PHẦN THỨ TƯ
PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ
Trong người chúng ta có hai quan năng "Tri giác" là Thần và Trí. Kinh Dịch nói rằng: "Thần dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng". Nghĩa là Thần để biết việc chưa học; Trí để tích lũy kinh nghiệm. Đức Lão Tử nói rằng: "Hai quan năng nầy do một gốc (Tâm) mà ra, nhưng khác tên là Thần và Trí. Cả hai đều huyền diệu, song cái diệu ở trên cái huyền kia là cửa sanh các lẽ nhiệm mầu. Cố như vậy, nên Tâm thường vô dục (thanh tịnh) thì biết được cái diệu, tức Thần. Còn như Tâm có suy tư thì chỉ biết được cái kiếu tức Trí." (Thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền, huyền nhi hữu huyền chúng diệu chi môn. Cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, hữu dục dĩ quan kỳ kiếu. (Đạo Đức Kinh chương 1).
Theo lẽ trên đây mà suy ra, chúng ta hiểu rằng trong người chúng ta có Thần và Trí, để hay biết. Cả hai đều do Tâm mà ra, nhưng chẳng những khác tên mà phương thức khai hóa cũng không giống nhau nữa. Đại để như muốn mở Trí thì phải học vấn, suy tư, tìm kiếm. Kiến văn càng nhiều càng hay; còn muốn tồn Thần thì phải giảm bớt sự học vấn, suy tư. Giảm bớt và giảm bớt nữa cho đến vô vi. Tâm thanh tịnh thì biết được Thần. Sau đây chúng tôi theo lẽ nầy để nghị luận hai phương thức khai trí và dưỡng thần.
Khi người ta nhập thế cuộc, Trí hiệp với cái Thức của thân Ngũ uẩn, khuynh hướng về phàm trần, phóng túng theo vật chất, mưu cầu sự thỏa thích cho nhục thân; nhơn đó, Trí thu thập những tư tưởng lãng mạn, những dục tình thấp hèn làm cho Thần phải lu mờ. Nay muốn khai trí thì một mặt phải loại trừ những dục tình thấp hèn, dịch hóa những tư tưởng lãng mạn thành một tâm niệm quang minh, chánh đại và một mặt nữa phải mở rộng sự học hành thâu thập đức tốt, hạnh lành thay thế cho những tật hư, nết xấu.
Tư tưởng lãng mạn và dục tình bất chánh do hai lối mà đến: Một là Trí nương theo Ngũ quan giao tiếp với sự vật bên ngoài; hai là Trí tự nó triêm nhiễm tư tưởng của người khác.
* Về điểm thứ nhứt: Trí nương theo Ngũ quan giao tiếp với sự vật bên ngoài, chúng ta nhờ đó mà học hỏi được điều hay, lẽ phải. Nhưng nếu chúng ta chẳng tự chủ thì Trí thâu nhập tư tưởng lãng mạn, dục tình ích kỷ và chúng ta cứ theo đó trụy lạc vào vòng vật dục nữa.
* Về điểm thứ hai: Trí tự nó triêm nhiễm tư tưởng của người khác. Thử hỏi tư tưởng của người khác làm sao đến với chúng ta? Nó đến làm gì? Và phải làm thế nào để ngăn ngừa nó? Đây là cả một vấn đề mà kẻ học phải giải quyết; chúng tôi lần lượt kể như sau:
Kinh Dịch nói rằng: "Xuất kỳ ngôn thiện, tắc thiên lý chi ngoại ứng chi, xuất kỳ ngôn bất thiện, tắc thiên lý chi ngoại di chi". Nghĩa là nói ra một lời lành thì ngoài xa ngàn dặm ứng lành; còn nói ra một lời chẳng lành thì ngoài xa ngàn dặm đổi lành ra dữ.
Sở dĩ nói như vậy là vì trong không gian có điển lực tràn ngập cả Võ trụ. Phàm một tư tưởng gì, khi thoát ra khỏi người thì nó tích lũy trong điện lực ấy và tìm đến tư tưởng đồng loại với nó để rồi cụ thể hóa lẫn nhau, thành sự kiện hữu hình. Chính tư tưởng của kẻ khác cũng do điều kiện nầy mà xâm chiếm Trí mình. Nó đến chúng ta với một cách kỳ quặc. Nhiều khi, muốn xô nó, nhưng chúng ta bất lực, rốt cuộc đành để nó xâm phạm Tâm giới mình.
Nói đến đây, chúng tôi nhớ sách chép rằng: Các nhà luyện Trí tinh thuần, giao thiệp với nhau bằng tư tưởng; nghĩa là người nầy ở cách xa kẻ nọ mà họ thông truyền tin tức với nhau bằng tư tưởng. Phương pháp nầy gọi là : "Thần giao cảm cách", hoặc "Télèpathie" (truyền tâm). Vị Chơn Sư truyền giáo cho đệ tử cũng dùng lối nầy; nhưng có khác là cách thực hiện trong bầu "Thượng thanh khí".
Những lẽ trên đây đủ minh chứng rằng: Tư tưởng của người nầy có thể truyền nhiễm cho kẻ nọ. Giả tỷ: những tư tưởng mà chúng ta nhận được có tinh thần đạo đức tốt lành thì đáng mừng và nên giữ nó lại, còn những tư tưởng chất chứa tinh thần trần tục thì nó kích thích Trí chúng ta sanh ra dục vọng. Dục vọng là điều mà kẻ học đạo phải lánh xa. Thế nên, những loại tư tưởng nầy, chúng ta phải đuổi nó đi. Bởi Trí hay truyền nhiễm tư tưởng bất chánh như vậy, cho nên có người dựa vào lẽ nầy mà cho Trí là một lực lượng phá hại Tâm đạo; nhưng, sự thật, nếu chúng ta biết điều độ biết thực hành trầm tư mặc tưởng thì Trí sẽ giúp chúng ta chẳng ít trên đường học tập.
Lọc lược tư tưởng, tức trừ bỏ tư tưởng bất chánh, những dục tình lãng mạn. Ấy vậy, nên trước khi thâu nạp một tư tưởng nào, hoặc do Ngũ quan đưa vào, hoặc do sự truyền nhiễm của người khác, chúng ta phải suy nghĩ kỹ càng, xem tư tưởng ấy có ích cho mình, gia đình, xã hội và tất cả nhơn loại chăng? Nếu được như vậy, chúng ta giữ nó làm của mình. Trái lại, nếu tư tưởng chẳng lành thì nên đuổi nó đi xa, thật xa.
NÓI RÚT LẠI:
Trí vốn hay điên đảo; đảo điên, gia dĩ, từ trước nó đã bị triêm nhiễm những tư tưởng bất chánh, những dục tình lãng mạn, như đã kể trên, cho nên nó vốn vọng động thêm hơn. Bởi thế, nên khi chúng ta đang nghĩ việc này thì nó đã đâm ra nghĩ việc khác. Khi đang chăm chỉ làm việc thì nó lơ đãng. Ngạn ngữ gọi đó là "Đãng trí". Khi chúng ta muốn tịnh, thì nó lại động. Thậm chí, trong đêm vắng canh khuya, cảnh vật êm đềm thân thể nghỉ an mà Trí cứ vu vơ tư tưởng. Nay muốn đem nó trở về chánh đạo, một mặt phải kiềm giữ nó ở trong cảnh tịnh; một mặt nữa, phải học hành đạo đức, thâu thập chơn lý, để thay thế cho những tư tưởng bất chánh, dục tình lãng mạn. Lấy cái hay thay thế cái dỡ, lần hồi Trí sẽ yên lặng đứng vững trong tinh thần đạo đức.
Học hành sâu rộng, thâu hoạch kiến văn càng nhiều, càng hay. Nên nhớ rằng chữ học hành gồm hai giai đoạn là: học và hành.
Học là quan sát, phân tách sự vật ra từng môn, từng loại, và tổng hợp thành một cái biết, có thống hệ, có mạch lạc. Phép học nầy gọi là La tập (Lý luận pháp). Cái hay biết gọi là lý trí.
Hành là làm. Học để biết, biết rồi phải làm cho cái biết ấy biến thành Tâm đức, để rồi nó phát xuất ra tư tưởng, lời nói và việc làm. Đó là kinh nghiệm.
Theo Nho giáo, kẻ học phải làm năm việc là: Học, vấn, tư, biện và hành.
-
Học: Lấy sự tìm tòi làm cho giỏi các việc gọi là học.
-
Vấn: Lấy sự tìm tòi giải rõ sự ngờ vực gọi là vấn.
-
Tư: Lấy sự tìm tòi làm thông suốt các thuyết lý gọi là tư.
-
Biện: Lấy sự tìm tòi làm tinh tường việc suy xét, để giảng giải lại cho rõ gọi là biện.
-
Hành: Lấy sự tìm tòi hiểu biết làm ra sự việc gọi là hành.
Tuy chia ra năm việc làm, nhưng tổng hợp thì có một lẽ là: thể hợp tâm và lý.
Sự hay biết vốn do Tâm linh, chớ không phải do sự vật bên ngoài. Tâm linh là chủ tể của cái biết. Sự vật bất quá là cái bị biết mà thôi. Thế nên, sự học cần tu dưỡng trí não, nhứt là suy gẫm. Pháp môn nầy khai mở tâm tư được rộng rãi.
VÍ DỤ: Khi đọc sách, chúng ta thấy một tư tưởng nào đó thì phải gia công suy gẫm. Cách suy gẫm phải phân tách ra từng môn loại; từng khía cạnh, rồi mỗi mỗi đều phải dùng Trí suy gẫm đáo để. Phải tự hỏi, rồi tự trả lời, mãi đến khi nào cái biết ấy không còn cãi vả nữa được mới thôi.
Mục đích học hành hoán cải tâm tánh, hầu trở nên thiện mỹ, chớ không phải tầm chương trích cú. Thế nên, kẻ học khi tìm được điều lành thì mạnh mẽ làm theo cho đến thành quả, hoặc chọn được điều chẳng lành thì phải tận lực trừ khử cho thật sạch. Công phu lâu ngày thì Trí trở về cảnh chơn và sẽ cường kiện sáng suốt.
Định trí là một công phu giúp cho sự học hành mau tiến. Vả lại, Trí là một quan năng đứng ở giữa giác quan và Chơn thần. Bên trong vô vi thì nó thông công với Thần minh, để truyền Thiên lý ra ngoại giới. Bên ngoài nó trực tiếp với cái Thức của thân Ngũ uẩn, thành thử, Trí tuy bản thể "Chơn", nhưng nó cũng bị cảm nhiễm một phần "Vọng" của cái "Thức". Ấy vậy, nên chúng ta cần phải tịnh định làm cho Trí hườn nguyên bản thể thanh tịnh của nó. Phương pháp đó gọi là "Định trí" kể như sau:
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Định trí là chăm chú vào một vật nào đó, để rồi có thể phát họa vật bằng tư tưởng ở trong ký ức. Hoặc nói cách khác là tập trung tinh thần vào một quan niệm chi đó rồi giữ chặt nó.
Khi bắt đầu chế ngự Chơn trí, chúng ta cũng bắt đầu chạm trán với những chướng ngại vật ở trong tiềm thức.
Nguyên những tư tưởng và dục tình lãng mạn, như đã kể trên kia khi đã triêm nhiễm vào Trí thì Trí dùng bộ não và Thần kinh làm trường vận động để trực tiếp hoạt động với sự vật bên ngoài. Khi cơ duyên bên ngoài hết thì nó lặng vào trong tiềm thức ở ẩn, để rồi xuất hiện hoạt động nữa, nếu có cơ hội thích ý. Nhiều lần hành động như vậy thì trí não và thần kinh có thói quen "vọng động". Nay chúng ta thực hành phép định trí thì thói quen "Vọng động" nầy là một trở lực không nhỏ.
Chúng tôi xin đề cập ba pháp môn của Phật giáo là:
GIỚI: Trì giới có nhiều bực như: Ngũ giới, thập giới, cụ túc giới v.v... Trì giới nghiêm trang thì thân khẩu ý đứng vững trên đường Chánh đạo.
ĐỊNH: Làm chủ lục căn, lục trần, lục thức và hồi hướng về nội giới tâm linh khám phá, bài trừ phần Vọng; tồn dưỡng phần Chơn vững vàng, đó gọi là Định.
HUỆ: Suy gẫm đáo để sự lý ngoại giới Võ trụ và nội giới Tâm linh, tinh thần sáng suốt. Biết đâu là vọng, đâu là chơn, mỗi mỗi tánh tướng sự vật đều phân biệt tinh tường. Được cái biết vô ngại, chẳng còn mê chấp, ngộ nhận nữa, đó gọi là Huệ.
Tóm lại: Giới, Định, Huệ thành toàn lẫn nhau; nhứt là Định và Huệ tương liên rất mật thiết. Có Định mới có Huệ; có Huệ mới có Định. Định và Huệ tiến hành song song và điều hòa thì mới có thành công kết quả. Trái lại, nếu Định nhiều mà Huệ ít thì bị hôn trầm, còn Huệ nhiều mà Định ít thì sanh tán loạn.
Theo Phật học, công phu: Giới, Định, Huệ viên mãn thì Bát thức sẽ biến thành bốn Thánh trí như sau:
1. Thành sở tác trí: Ngũ thức, khi phóng túng theo vật chất thì sanh tư tưởng trần tục làm rối loạn Tâm linh, nay hành giả bỏ Vọng về Chơn thì nó phản bổn hoàn nguyên mà thành "Thành sở tác trí". Trí nầy hay giúp chúng ta làm tròn bổn phận mình, với một cách quang minh chánh đại.
2. Diệu quan sát trí: Ý thức vọng động sanh ra tình dục, nay hành giả hướng về Thiên lý bỏ Vọng, tồn Chơn thì ý thức trở về nguyên bản của nó và biến thành "Diệu quan sát trí". Trí nầy xem xét sự vật với cách tinh tường thấu đáo.
3. Bình đẳng tánh trí: Mạt Na thức ngoài nương ý thức; trong cậy A Lại Da thức rồi ngấm ngầm, tư lường, phiền não. Nay trong ngoài đã an tịnh và những tư tưởng phiền não cũng đã tuyệt diệt thì Mạt Na Thức biến thành "Bình đẳng tánh trí". Chúng ta nhờ trí nầy mà thực hiện được sự Từ bi, Bác ái, Công bình.
4. Đại viên cảnh trí: A Lại Da thức là cái kho tàng tích trữ những Tà kiến, Ác kiến, thành kiến hủ lậu. Những chướng ngại vật tế tắc Tâm linh làm cho chúng sanh lạc nẻo, lầm đường. Nay hành giả đã thâm nhập vào trong: khám phá và bài trừ những tâm tướng ấy thì A Lại Da thức biến thành "Đại viên cảnh trí", là một năng lực Trực giác sáng suốt quang minh. Hễ sự vật đến thì nó cảm thông mà biết được sự vật toàn diện đến chỗ tinh vi. Đó là phép "THẦN HÓA" và là một trạng thái Huệ trí trong sạch viên dung đứng ở giữa Thiên lý và Nhơn dục.
Công phu định trí phải liên tục thực hành và tinh tiến. Nói tỉ như người kia có bịnh kinh niên, nay mới dùng một vài thang thuốc mà muốn mạnh cấp kỳ sao được? Phương pháp thực hành bất luận trường hợp nào cũng có thể làm được. Ngoài giờ Thiền định, trong khi làm việc hằng ngày, chúng ta đặt Trí chăm chỉ vào việc làm và cố gắng làm việc kỹ càng. Trong khi làm việc, nếu Trí xao lãng thì mau đem nó trở về chỗ nhứt định. Mặc dầu, làm việc, hay ở không, hay tham thiền, lúc nào cũng giữ lòng bình tĩnh, an vui, tự chủ, không ưu phiền, không phóng túng mà cũng không khổ khắc.
Định trí là một phương thức ổn định Trí và dìu dẫn nó theo Đạo pháp, và tùng lịnh Chơn ngã. Một khi tư tưởng được lọc lược, Trí được điều hòa thì Trí sẽ ung dung tiếp nhận Thiên lý và thực thi trong đời sống thực tế. Đó là thể hiện Thiên Đạo thành Nhơn Đạo.
Nên nhớ rằng công phu Định trí không phải cưỡng bách tinh thần và vật lực, mà trái lại, phải thản nhiên mà làm; không nên bó buộc hơi thở, không nên làm căng thẳng thần kinh; bởi vì làm như vậy là nhọc mệt thân thể và bế đường di chuyển Thần lực. Trong giờ tham thiền cũng như khi rảnh rang, lúc nào cũng nên thả lỏng gân cốt, thần kinh và Thần khí.
Khi mới bắt đầu tập Định trí không nên hành công quá 5 phút, đến khi quen rồi sẽ tiến lên 10 phút, 20 phút v.v... Tham thiền mà có nhức đầu là triệu chứng không tốt. Ấy vậy, chúng ta phải đề phòng. Chơn khí có liên đới quan hệ với Trí, nó luôn luôn thay đổi theo tánh cách của tư tưởng. Sự thay đổi ấy, nếu xảy đến mau chóng quá thì có hại sức khỏe. Thế nên, sự trầm tỉnh rất cần.
Lý trí tuy không lột trần được Chơn lý tuyệt đối; nhưng nó rất cần cho đời sống hiện tại, bởi vì sự hiểu biết của nó thực tế, như hai với hai là bốn, không hơn, không kém.
Theo luật Nhơn quả, ở thế gian chẳng có Quả nào mà không có Nhơn, mà cũng chẳng có Nhơn nào không Quả. Ấy vậy, nên công phu Định trí của chúng ta được bao nhiêu thì sự sáng sủa của chúng ta cũng được bấy nhiêu.
THẦN là một điểm Linh quang chí chân, chí thiện, chí mỹ, Trời phú cho người. Nhắc lại: Khi Đức Chí Tôn sanh hóa loài người thì Ngài phú cho mỗi người một điểm Linh quang ấy, ai cũng như ai: ở nơi Thánh, nó không thêm, ở nơi phàm, nó không bớt. Thế mà Thánh phàm khác nhau chỉ vì Thánh biết tồn dưỡng, còn phàm thì buông lung. Nay muốn đem Thần phản bổn, hườn nguyên bản thể tự nhiên, chúng tôi xin đề cập phép "Dưỡng thần" sau nầy.
Bây giờ, chúng ta nên bàn trước cho rõ chữ Thần rồi sau sẽ thực hành phép Tồn dưỡng.
Chữ Thần nói đây Vương Dương Minh gọi là Lương tri, rồi ông nói rằng: "Tâm chi bản thể tức Thiên lý dã; Thiên lý chỉ chiêu minh linh giác sở vị Lương tri". Nghĩa là: Bản thể của Tâm là Thiên lý. Cái chiêu minh linh giác ở trong Thiên lý gọi là Lương tri.
Vậy Lương tri (Thần) ở trong Thiên lý tức là Tánh bản nhiên của người. Lúc nào nó cũng tự nhiên, tự tại, không tìm biết cái gì, nhưng cái gì cũng biết, "Vô tri nhi vô bất tri" cũng như mặt Nhựt không định chiếu ở đâu, nhưng chỗ nào cũng sáng.
Phật giáo gọi cái Linh giác nầy là "Trí bát nhã" và giảng đại lược rằng: "Trí bát nhã" rộng lớn, châu biến khắp Pháp giới, dùng nó thì thông suốt mọi lẽ. Tất cả đều gồm về một mối, tới lui tự do chẳng hề ngưng trệ. Nó tiềm ẩn trong cảnh vô sắc, vô danh. Lý luận, ngôn ngữ không thể trạng tỏ cái bản thể nó được.
Nói rút lại Thần minh, Lương tri, Trí bát nhã là một Linh giác tự nhiên mà có, chớ chẳng phải nhờ học vấn, suy luận để khai mở như trí thức, nó cảm thông, quán xuyến Càn khôn, vạn vật. Cái biết ấy cũng như Trực giác của khoa Triết học cận kim; tức là cái biết tổng quát, toàn diện, không phân biệt khách quan, và chủ quan, không phân biệt năng tri và sở tri, không phân biệt chủ tể của cái biết và vật bị biết. Cái biết ấy nếu thêm thì thừa; bớt thì thiếu, thật là cái biết tròn trịa, vẹn toàn không khuyết điểm. Cái Linh giác ấy lúc nào cũng ngự trị trong cõi lòng thanh tịnh, tức chưa có mừng, giận, thương, vui phát động. Tâm trạng ấy, Nho giáo gọi là Trung. Còn khi có tư duy mà trúng tiết thì trạng thái ấy gọi là Trí ở trong cảnh hòa. Trung là gốc lớn trong thiên hạ, Hòa là con đường thông suốt đại lý trong thiên hạ. Hoặc nói cách khác: Tâm tịnh thì Thần chủ trương Thiên lý; còn Tâm động thì Trí suy gẫm tìm hiểu Thiên lý lẫn lộn trong Nhơn dục và đem cái biết ấy
về với Thần. Thế đủ biết Thần và Trí chủ trương hai lãnh vực khác nhau là vô vi và hữu vi. Chúng tôi đề cập hai đường tu sau đây:
-
Đường Triết học
-
Đường sùng đạo
Theo đường Triết học, kẻ học phải không còn giận ghét; không còn ham muốn vật chất, trừ bỏ mọi sự ưa thích, mọi sự luyến ái. Bỏ tất cả việc giả tạm mà khuynh hướng theo cái bất diệt, như linh hồn bất sanh, bất tử chẳng hạn. Cố vượt lên cõi tuyệt đối tìm Chơn lý toàn diện; không nên cố chấp việc nhỏ mọn, hẹp hòi. Tâm hồn luôn luôn tự nhiên, tự tại, không điên đảo, không ủy mị. Lo lắng giúp đời; vì lòng Từ bi, chớ chẳng phải vì lòng ích kỷ, tư lợi. Không mong hưởng kết quả việc mình làm; giúp người chẳng cầu trả ơn. Lấy đức báo oán, lấy lễ hòa người. Không quan tâm đến sự buồn vui, vinh nhục, mà luôn luôn hồi hướng về nội giới tâm linh tìm kiếm bổ khuyết, những cái gì mình còn thiếu. Cửa lòng khép chặt, Tâm thần bình tĩnh, cũng như ngọn đèn, tránh khỏi trận cuồng phong.
Tinh thần luôn luôn đặt vào lòng Thượng Đế và thể theo Đức háo sanh của Trời mà thương yêu muôn loài, vạn vật và tùy phương tiện chở che giúp đỡ chúng nó theo nguyên tắc "hóa dục quần sinh" của Đức Thái Cực Thánh Hoàng, tức Thượng Đế.
Ở đây, thay vì loại trừ tư tưởng lãng mạn, chúng ta lại tập trung tinh thần về một mối và chiêm ngưỡng Đấng Thiêng Liêng mà chúng ta đã sùng bái. Ví dụ người Tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mắt cứ nhìn thẳng vào Thánh tượng Thiên Nhãn và lòng cứ tưởng niệm danh hiệu Đức "CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ", hoặc tưởng niệm danh hiệu của một vị Phật, vị Tiên, hay vị Thánh nào. Người Tín đồ tưởng niệm vị Giáo chủ lâu ngày thì họ sẽ hái được hai kết quả một lượt:
Kết quả thứ nhứt: Danh hiệu mặc niệm kia làm chữ thoại đầu định trí lâu ngày nó biến thành một tâm niệm rõ ràng, ngự trị trong lòng rồi những Tà niệm không có chỗ xen vào được. Thế là Tâm được yên lặng.
Kết quả thứ hai: Người đệ tử thường thông công với Đức Thầy mình, lần hồi linh hồn sẽ dạn dĩ, để rồi lãnh hội sự cảm hóa và sự truyền thọ ở giữa Thầy và Trò được dễ dàng hơn.
Con đường sùng đạo rất tiện cho người học, nhưng nó đòi hỏi phải có đức tin sâu xa, vững chắc và công phu liên tục. Bởi vì thay vì loại trừ dục vọng, chúng ta đem lòng tín ngưỡng thay thế. Công phu có lẽ dễ hơn nhưng nó đòi hỏi nhiều ngày giờ.
Dầu theo đường Triết lý hay Sùng đạo, đến công viên thì cái thành quả đều như nhau.
Đạo Đức Kinh chương 1 nói rằng: "Thường vô dục dĩ quan kỳ diệu", nghĩa là không động Tâm thì thấy được cái diệu, tức Thần. Đại khái nói rằng: muốn đến nơi Thần ngự trị thì phải giữ lòng thanh tịnh tức vô dục.
Sau đây, chúng tôi thể theo Phật giáo giảng giải sơ lược một câu "Bát nhã Tâm kinh" âu cũng giúp thêm một ánh sáng về Tâm Vô dục:
Ngày xưa, có một vị Bồ Tát tọa thiền, trong khi ông tự tại quán tưởng được lâu lâu rồi ông giác ngộ cái lý Chơn không trong Thần sắc và Cảnh sắc.
Thế mà Sắc thân và Sắc cảnh là gì. Và lý Chơn không ở trong Sắc thân và Sắc cảnh ra sao?
Sắc thân: Sắc thân chỉ về thân Ngũ uẩn. Tuy thân ấy có hình thể, nhưng nó vốn do tinh cha, huyết mẹ và cái Thức của mình cấu sanh. Cổ nhơn gọi nó là thân "Trần cấu" tức nó do nhơn duyên ở cõi Trần cấu sanh. Nhơn duyên hiệp thì nó sanh. Nhơn duyên tan thì nó tử. Sanh ký tử qui, chớ chẳng có tánh thường trụ. Bồ Tát quán tự tại giác ngộ cái lý Chơn không là lẽ như vậy.
Sắc cảnh: Sắc cảnh chỉ về sự vật ở đời (Pháp), nó có hình tướng màu sắc là do Tứ đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) cấu sanh, cho đến ngày nào Nhơn duyên ấy tan rã thì hình tướng màu sắc của Pháp trần cũng hết, chớ Sắc cảnh chẳng có tánh thường trụ; Bồ Tát quán tự tại giác ngộ cái lý Chơn không cũng vì lẽ như vậy.
Sắc thân và Sắc cảnh là không. Chính cái lý "Vô thường" và "Vô ngã" (1) ấy là vị thuốc trị bịnh mê chấp của chúng sanh. Nay hành giả biết phép Chỉ quán như vị Bồ Tát đã nói trên thì hành giả sẽ không còn cố chấp "Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng" nữa.
(1) Phật giáo dùng các lý Vô thường, Vô ngã để đánh thức lòng mê chấp của chúng sanh, nhưng sự thật thì đối với chúng sanh "Sắc thân và Sắc cảnh" còn hữu dụng trong kiếp hiện tại để học tập trên đường Tấn hóa. Vậy, Vô thường và Vô ngã là vị thuốc trị mê chấp. Hễ có bịnh thì dùng thuốc, khi bịnh tiêu tan rồi cũng không nên giữ thuốc lại, bởi vì "vô" và "hữu" là tương đối lưỡng biên, chớ không phải Trung Đạo của Phật giáo.
Ngoài phép Quán tưởng, để đả phá những tướng mê chấp ở trong chỗ sâu kín, mà ngay bây giờ học giả cũng phải tịnh tâm nữa. Tại sao? Bởi vì Thần ở trong cõi lòng vị phát chi trung, nghĩa là chưa có mừng, giận, thương, vui phát động. Mà muốn Tâm tịnh chúng ta phải điều chỉnh nếp sống của mình, nghĩa là thay vì ham mê vật chất, tranh đua hơn thiệt trên đường danh lợi, chúng ta nên xem Thế giái bên ngoài là giả tạm, xóa bỏ đời sống vật chất, hồi hướng về nội giới tâm linh, thực hiện cái thuyết vô ngã; vô thường để trừ hẵn tật ích kỷ, hẹp hòi, mở rộng lòng vị tha, bác ái, bắt ý thức hệ của mình vào trong nguyên lý "Thiên Địa chi Đại đức viết sinh" để thực hành, thực nghiệm và thực hiện. Hễ Tâm tịnh thì Thần an.
Tuy nói rằng: Kẻ học phải đặt mình vào cảnh Chơn không để dưỡng Thần; nhưng Chơn không đây chẳng phải khô khan như cây, như đá; mà thật phải có cái Chiêu minh Linh giác tức Thần, chủ trương bên trong. Thần ở trong Tâm thanh tịnh vô vi cũng như ông chủ nhà ngự trị trong căn nhà bằng pha ly lau chùi, tấm tưới sạch sẽ.
Nếu có kẻ gian đến thì người chủ nhà trông thấy liền, thì Thần ở trong Tâm thanh tịnh vô vi cũng vậy. Nếu có Tà kiến, Ác kiến manh nha thì nó biết và ngăn ngay, chớ không cho phát hiện hình tướng. Đơn kinh bảo rằng: Thần phải rình Vọng thức cũng như mèo rình chuột. Chuột đến thì mèo bắt, cũng như Vọng thức manh nha thì Thần phải ngăn liền.
Mặc, mặc, mặc, vô lượng Thần Tiên tùng thử đắc;
nhưng chúng ta còn cần phải khai thông đường Tấn hóa của mình. Ấy vậy, nên chúng ta cũng cần dùng Chơn trí mà tìm tòi Thiên lý còn lẫn lộn trong Nhơn dục, để bồi bổ cái biết của mình cho đến toàn giác, toàn tri.
Nhưng cách hoạt động của Chơn trí lúc nào cũng phải lấy Thần làm chủ động, dùng Đạo pháp làm phương châm, khiến cho Thần Trí điều hòa cũng như máy Âm dương Trời Đất. Hễ động thì nhứt bổn tán vạn thù, hễ tịnh thì vạn thù phục ư nhứt bổn. Phải chăng đây là cái lý "Nhứt dĩ quán chi" của Đức Thánh Sư Khổng Phu Tử.

Xem tiếp phần thứ tư: PHƯƠNG CHÂM XUẤT THẾ Tâm Ý