TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA

 

MỤC LỤC

Phần giới thiệu
Phần thứ nhứt:
VÕ TRỤ THIÊN ĐỊA
Phần thứ hai:
VÕ TRỤ DỊCH LÝ
Phần thứ ba:
PHƯƠNG CHÂM NHẬP THẾ
Phần thứ tư:
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ
Phần tổng kết

 

PHẦN THỨ TƯ
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ


 

CHƯƠNG THỨ TƯ


TÁNH KHÍ

Theo Chu Hối Am: Trong khoảng Trời Đất có Lý, có Khí. Lý là cái Đạo thuộc về Hình nhi thượng, cái gốc sự sanh ra vật. Khí là cái Khí cụ thuộc về Hình nhi hạ, cái đồ để sinh ra vật. Bởi thế nên người với vật sanh ra, ắt là bẩm cái Lý ấy rồi mới có Tánh; ắt là bẩm cái Khí ấy rồi mới có hình.

(Thiên địa chi gian, hữu Lý hữu Khí. Lý giã giả, Hình nhi thượng chi Đạo giã, sinh vật chi bản giã. Khí giả giã, Hình nhi hạ chi khí giã, sanh vật chi cụ giã. Thị dĩ nhơn vật chi sanh, tất bẩm thử Lý, nhiên hậu hữu Tánh, tất bẩm thử Khí, nhiên hậu hữu hình). (Nho giáo - Trần Trọng Kim quyển hạ trang 157).

Theo lời lẽ trên đây, chúng ta hiểu rằng người ta sanh ra ngoài cái lẽ hình hòa của Cha mẹ, người ta còn bẩm thọ của CHÍ TÔN một điểm tánh để làm tự tánh của mình, mà Chu Hối Am gọi là Lý, như đã nói trên và một phần Khí của Võ trụ để làm hình thể của mình. Tánh và Khí (Hồn xác) liên hệ nhau như một thể, cho nên nói rằng: Chẳng có Tánh nào mà không Khí, và cũng chẳng có Khí nào mà không Tánh.

Nhắc lại, khi bổn tánh người ta lìa khỏi cội sanh nó là Đức CHÍ TÔN, thì nó lưu hành khắp Võ trụ, mà hễ đến đâu thì nó theo luật "Đồng khí tương cầu" thu hút khí chất của Võ trụ để tạo nên hình thể của mình. Thế nên Tánh Khí không phân biệt vật nào trước, vật nào sau. Cũng nhơn lẽ nầy, mà Cổ nhơn cho thân người là bầu Trời Đất nhỏ, hàm xúc đủ mọi khí Thái cực, Âm dương, Ngũ hành và các lẽ mầu nhiệm của Trời Đất, và cũng nhơn lẽ nầy, mà sách Lễ ký nói rằng: "Nhơn giã kỳ vi, Thiên địa chi đức, Âm dương chi giao, Quỉ thần chi hội, Ngũ hành chi tú khí dã". Nghĩa là người ta là đức Trời Đất, chỗ giao cảm khí Âm dương, chỗ tụ hội của Quỉ thần, và những tú khí Ngũ hành.

Đến đây chúng ta hiểu rằng, chúng ta do Đạo mà sanh thành, nhưng khi đã trót sanh thành rồi, chúng ta cũng phải hàm dưỡng kỳ được lý Đạo nơi mình thì mới sanh sống và tấn hóa. Đạo Đức Kinh chương 39 nói rằng:

Trời được Một (Đạo) thì trong,
Đất được Một thì yên,
Thần được Một thì linh,
Vạn vật được Một thì sanh sống.
Đến như số Một (Đạo) nói đây:
Nếu Trời chẳng có nó để trong thì e Trời phải liệt; Đất chẳng có nó để yên thì e Đất phải lở; Thần chẳng có nó để Linh thì e Thần phải hiệt. Muôn loài chẳng có nó để sanh sống thì e muôn loài phải diệt.

"Thiên đắc nhứt dĩ thanh,
Địa đắc nhứt dĩ ninh,
Thần đắc nhứt dĩ linh,
Vạn vật đắc nhứt dĩ sinh,
Kỳ trí chi nhứt giã,
Thiên vô dĩ vi thanh tương khủng liệt,
Địa vô dĩ vi ninh tương khủng phế,
Thần vô dĩ vi linh tương khủng hiệt,
Vạn vật vô dĩ vi sanh tương khủng diệt".

Vậy đủ hiểu rằng chúng ta là một phần tử của Võ trụ, chẳng những chúng ta phải sanh sống theo cái lối nhịp nhàng của Đại toàn thể Võ trụ mà còn phải sống chung với muôn loài nữa. Đạo giáo có câu: "Giữ Thiên Địa đồng sanh, giữ vạn vật đồng thể". Cớ sở dĩ nhiên, nên chúng ta hằng thấy người nào gần Đạo thì hưởng nhiều hạnh phúc. Trái lại, kẻ càng xa Đạo thì càng chịu nhiều thống khổ. Xem như Đạo Đức Kinh chương 39 nói rằng: "Vạn vật được Đạo thì sanh, còn hễ thất Đạo thì diệt". Vậy người ta là một loài trong số vạn vật thì người ta cũng chẳng ngoài công lệ ấy; nghĩa là người ta phải lập đức theo lẽ Chí thiện và phải ăn ở thế nào để bảo tồn hai khí Âm dương luôn luôn điều hòa bên trong nội giới. Theo Y học Đông phương nếu hai khí Âm dương bị thiên thắng thì mất điều hòa, mà mất điều hòa thì thân thể mất sức khỏe và sẽ đi lần đến diệt vong.

Đến đây chúng ta đã hiểu đời sống của mình can hệ với Đạo tự nhiên thế nào rồi. Bây giờ, chúng ta nên tìm biết Tánh Khí của mình, thay đổi, đổi thay làm sao. Tự biết mình, tự biết Đạo tự nhiên rồi lần hồi theo đó mà học tập cầu cho Tánh Khí đồng hóa với Đạo tự nhiên. Thiết tưởng sự sanh hoạt của mình đã theo được cái hòa điệu của động lực nguyên thủy Võ trụ, thì đó gọi là chúng ta đặt đời sống của mình ra ngoài không gian, thời gian, nhơn quả. Mà hễ không gầy Nhơn quả tiện thị là giải thoát kiếp luân hồi vậy.

 

BỔN TÁNH

Như Thánh Ngôn đã chép trước kia rằng: Tánh người là một điểm tánh Trời phú cho; cũng như sách Trung Dung chép "Mạng Trời là Tánh người". Còn khi ở nơi người Tánh là bản thể của Tâm. Thế nên muốn thấy Tánh trước phải khai sáng Tâm mình. Phật dạy:"Minh Tâm kiến tánh" là lẽ như vậy. Phép Minh Tâm Kiến Tánh tuy không nói về Khí, nhưng chúng ta phải hiểu rằng Tâm Tánh phản bổn hườn nguyên, thì Khí sẽ theo đến vậy.

Nhắc lại: Tánh ấy vốn của Trời ban cho người, thành thử nó huyền diệu vô cùng, hễ tịnh thì nó thu tàng những lẽ nhiệm mầu Thiêng liêng của Võ trụ, còn hễ động thì nó ứng hóa khắp cả Càn khôn. Tánh ấy vốn có một, nhưng mang nhiều tên khác nhau như:

Phật giáo gọi Phật tánh, Đạo giáo gọi Linh quang, Nho giáo gọi Bổn tánh, tiếng thông thường gọi Linh hồn. Chúng ta chớ khá lầm lẫn danh từ mà phải sai lạc nguyên tắc tu hành. Về sự quan sát nhận định tánh ấy, ông Duy Ma Cật nói rằng: Phật Tánh không nhiễm, không tịnh, không nhiều, không ít, không trước, không sau, không nhứt định ở đâu, nhưng chỗ nào cũng thấy nó đến. Nó ngự trên Lục nhập (sáu giác quan) sống ngoài Tam giới (dục giới, sắc giới, và vô sắc giới). Nó không phải vô vi và cũng chẳng phải hữu vi. Bản thể của Tánh hồn nhiên ngôn ngữ của người ta không thể bàn luận, không thể so sánh, suy lường được. Thế mà vạn pháp ở thế gian đều qui về Tánh.

Quả thật Tánh ấy tùy thời ẩn hiện, chủ trương hành động của người theo Đạo tự nhiên. Nhưng nếu người ta không biết giữ gìn cái bản thể thanh tịnh của nó và để cho Nhục thân trước nhiễm vật chất kích thích tâm động thì lúc bấy giờ Tánh bị biến ra một trạng thái khác mạng danh là Tánh Khí chất.

Tánh Khí chất

Theo danh từ mà định nghĩa thì Tánh nầy do Khí chất mà sanh. Nó hay khuynh hướng về phàm trần, mưu cầu sự khoái lạc vật chất. Lòng nhơn dục theo đó mà sanh. Theo Phật giáo hễ lòng người có tham thì tham sanh ra sân; rồi sân lại sanh ra si. Đó là cái đại hoạn nạn của chúng sanh. Vậy phải làm sao để tránh cái hoạn nạn ấy. Chúng ta nên thực hành phép Tồn tánh Dưỡng khí.

 

TỒN TÁNH DƯỠNG KHÍ

Tồn tánh nghĩa là giữ gìn nguyên vẹn tánh bổn nhiên Trời phú cho người, nghĩa là Tánh ấy luôn luôn phải thuần nhiên Thiên lý và tự tại trong thâm tâm, để chủ trương sự hành động của phàm thân. Dưỡng khí nghĩa là nuôi dưỡng cái Khí của thân thể được kiện cường và lọc lược nó trở nên thanh khiết, như khí Thái hư của Võ trụ, để rồi Khí và Tánh hiệp thành một pháp thân, sanh sống và giải thoát ra ngoài vòng Nhơn quả, Luân hồi.

Tánh và Khí tuy có hai danh từ, nhưng về sự động tác, chúng nó có một thể mà thôi. Như chúng ta thấy: chẳng có Tánh nào mà không Khí và cũng chẳng có Khí nào mà không Tánh. Tánh Khí dung hòa thì mạng sống mới hoàn bị, tư tưởng và tình cảm mới cụ thể. Lẽ ấy chẳng khác nào khí âm, khí dương của Trời Đất lưỡng hiệp thành Đạo biến hóa: Sanh dục vạn vật.

Cái cớ dĩ nhiên, cho nên phép Tồn tánh Dưỡng khí phải thực hành song song, khiến cả hai Tánh Khí nương nhau đồng tiến trên đường Tấn hóa. Lữ Tổ, một danh nhân trong Đạo giáo nói rằng: Tu mạng (Dưỡng khí) mà không tu tánh, phép tu hành ấy đệ nhứt bịnh, Còn tu tánh mà không tu mạng thì vạn kiếp Âm linh, chớ khó nhập Thánh.

Tuy vậy mặc dầu, nhưng tu tánh chiếm phần ưu tiên, bởi vì Tánh là Tướng soái của Khí. Tánh đến trước thì Khí sẽ theo sau; cũng như vị Tướng soái ở đâu thì ba quân di chuyển đến trụ sở ấy; cho nên có câu nói rằng: "Công phu tu tánh trước thiệt là một phép tu mạng đáo để vậy".

Về phương pháp thực hành chúng tôi đề cập ba đề tài như sau:

  • Trai giới.

  • Công học.

  • Tâm học.

Trai giới tức là ăn chay và giữ giới.

ĂN CHAY: Kẻ tu hành ăn chay, mục đích cầu sự nhẹ nhàng Tánh khí; bởi vì vật thực vào tì vị tiêu hóa ra khí huyết mà khí huyết có sở dụng quan trọng trong sự linh động của Tánh khí (xem lại bài "Ăn chay" trong quyển Đại Đạo Giáo Lý trang 64).

TRÌ GIỚI: Tâm không nghĩ đến tham lam trộm cắp; Tâm không nghĩ đến dâm dục; Tâm không nghĩ đến sát sanh. Giữ giới nói đây thuộc về Tâm học, cho nên hành giả phải tự chủ mới giữ được. Ba giới nầy là hột giống gây nghiệp quả luân hồi.

CÔNG HỌC:

Về phần công truyền, tồn tánh, dưỡng khí tức là trau dồi Tánh khí chất và đem nó trở về với Tánh thiên nhiên. Ở đây, chúng ta nên tụng kinh, đọc sách, tìm hiểu lẽ phải để làm theo, chủ yếu là ngăn ngừa dục vọng, bài trừ tật hư, nết xấu v.v...

Quyển Đại Đạo Giáo Lý và phần Phương châm Nhập thế trước kia đã cống hiến một vài bài học nhỏ mọn về phương diện công truyền.

Ở đây tuy chẳng nói Dưỡng khí, nhưng đồng thời với sự tu tánh, chúng ta phải lưu tâm đến sự dưỡng khí, đừng để khí hao tán vô lối.

TÂM HỌC:

Đến đây, chúng ta thực hành câu: "Thành Tánh tồn tồn đạo nghĩa chi môn". Đại ý là hàm dưỡng tánh bổn nhiên của mình trở nên thuần nhiên Thiên lý và cố giữ gìn cho nó tự tại mãi trong thâm tâm, đó là bước đầu vào cửa Đạo nghĩa.

Có điều nên nhớ là Tánh và Khí không xa nhau cho nên nói Tồn tánh tức đã có hàm súc cái nghĩa Dưỡng khí rồi vậy.

Ở đây, chúng tôi theo danh từ riêng của Mạnh Tử mà gọi Chí và Khí hạo nhiên, thay vì dùng chữ Tánh và Khí. Chúng ta nên hiểu rằng chữ Chí nói đây cũng là Tánh, nhưng dùng về mặt "tích cực" để điều Khí; chớ không phải Chí với Tánh là hai vật.

Nay như hỏi Chí và Khí hạo nhiên ra sao? Thì Mạnh Tử nói rằng:

CHÍ: Tâm linh ngưng chỗ nào thì trạng thái ấy gọi là Chí. Vậy Chí cũng là Tánh, như đã nói ở trên.

KHÍ HẠO NHIÊN: Khí nầy là nguyên là Khí lưu hành trong Trời Đất mà người ta đã bẩm thọ một phần ở trong thân thể của mình cho nên Mạnh Tử nói rằng:

"Kỳ vi Khí giả Chí đại, Chí cường, dĩ trực dưỡng nhi vô hại tắc tắc hồ Thiên địa chi gian". Đại ý nói rằng: Bản thể của Khí hạo nhiên là Khí Thái hư của Trời Đất, nó rất lớn, rất mạnh, nếu người ta biết hàm dưỡng mà chẳng xâm hại thì nó có thể tràn ngập cả không gian.

Nên hiểu rằng: Chí Khí tuy hai danh từ, nhưng sự tác động vốn một. Một bên là thể, một bên là dụng. Thể và dụng hợp thành một linh động ở trong thân thể, cho nên hễ Chí chuyên nhứt tắc động Khí. Khí chuyên nhứt tắc động Chí. Bằng cớ là khi người ta vấp té, hay chạy mau, thuộc về Khí, nhưng cũng động đến Tâm.

Về mặt thực hành, Mạnh Tử bảo rằng: "Thi tập nghĩa sở sanh giả, phi nghĩa tập nhi thủ chi dã". Nghĩa là thực hành đạo đức rồi khí theo đó mà sanh, chớ không phải dùng sức mạnh để chụp lấy.

Đại ý câu nầy nói: Kẻ hành giả luôn luôn làm việc hợp đạo nghĩa và cứ tự nhiên thi hành đạo đức châu tất: Không xao lãng, không bỏ dỡ và cũng không mong chóng thành. Làm như thế thì Khí càng ngày càng tăng trưởng.

Công phu lâu ngày, học giả sẽ cảm thấy ấn chứng "Khí trưởng". Tất hữu sự yên, nhi vật chánh, tâm vật vong, vật trợ trưởng dã. (Mạnh Tử). Nghĩa là ắt có việc vậy (tức ám chỉ vào khí sanh trưởng), nhưng chớ cho là được. Tâm chớ quên mà cũng chẳng nên trợ mau lớn. Mạnh Tử còn nêu gương người nước Tống trồng lúa cho chúng ta hội ý mà hiểu phép Dưỡng khí.

Người nước Tống trồng lúa, anh ta muốn lúa mau lớn; rồi ra đồng nhớm gốc lúa. Làm như vậy là anh ta có ý muốn cho lúa mau cao, nhưng sự thật anh ta làm lúa chết. Nói rút lại phép trồng lúa đại để người ta cứ nhổ cỏ bón phân, rồi lúa theo thời tiết mà lớn. Phép Dưỡng khí cũng như thuật trồng lúa vậy. Kẻ học cứ ung dung thực tiển Đạo dạo ung dung tịnh dưỡng tinh thần rồi Khí theo đó mà sanh trưởng, chớ chẳng khá bức bách giục thúc cho Khí chóng mạnh.

Sau đây chúng tôi xin đề cập vài phép tu tập, mặc dù nhỏ mọn, song để mở màn suy gẫm, tìm học. Đại để phép Tồn tánh Dưỡng khí là tịnh tâm. Nhưng tịnh tâm nói đây không phải không làm việc, bởi vì chúng ta sống, lẽ tất nhiên phải hành động, nhưng hành động chớ chẳng khá vọng động.

HÀNH ĐỘNG

Hành động là làm bổn phận mình như làm dân, làm quan, làm con, làm cha, hoặc làm lành lánh dữ. Hành động thì có chương trình, có mục đích và nhứt cử, nhứt động đều có Thần Lương Tâm kiểm soát, tức từ việc lo nghĩ, nói năng đến làm lụng mỗi mỗi đều có ý thức rõ ràng, rồi theo đó mà làm. Hành động đúng theo đạo nghĩa thì Khí hợp mà sanh. Hành động như thế thì không động Tâm, nhờ Tâm tịnh mà Khí sanh.

VỌNG ĐỘNG

Vọng động khác hành động, nó không được sắp đặt có trật tự, không có chí hướng, không nhắm vào một kết quả nào. Nó chỉ do một sự ham muốn lặt vặt, một nhiệt hứng nhứt thời bộc phát trong lòng như: Mừng, giận, thương, yêu, ghét, sợ. Vọng động có hại đến Tánh khí.

Chúng ta nên biết rằng: Tâm động, mặc dầu mạnh hay yếu, đều có động đến Khí; cho nên phép Dưỡng khí phải thận trọng gìn giữ bản tâm của mình, chẳng những thận trọng gìn giữ chỗ thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ, mà nơi vắng vẻ một mình cũng cẩn thận gìn giữ.

Kẻ Dưỡng khí cũng như người thợ bòn vàng. Thợ bòn vàng lượm từng chút, bòn từng hột, không bỏ lỡ một cơ hội nào, thì kẻ Dưỡng khí cũng vậy. Nó luôn luôn phải tự chủ, luôn luôn phải trầm mặc, không để tam bành, lục tặc nhiễu loạn Tâm linh, nghĩa là nó chẳng có một ý niệm bất chánh, một tư tưởng vô ích, một dục vọng thừa thải, một tình cảm vu vơ phát động. Và công phu phải liên tục tinh tấn. Sách Đại học chép rằng:Vua Thang khắc trên bồn tắm mấy chữ rằng: "Cẩu nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhựt tân". Chỗ nầy vua Thang có thâm ý nhắc nhở rằng: Nhục thân thì mỗi ngày phải tắm một lần để giữ sức khỏe; còn tâm hồn cũng cần phải tĩnh sát luôn luôn, ngày mới, ngày ngày mới, lại ngày mới. Và cứ làm mới mãi như thế đừng để vật dục làm tế tắc Tâm linh.

Tóm lại, phép Tồn tánh Dưỡng khí là một Pháp môn chẳng những Tồn tâm Dưỡng tánh mà còn phải thực hành phép vệ sinh nữa, nghĩa là cầu cho một thân thể sức khỏe, dễ khiến và biết phục vụ. Nhứt là phải thiền định để khám phá và bứng gốc bứng rễ những cái mê chấp trong tiềm thức như: Ngã tướng, Pháp tướng chẳng hạn.

Thứ nữa là trừ bỏ tật hư, nết xấu, hun đúc đức tốt hạnh lành, trừ bỏ những tật tham lam ích kỷ, mở rộng lòng thương bao la để đối xử với người đồng loại cũng như các vật khác, nghĩa là chúng ta thể theo Đức háo sanh của THƯỢNG ĐẾ mà thương yêu giúp đỡ vạn vật trên đường sanh sống và tấn hóa.

Tâm thân thanh tịnh tự tại thì Tánh khí sẽ theo đó mà xuất hiện. Có người hỏi Mạnh Tử học hỏi cách nào mà được suốt thông sự vật, thì ông đáp rằng: Ta chỉ Tồn tâm và Dưỡng khí hạo nhiên mà được vậy. Sau đây chúng tôi trích một bài học "Phép Dưỡng sanh" của người xưa, âu cũng thêm một ý kiến học hành.

 

PHÉP DƯỠNG SANH

Phép Dưỡng sanh tức là phép nuôi sống.

Hiện nay, tài liệu về phép môn vệ sanh truyền bá từ Tây phương sang Đông phương rất nhiều và mỗi mỗi đều thuần thục nhiệm mầu. Chúng ta nên tìm những phép nào thìch nghi với thể chất của mình rồi tận lực áp dụng; cầu một sức khỏe vô tỳ. Một thân thể thanh khiết, kiện toàn rất cần cho cái "Thể khí vô vi".

Đạo Đức Kinh chương 10:

Tải doanh phách bảo nhất,
Năng vô ly hồ.
Chuyên khí trí nhu,
Năng anh nhi hồ.
Địch trừ huyền lãm,
Năng vô tỳ hồ.

Chú giải:

1. Kẻ học làm cho hồn phách (hồn xác) của mình hiệp một thể và giữ đừng cho xa lìa. Làm như thế có thể được chăng?

Hồn xác hiệp một tức là giữ Tâm tự tại luôn luôn ở trong thân thể. Tức thể hiện phép Tồn tâm Dưỡng tánh cầu Nhục thân bảo giữ được sức khỏe. Làm như thế có thể được chăng?

2. Chuyên một lòng tinh luyện phần "KHÍ" cho đến trạng thái mềm dẽo, ôn nhu như thân thể đứa trẻ năm sáu tháng. Làm như thế có thể được chăng?

Vả lại, Khí là hơi, mà hơi thì khó cầm giữ. Đức Lão Tử lưu ý kẻ học phải chăm nom về Khí; bởi vì "KHÍ" là nhiên liệu cấu sanh vật thể. Dưỡng khí tức là di dưỡng vật thể được khương cường và cũng là giúp tinh thần được thông minh sáng suốt.

Tận lực dịch hóa tâm lý, sanh lý từ chỗ lãng mạn, phức tạp cho đến thuần nhứt; nghĩa là gội rửa cho thật sạch những dấu vết tinh vi của tư tưởng hỗn tạp còn ẩn núp trong chỗ sâu kín, khiến cho tánh bản nhiên của mình được tự do xuất hiện, làm chủ đời sống của mình. Làm như thế có thể được chăng?

Theo thiển kiến, mỗi người có một thể chất riêng biệt, nhơn đó mà phép "Dưỡng sanh" không giống nhau. Đức Lão Tử không thành lập phương tu mà đặt một vài vấn đề cốt yếu để mỗi người tự tìm, tự học, tự hành.

Có lẽ cũng vì ý kiến nầy, cho nên về sau, phái luyện đơn (một Giáo phái ở trong Đạo học tách ra) chú giải rộng ra thành một học lý thâm sâu.

Đại để như câu: "Chuyên khí trí nhu năng anh nhi hồ". Người sau chia sự hô hấp ra hai giai đoạn để thực hành.

1. Điều tức: Nghĩa là làm chủ hơi thở và bắt nó phải tùng lịnh của người.

2. Đình tức: Nghĩa là ngừng thở ra ngoài mũi, mà chỉ thở trong tạng phế. Chỗ nầy cũng gọi là nội tức.

Thấy sách Ấn Độ chép chuyện tu hành của người Pha-khia; đại khái họ cũng đạt được phép nội tức nơi đây. Nghe nói: Có người nằm trong cái hòm Pha ly cả tháng không thở mà không thương tổn tánh mạng.

Có điều nên biết là phép nầy rất khó thực hành. Chúng ta không nên mạo hiểm, nếu không có thầy dạy. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc cho rõ sự tu hành của người xưa mà thôi, chớ chúng tôi cũng không có kinh nghiệm về mục nầy nữa.

Theo Mạnh Tử người nào tồn dưỡng chí khí viên mãn thì họ sẽ đồng nhứt với Võ trụ. Họ có khí phách cao sang, thoát tục. Ông nói: "Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di". Nghĩa là đứng trước cảnh giàu sang chẳng si mê; đứng trước cảnh nghèo hèn không dời đổi. Thật quả vậy, nếu người nào thực hành đến trạng thái nầy thì con người ấy tự chủ được, mà hễ tự chủ được khi có thể gọi là thành. Có thành mới có minh, thành là Đạo Trời, minh là Đạo người. Minh thành tức là bắt chước Đạo Trời mà sửa nên Đạo người.

Tóm tắt:

Người tu đến đây thì Tâm linh của họ đã vào cảnh: "Hư vô tịch chiếu". Nghĩa là lúc nào Tâm của họ cũng không không, nhưng trong cái không ấy có một viên giác tròn trịa, sáng suốt, cũng như gương trong, hễ vật đến thì phản chiếu vào trong mà chẳng hề che khuất một mảy may nào.

Nhưng đó là người đã hoàn toàn xuất thế; còn như chúng ta còn phải giao tiếp với người và vật ở chung quanh mình thì chúng ta lúc nào cũng phải lấy sự đại tịnh làm căn bản, nghĩa là lúc nào cũng bình tĩnh, trầm lặng, mực thước và luôn luôn tự chủ, mặc dầu có làm muôn công, ngàn việc cũng vậy.

Đoạn kết sau đây chúng tôi sẽ bàn đến cử chỉ xử thế và cách giác tha.

Xem tiếp: Phần kết luận

[ Hình Bìa ]

 
Last changed: 09-03-2005