. Sức mạnh nầy khi người ta còn sống thì nó ở ẩn trong Trạng chủng tử và tùy cơ hội sanh hoạt, cầu sự ích lợi cho thân Ngũ uẩn. Còn khi tử hậu nó là hột giống sanh thân Ngũ uẩn cho kiếp vị lai và cứ thế mãi, cho nên gọi nó là hột giống sanh kiếp luân hồi.
Nay muốn giải thoát kiếp luân hồi thì phải tuyệt diệt cái nguyên nhơn sanh nó là nghiệp "Vô minh". Khi nào hết si mê thì chúng ta không còn ham mến việc phi đạo nữa. Như thế thì tình dục không có chỗ nương để sanh. Đó là chỗ mà sách Đại học bảo rằng: Muốn Chánh tâm phải Thành ý trước.
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Thành ý cốt yếu phải làm chủ được Lục căn, Lục trần, Lục thức. Làm chủ được 18 sở nầy, tức là hàng phục được ý thức. Rồi chúng ta còn phải hồi quang phản chiếu về nội giới, để bứng gốc, bứng rễ những Vọng chấp ở trong thức thứ bảy và thứ tám như: tật hư, nết xấu, thành kiến hủ lậu, nhứt là "Ngã tướng" và "Pháp tướng" còn ẩn núp trong Tiềm thức giới.
Về phương pháp thực hành, mời quí ngài cùng chúng tôi tham khảo học lý truyền thông từ xưa như sau:
Đạo Đức Kinh chương 15 nói rằng:
Năm màu sắc làm chóa mắt người ta,
Năm âm thanh làm điếc tai người ta,
Năm vị ăn làm tê tái lưỡi người ta;
Sự dung rủi săn bắn làm loạn lòng người ta.
Báu vật mắc tiền khiến người ta hành động trái đạo đức.
Lẽ như vậy, nên Thánh nhơn theo Tâm mà chẳng theo nhỉ mục.
Đức Khổng Phu Tử bảo: "Khắc kỷ phục lễ" nghĩa là ép mình theo lẽ đạo như:
Mắt đừng xem hình sắc của vật phi lễ;
Tai đừng nghe lời phi lễ;
Thân thể tứ chi đừng hành động phi lễ;
Miệng đừng ăn nói phi lễ.
Quả thật vậy, nếu ngũ quan không vượt theo sự vật phi lễ thì ý sẽ được thanh tịnh.
Phật giáo dạy: "Bất tùy phân biệt". Thật vậy, nếu ngũ quan chẳng chạy theo vật chất để phân biệt tốt xấu hơn kém thì ngũ thức không chỗ nương để sanh. Thế là Ý thanh tịnh. Đệ lục giác quan là chỗ sanh lục thức; nay giác quan ấy đã thanh tịnh thì phép Thành ý chẳng còn khó khăn nữa.
Đức Lão Tử nói rằng:
Danh sánh với thân bên nào trọng hơn?
Thân sánh với tiền của cái nào quí hơn?
Đặng sánh với thất cái nào khổ hơn?
Ta (Đức Lão Tử) sở dĩ có hoạn nạn là tại ta cố chấp nhục thân là trường tồn, bất diệt, rồi quanh năm cứ làm thỏa mãn nó. Nay chúng ta cứ quên nó đi, thì chúng ta có hoạn nạn gì đâu?
So sánh lợi với hại rồi Ngài khuyên chúng ta nên vi vô vi, vị vô vị. Nghĩa là làm việc khi việc chưa đến, còn ăn thì không cần miếng ngon, vật lạ. Hai câu nầy cắt nghĩa như sau:
1. Vi vô vi đại ý như vầy: Chúng ta đã biết làm dữ thì họa trả lại. Biết như thế rồi chúng ta không làm dữ. Hoặc nói rõ ra là chúng ta biết làm dữ thì họa trả lại. Lánh dữ tức tránh họa khi chưa đến. Thế làm việc khi chưa đến.
2. Vị vô vị đại ý nói rằng: Người ta ăn để sống, vậy ăn thế nào đủ sống là được, chớ không cần cao lương mỹ vị.
Ở đời phải biết tri túc, nghĩa là biết đủ ăn, đủ mặc, đủ sống thì thôi. Tri túc thì Tâm không vọng cầu, không phóng túng. "Vi họa mạc đại ư bất tri túc, vi cữu mạc đại ư dục đắc; cố tri túc chi túc thường túc hỉ". (Đạo Đức Kinh). Nghĩa là nói về việc tai họa thì chẳng có tại họa nào lớn bằng "chẳng biết đủ". Nói về nguy hại thì chẳng có nguy hại nào lớn hơn lòng "muốn đặng". Cho nên biết đủ trong cái đủ thì luôn luôn được đủ.
Nói rút lại, phép Thành ý khởi đầu từ sự ngăn ngừa Lục căn không cho phóng túng theo vật chất. Còn bên ngoài thì xem Lục trần như giả tạm, không quá ham muốn; không quá luyến ái. Lục căn không giao tiếp với Lục trần thì Lục thức chẳng có chỗ nương để sanh. Thế là ý thức trở về chơn, nghĩa là ý thức không còn sôi nổi làm loạn Tâm linh nữa.
Phép Thành ý là thế, còn cái bí quyết của nó, sách Đại học nói rằng: "Sở vị thành kỳ ý giã, vô tự khi dã". Nghĩa là cái mà gọi là sửa ý ra chơn thật kia cốt yếu không tự khinh.
Thử hỏi từ trước đến giờ chúng ta thất tín với mình mấy lần? Chắc hẵn là không ít. Giả tỉ như lúc ấu xuân, chúng ta hứa với mình: Cố gắng học hành cho trở nên người hữu dụng. Thế mà ít lâu lại thối chí ngã lòng. Đó là tại chúng ta tự khinh mình vậy.
Phép Thành ý phải cương quyết thực hành. Nói tỉ như khi chọn được điều lành thì tận lực làm theo, hoặc chọn được việc chẳng lành thì thật tình lánh xa. Làm lành lánh dữ phải thực hiện rõ ràng, cũng như người ta ưa cái đẹp, ghét mùi hôi kia vậy. Hễ ý thành thì Tâm sẽ chánh.
Để kết luận phép Thành ý, chúng tôi xin nhắc câu sách "Nhạc ký" nói rằng:
"Người ta sanh ra lúc ban đầu thì tịnh; ấy là tánh Trời phú cho người, đến chừng cảm vật chất mà vọng động là tại sự ham muốn của Tánh. Vật đến thì người ta cảm biết; lòng hiếu ố theo đó mà sanh. Lòng hiếu ố, nếu chẳng kềm hãm được bên trong thì sự hay biết chạy rong ra ngoài và nếu không thu liểm được thì Thiên lý bị tiêu diệt hết. Vả lại, vật cám dỗ người ta thì vô cùng, nếu không tiết chế được lòng hiếu ố, thì lúc bấy giờ người ta bị hóa theo vật. Mà hễ người ta bị hóa theo vật thì Thiên lý bị mất rồi nên người sống theo Nhơn dục". (2)
(2) Nhơn sanh chi tịnh Thiên chi Tánh, cảm ư vật nhi động Tánh chi dục dã. Vật chí trai, tri nhiên hậu hiếu ố hình yên. Hiếu ố vô tiết ư nội. Trí dụ ư ngoại, bất năng phản cung, Thiên lý diệt hỉ. Phù vật chi cảm nhơn vô cùng nhi nhơn chi hiếu ố vô tiết, tắc thị vật chí; nhi nhơn hóa vật dã. Nhơn hóa vật dã, diệt Thiên lý nhi cùng Nhơn dục dã. (Nhạc ký)
Vậy Tâm tịnh là Tánh Trời phú cho người ta, cho nên hễ chúng ta giữ được Tâm tịnh thì Thiên lý xuất hiện làm chủ Nhục thân hành động theo Đạo tự nhiên. Trái lại, để cho Tâm động thì Tâm lúc bấy giờ biến thành Ý. Ý thì khuynh hướng về phàm trần ham muốn vật chất cầu thỏa mãn Nhục thân. Đó gọi là Nhơn dục. Mà hễ Nhơn dục càng thạnh hành thì Thiên lý càng lu mờ. Sử khổ não theo đó mà sanh.
Vậy phép Thành ý tóm tắt là bỏ vọng tồn chơn, hoặc bỏ động về tịnh. Mà hễ Nhơn dục tận tịnh thì Thiên lý lưu hành.
Tâm là Thần minh, tiếng thông thường gọi là Thần Lương Tâm. Sở dĩ Tâm linh thiêng như thế là vì bản thể của Tâm là điểm Tánh Trời phú cho người. Nho giáo gọi Tánh ấy là Thiên lý và cái Chiêu minh linh giác, ở trong Thiên lý ấy Vương Dương Minh gọi là Lương tri mà chúng tôi đã giải bày trong chương Thần Trí. Nhưng có điều khó cho người thế nhơn là Tâm vốn hư hư thiệt thiệt, khi hiện, khi ẩn, thoạt có, thoạt không. Trí phàm khó nhận thức. Đức Khổng Phu Tử nói rằng: "Tháo tắc tồn, xả tắc vong, xuất nhập vô thời, mạc tri kỳ hướng". Nghĩa là giữ thì còn, bỏ thì mất; ra vào chẳng có giờ khắc, không nhứt định ở chỗ nào.
Theo lẽ nầy mà suy ra, thì tâm người ta đáng lẽ chí thiện, chí mỹ; vì bản thể của nó là một điểm Tánh Trời ban phú cho người. Thế mà tại sao chúng ta phải thực hành phép Chánh tâm, cầu Tâm được ngay lành?
Ấy đó, chỉ vì khi người ta nhiễm trần, Tâm bị Nhục thân lôi cuốn mà phải thất chánh. Xem sách Đại học bảo rằng: "Tâm nếu có nóng giận thì thất chánh; nếu có sợ sệt thì thất chánh. Mà hễ Tâm thất chánh, thì mắt xem mà chẳng nhận biết; tai lóng nghe mà e chẳng nhận nghe; miệng ăn mà chẳng nhận biết mùi. Tình dục đã làm loạn Tâm như vậy, nay chúng ta đã thực hiện phép Thành ý; tức đem vọng về chơn, thì Tâm được cởi mở một phần nào, để rồi phục hồi chơn tướng của nó".
Bây giờ nói đến phép Chánh Tâm, phép nầy có hai mặt: bên ngoài thì lo ngăn chận khi quan, bên trong phải thâm nhập vào nội giới, khám phá và tuyệt trừ những cái mê chấp như: ngã tướng, pháp tướng chẳng hạn.
Nên hiểu rằng muốn bài trừ Tâm động thì không phải đứng bên ngoài dòm ngó, mà trái lại phải thâm nhập vào nội giới, dùng Tâm biết Tâm; dùng Tâm trị Tâm. Về phương pháp thực hành chúng tôi đề cập phép Trai tâm như sau:
Trai tâm là gì?
Trai tâm là một phương thức đem Tâm về cõi thanh tịnh vô vi và dồi mài, trau sửa cho nó phục hồi trạng thái Thiên nhiên của nó.
Phép Trai tâm gồm có hai mặt là:
-
Trai tâm tiêu cực
-
Trai tâm tích cực
Đối với sự vật bên ngoài, hành giả phải giữ thái độ thụ động, nghĩa là xem sự vật như không quan hệ đến mình. Tuy có giao tiếp, có hành động, nhưng không vướng mắc. Chúng ta nên tưởng mình như một người ngoại quốc mới đến xứ lạ, người không quen. Ở hoàn cảnh ấy, chúng ta có đường chúng ta, sự vật có đường của nó. Huệ Năng Lục Tổ bảo rằng: "Kẻ hành giả nên đặt mình vào cảnh không, cần cho Tâm được không". Chỗ nầy Đức Lão Tử bảo rằng: "Chúng ta nên giữ lòng lặng lẽ như đứa hài nhi chưa biết cười". Trang Tử bảo chúng ta nên quên. Đại khái như quên việc trần lao, tục lự, quên tất cả những cái gì đã làm mê lòng. Quên ngoài, quên trong, quên đến cả thực tại của mình. Pháp tọa vong nầy thực thi cho đến cùng cực. Lúc bấy giờ trong thâm tâm chỉ còn có một cái toàn thể duy nhứt và, theo Trang Tử, trong cảnh đại tịnh ấy thình lình phát xuất một ánh sáng trong suốt có thể cảm thông với Đức CHÍ TÔN là nguồn sanh hóa vạn vật.
Thực thi phép trai tâm tiêu cực, tức như phép tọa vong thì chúng ta đã ngăn được ngọn gió bát phong (3). Lòng chúng ta tạm yên trong cảnh bình tĩnh; nhưng những Tâm tế tướng như: Ngã tướng, Pháp tướng chẳng hạn vẫn còn tiềm tàng trong chỗ sâu kín, thành thử chúng ta phải thi hành phép Trai tâm tích cực nữa, tức phép "Tĩnh sát" để tuyệt diệt đến căn bản của nó, thì Tâm mới được sáng tỏ viên dung.
(3) Bát phong là tám ngọn gió: Lợi, suy, khổ, lời khen và lời chê trước mặt, lời khen và lời chê sau lưng. Tám món nầy thường loạn Tâm.
Công phu "Tĩnh sát" có động tác. Nhưng động tác nói đây không phải vọng động theo ý thức; không phải phóng Tâm theo ngoại giới như phàm phu, mà thật phải hồi quang phản chiếu vào Tâm giới, khám phá những mê chấp. Đại khái như trong khi tọa vong, chúng ta thấy có một vọng niệm manh nha tức thì chận nó lại và cố tìm ra nguyên nhân của nó, rồi dùng cách quán tưởng, làm cho Tâm sanh nhàm chán để cởi mở cho hết vọng chấp.
Ví dụ: Chúng ta có tật nông nổi.
Chúng ta nên dùng lẽ trầm tĩnh để quán tưởng, nghĩa là cứ nhớ mãi trầm tĩnh thì nông nổi chẳng có chỗ xen vào. Công phu quán tưởng lâu lâu trầm tĩnh mới thành thói quen rồi nó sẽ thay thế cho tật nông nổi. Thói quen là tánh tự nhiên thứ nhì. Chúng ta nên biết điều ấy.
Sau đây, chúng tôi xin trích vài chuyện của người xưa học hỏi với nhau, để minh xác công phu tu hành:
a.) Khiết Khuyết hỏi Đạo nơi Bị Vi:
Bị Vi nói rằng: "Xác ông giữ thật chính, mắt ông nhìn thật chuyên nhứt. Lâu lâu thì hòa khí sẽ đến với ông. Thu liểm trí lại, giữ thân tâm điều hòa rồi Thần linh sẽ đến với ông. Đức sẽ biến thành vẻ đẹp của ông, Đạo sẽ biến thành nhà của ông".
Bị Vi nói chưa dứt lời thì Khiết Khuyết đã ngủ khì. Thật lòng người ấy như tro nguội; xác người ấy như xương khô.
Đại để phép Tọa vong là thế.
Tuy thân tâm như thế, nhưng người ấy có một cái biết lạ lùng. Cái biết ấy cảm thông từ lớp trí thức, từng lớp ý thức và thâu nhập vào trong bản thể của Võ trụ mà chúng ta không đủ văn từ để mô tả. (4)
(4) Thể theo sách "Lịch sử trích học Đông phương" của cụ Nguyễn Đăng Thục.
b.) Nhan Hồi hỏi Phu Tử về phép Trai tâm:
Nhan Hồi nói: - Nhà Hồi nghèo, không rượu để uống, Hồi lại không ăn hành, tỏi; thế có phải chay tịnh không?
Đức Trọng Ni đáp: - Đó là chay tịnh để tế lễ, chớ không phải Trai tâm.
Dám hỏi: - Thế nào là Trai tâm?
- Hãy chuyên nhứt trí ngươi, không nên nghe bằng tai, mà phải nghe bằng Tâm; tiến lên nữa, không nên nghe bằng Tâm mà phải nghe bằng Khí.
Nếu dùng tai để nghe thì nó ở ngoài, nếu dùng Tâm để nghe thì nó ngưng ở chỗ hợp. Khí là vật hư không, chỉ có hư không mới điều hòa với Đạo.
Thế thì Trai tâm cốt yếu cầu Tâm được hư không, nhưng, ở đây dùng danh từ hư không để đánh đổ bịnh rối loạn, chớ sự thật thì Tâm có một điểm Chơn thần ở trong cõi lòng vị phát chi trung. Cái linh giác nầy nếu biết hàm dưỡng theo phép Chánh định, thì lâu lâu nó sẽ biến thành một tinh thần cường kiện, sáng suốt, có thể làm chủ Nhục thân; tiến hóa theo Đạo tự nhiên.
Nên hiểu rằng: Đó chẳng phải là một năng lực nào khác mà vốn thật là một trạng thái Tâm linh tấn hóa đến một trình độ cao siêu, mạng danh là "Chơn ngã" mà cũng là điểm Tánh của Đức CHÍ TÔN chia cho mỗi người. Nay chúng ta đem tánh Thiên nhiên của mình trở về với nguồn cội của nó, tức nó trở về với Đức CHÍ TÔN, rồi nó sẽ hòa mình với Đạo tự nhiên và vạn vật mà sanh sống trong Võ trụ. Thế nên chúng ta tạm gọi là Võ trụ hóa Tâm linh hoặc nói cách khác là sửa mình sanh sống theo Đạo Trời, và lúc bấy giờ trong Tâm thanh tịnh kia chỉ có một điểm Chơn thần vi chủ cảm ứng mà biết mọi lẽ; cho nên Đức Lão Tử nói rằng: "Không dòm ra cửa sổ mà biết Đạo Trời, không ra khỏi ngõ mà thông suốt việc Thiên hạ".

Xem tiếp phần thứ tư: PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ Tánh Khí