DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương V:

Đặc tính các con số ứng với Thể-pháp trong nền Đại-Đạo: Từ số 0 đến 7

Số 0 | Số 1 | Số 2 | Số 3 | Số 4 | Số 5 | Số 6 | Số 7

 

Số 6

 

SỐ 6

Nguyên lý:

Số 6 do lý Thái-cực hợp với cơ-quan an-vị này (1+5=6); cũng có nghĩa là Lưỡng-nghi hợp cùng Tứ tượng (2+4) tức là hai lý Âm Dương đun đẩy nhau để biến sanh những cái đã sanh ra. Nó cũng có nghĩa là 3+3 tức là ba ngôi đầu tiên hỗn hợp nhau để hóa thành ba ngôi nhỏ nữa; cũng có nghĩa là 3 x 2 tức là tam ngôi ở cấp bực thứ nhì do luật Âm Dương biến tướng với ba ngôi đầu tiên.

THỂ-PHÁP ĐẠI-ĐẠO ỨNG VÀO SỐ 6

I- Quẻ Càn 6 nét gọi là Bát-Thuần Càn:

Trong lý Dịch hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch. Khi đã am tường các định-lý này thì 64 Quẻ còn lại cũng giải quyết một cách dễ-dàng.

Nhưng Càn (Kiền) là quẻ chính yếu nhứt, Càn có đầy đủ ba thể Dương, vi chủ vạn hữu thường tồn này. Kinh nói: “Càn kiện cao minh vạn loại thiện ác tất kiên”.

Càn là trời, là quẻ đơn có 3 nét, khi thành quẻ kép tức là số nét gấp đôi lên hóa ra 6 nét, vẫn có đủ tánh cách của Tam tài, tức là Thiên, Địa, Nhân.

Trên đây là Quẻ Bát thuần Càn. Càn hạ là nội Càn. Càn thượng là ngoại Càn. Quẻ này 6 nét tất thảy là Dương, tượng trời, mà lại hoàn toàn thuộc về tính cương kiện, đặt tên bằng Bát thuần Càn.

Cách đọc:

- Đọc Quẻ thì đọc từ trên xuống

- Đọc Hào thì đọc từ dưới lên.

Quẻ (Quái) là gồm tất cả các Hào. Quẻ có quẻ đơn chỉ có 3 vạch và Quẻ kép có 6 vạch.

 

Trong một quẻ kép thì 3 hào ngoài gọi là ngoại quái hay là thượng quái.

Ba hào trong gọi là Nội quái hay là Hạ quái.

Hào là chỉ có mỗi một vạch mà thôi: Hào có hào Dương và Hào Âm

Một gạch liền của hào Dương là ám chỉ sự toàn (đầy đủ), còn gạch đứt của hào Âm cũng vẫn là hào Dương nhưng bị phân chia nên chưa toàn, chưa đầy đủ vậy thôi. Cũng như trong đời chỉ có thiện, còn ác chẳng qua là chưa toàn thiện, chớ cũng chưa phải là nghịch hẳn với thiện, nên mới nói “toàn tức là chưa phân chia”.

Về thứ tự Hào từ dưới tính lên thì:

1- Hào dưới cùng thì gọi là Hào SƠ

2- Hào thứ nhì gọi là Hào Nhị

3- Hào thứ ba gọi là Hào Tam

4- Hào thứ tư gọi là Hào Tứ

5- Hào thứ năm gọi là Hào Ngũ

6- Hào thứ sáu gọi là Hào Thượng

Tên hào cũng có hai loại: Nếu là hào Dương thì gọi là HÀO CỬU 九. Hào Âm gọi là HÀO LỤC 六

Đó cũng là lý Âm Dương trong một quẻ, giống như một nam châm, dầu phân tích nhỏ đến độ nào cũng có hai cực Nam và Bắc vậy.

Tóm lại: Trong vũ-trụ vạn-vật này Lý Âm Dương chi phối toàn bộ phận, không đâu là ra ngoài được lý Âm Dương ấy.

Lưu ý: Những số lẻ vẫn là Dương, số chẵn vẫn là Âm. Gọi là Hào lục tức là hào Âm, Hào Cửu là hào dương, nhưng ở vị trí 1, 3, 5 tức là vị Dương, còn ở vị trí 2, 4, 6, là vị Âm. Bởi mỗi mỗi đều có Âm Dương từng đôi một: hào 1 là vị dương , hào 2 là vị âm, hai hào này chỉ về Địa.

Hào 3 là vị dương, hào 4 là vị Âm, hai hào này chỉ về Nhân. Hào 5 là vị Dương, hào 6 là vị Âm, hai hào này chỉ về Thiên. Đặc biệt hào 5 (Ngũ) là hào tốt nhứt trong quẻ, gọi là ngôi vua. Xưa gọi một vì vua lên ngôi gọi là ngôi Cửu ngũ chính là hào này, tức là hào Dương ở vị dương.

* Bát Thuần Khôn:

6 Hào của quẻ Khôn cũng có những đặc tính như quẻ Càn. Tuy nhiên chỉ đổi tên gọi. Nếu Âm gọi là Lục (Sơ Lục, Lục Nhị, Lục Tam, Lục Tứ, Lục Ngũ, Thượng Lục).

 

Tuy nhiên, khi đoán quẻ tốt xấu… thì hoàn toàn do Thánh nhân đã tìm thấy mà định vị một cách tinh vi, uyển chuyển, nên qua 6.000 năm mà giá trị vẫn được xem là định thức rồi biến thành công thức, chưa một ai có khả năng đánh đổ được. Duy chỉ có sự kém hiểu biết như Tần Thuỷ-Hoàng-Đế xưa chê là sách bói toán tầm thường nên không đốt sách Dịch cùng với nấm hoang mồ cùng học trò trong nạn “Phần thư khanh Nho” mà thôi.

2- Sáu Hào của Quẻ Càn gọi là sáu Rồng tượng 6 phẩm cấp Cửu-Trùng-Đài.

Kinh Ngọc Hoàng nói: “Thời thừa Lục Long du hành bất tức” 時承六龍 游行不息.Kinh Dịch thì lại nói rằng “Thời thừa lục Long dĩ ngự thiên” hai câu này ý nghĩa giống nhau.Có nghĩa rằng: Thánh nhân lúc nào cũng cỡi 6 Rồng ngự trên Trời. Nay chính Đấng Thượng Đế xác nhận rằng lúc nào cũng có 6 Rồng luôn di chuyển đó đây không bao giờ ngừng nghỉ.

Bởi lẽ, Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Chí-Tôn không giáng trần bằng xác thân nên phải lập Thánh-Thể của Ngài là Hội-Thánh để thay thân cho Ngài mà giáo hóa nhân sanh trong con đường hành thiện.

Vì vậy:

Cơ quan Cửu-Trùng-Đài Thầy đã lập Thánh-Thể của Thầy có 6 phẩm cấp cũng như quẻ Kiền có 6 hào vậy: Mỗi hào tượng cho một phẩm như bảng dưới đây:

Quyền hành của mỗi phẩm cấp hoàn toàn ứng hợp với tinh thần mỗi hào mà Thánh nhân đã đặt ra trên sáu ngàn năm nay, mới thấy điều vi-diệu giữa Dịch và Đạo không nơi nào mà không ứng hợp với nhau một cách khít khao, trật tự và điều hòa.

Thế nên quẻ Càn tượng ngôi Chí-Tôn:

Sáu Hào của quẻ kép này cũng phân Thượng, hạ; nội, ngoại ứng với hai cấp của Cửu-Trùng-Đài là hàng Tiên-vị và Thánh-vị. Mỗi cấp như vậy có ba phẩm. Nội là Âm, ngoại là Dương. Tuy cả hai cấp này có 6 phẩm tước nhưng thực tế lại có bảy phẩm, vì có một phẩm Chánh Phối-Sư nữa.

Cái diệu dụng của Dịch là biến, biến-hoá một cách tuyệt vời, không một nơi nào mà không ăn khớp với nhau.

(xin đọc quyển“Càn Khôn Thiên địa” Quyển III)

3- Biến hóa của Càn Khôn thành hình Tam giác:

 
   

Quẻ Kiền đơn có ba hào Dương tức là 3 đoạn thẳng bằng nhau, từ đó xếp thành một hình Tam-giác đều, tức là có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, bằng 60˚. Hai quẻ Kiền Khôn đặt theo chiều thuận nghịch, nếu vẽ thành hình sẽ có dạng như hình ngôi sao sáu cánh.

Thầy dạy:

“Ấy là Ðạo. Bởi vậy một chơn-thần Thầy mà sanh hoá thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn-loại trong Càn-khôn Thế-giới, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con” (Ngày 13-6 Bính-Dần- 22-7-1929)

Đó là một sanh ba, ba sanh vạn-vật, thuộc về cơ Chưởng-quản. Hai hình tam giác gát chồng lên nhau là chỉ Âm Dương hiệp nhứt, quyền Chí linh đối phẩm với quyền Vạn linh. ĐẠO CAO-Đài chủ trương Trời Người đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn.

Tất cả vạn vật, vạn loại đều do quẻ Kiền mà ra! Do vậy mà khi đối phẩm thì cả chúng sanh là đối phẩm với Trời, nên Thầy nói “Thầy là các con, các con là Thầy”. Thế nên Trời là Chí-linh, người là Vạn linh.

Quẻ Khôn cũng do quẻ Kiền mà bị chia hai, chớ không phải ngoài quẻ Kiền có quẻ Khôn. Các quẻ còn lại “Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn” cũng đều do từ Kiền mà biến sanh ra khác nhau, chứ không phải ngoài quẻ Kiền ra mà có được 6 quẻ ấy. Cả thảy đều do sự tấn hoá của Kiền biến hoá.

Quẻ Khôn có đủ 4 đức Nguyên Hanh Lợi Trinh cũng như Kiền, nhưng mỗi mỗi đều có vai trò khác nhau cùng làm chung một nhiệm vụ là sanh biến vạn linh.

4- Cửu-Trùng-Đài là gì?

Cửu-Trùng-Đài: 九重臺 Tiếng Pháp là Corps Exécutif.

Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hoá, hiệp thành Hội Thánh Cửu-Trùng-Đài, xem như phần thừa hành giảng viên hội các môn, các khoa do Cơ Bút giáng truyền để giáo-huấn người đời nên gọi là Thể Thiên hành-hoá.

Bởi do theo Tôn-chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo dục mà thôi. Pháp-Chánh-Truyền dạy:

“Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên các Chức sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hoá là chánh vai của mỗi người, như: Giáo hữu, Giáo-sư, Phối-sư, Đầu-sư, Giáo Tông. Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “Giáo” hay là chữ “ Sư”.

 

Thế nên:

Giáo-Tông (1 vị) là người đứng đầu Tôn giáo có trách-nhiệm hữu hình là “Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn”. Phẩm này chỉ có một mà thôi đứng vào hàng Nhứt Phật. Đối phẩm với Thiên Tiên (xem như một Thái-cực)

Đầu-Sư (3 vị) là người đứng đầu của các vị Thầy, đứng vào hàng Tam Tiên, đối phẩm với Địa Tiên.

Phối-Sư (36 vị) là người phối-hợp với các vị Thầy đối phẩm với Thiên Thánh, đứng vào hàng Tam thập lục Thánh. (Trong số 36 vị Phối sư được đề cử ra 3 vị Chánh Phối sư).

Giáo-Sư (72 vị) là Thầy có bổn-phận giáo-hoá nhơn sanh, đối phẩm với Nhơn-Thánh, đứng vào hàng Thất thập nhị Hiền.

Giáo-Hữu (3.000 vị) là người chỉ có bổn phận dạy Bạn mà thôi, đối phẩm với Địa Thánh, đứng vào hàng Tam thiên đồ đệ.

Riêng ngôi Chưởng-Pháp (3 vị) là Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài hành quyền bên Cửu-Trùng-Đài. Bởi Cửu Trùng Đài vẫn là chánh-trị mà Chưởng-Pháp lại thuộc về luật lệ. Vậy thì Chưởng-pháp là người thay mặt Hiệp Thiên-Đài nơi Cửu-Trùng Đài. Ấy là cơ Đạo cổ kim hãn hữu (PCT)

Xem như 3 ngôi Chưởng-Pháp là Dương, 3 ngôi Đầu-sư là Âm.

Như vậy Cửu-Trùng-Đài là một Hội-Đồng Giáo-sư dạy-dỗ nhơn-sanh cả Đời lẫn Đạo, chính:

- Đức Chí-Tôn là Viện trưởng.

- Các giáo-khoa là Triết-lý của Đức Phật Thích Ca, Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Tử, Đức Chúa Jésus Christ.

- Các phụ-tá khoa trưởng là Tam-trấn và hằng hà sa số chư Phật là Giáo sư chuyên khoa.

- Đặc biệt hơn hết là Hội-Thánh Lưỡng Đài (Hiệp Thiên và Cửu Trùng) là hình thể hữu vi của Đức Chí Tôn, thay thế phần hữu hình bất di bất dịch, truyền nối thất ức niên theo Pháp Chánh Truyền qui định, trước qua sau tới luôn luôn đủ thành phần.

 
   

Hội Thánh hai Đài là Thánh-Thể Đức Chí Tôn tại thế; không có ai là người độc nhất được gọi là Giáo-chủ của Đạo Cao Đài cả.

Tuy nhiên khi nào hai ông Chủ của hai Đài hữu hình tức là Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một sẽ là quyền Vạn-linh. Chỉ có quyền Vạn-linh mới đối quyền với Chí Linh của Thượng-Đế mà thôi.

Các con số của phẩm cấp được Đức Chí-Tôn chọn lựa không ngoài con số 3 làm chuẩn:

Ngôi Giáo Tông 1 mà 3 (thay trời tạo thế)

Chưởng-Pháp, Đầu Sư, mỗi phẩm ba vị tức là Tam Âm tam Dương, tạo thành ngôi sao sáu cánh.

Những phẩm khác: 36 vị, 72 vị, 3.000 vị đều là bội số của 3. Số 3 là căn bản. Số 3 có một giá trị lớn lắm vậy!

Các con số phẩm tước này do đâu mà có?

Thầy dạy:

“Trước khi chưa phân Trời đất, KHÍ HƯ-VÔ bao quát Càn Khôn, sáng-soi đầy vũ-trụ. Đó là một cái Trung Tâm-điểm tức là ĐẠO. Rồi Đạo ấy mới sanh ra Thái cực. Hồng-mông sơ khởi, huyền huyền hạo hạo khối lại thành ngôi Thái-cực, rất đầm-ấm lưng-chừng trong đó toàn là một khối, đúng mấy muôn năm bùng nổ ra tiếng dường như thiên khuynh điạ khúc, thì đã có THẦY ngự trong ngôi THÁI-CỰC; rồi có một tầng ÂM và một tầng DƯƠNG gát chồng nhau thành hình chữ thập ló ra bốn cánh gọi là LƯỠNG-NGHI sanh ra TỨ TƯỢNG. Chữ thập mới dần dần quay lộn chạy lăn tròn như chong-chóng, lăn tủa ra muôn ngàn quả tinh-cầu thế giới, chữ thập ấy dưới có bốn cánh bông kêu là TỨ ÂM, TỨ DƯƠNG tác thành Bát quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Bát-quái mới biến-hóa vô cùng, phân định Ngũ hành, Càn Khôn muôn vật. Thái-cực sanh Lưỡng-nghi tức Tam thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam thiên (ba mươi ba từng trời) cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam thập lục Thiên. Trong mỗi từng Thầy chia Chơn-linh, có một vị Đại-La Thiên-Đế Chưởng-quản.

Chỗ Thầy ngự gọi là Bạch-Ngọc-Kinh, là kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi-vọi, ngoài có Huỳnh-Kim Khuyết là cửa ngõ bằng vàng ròng cực kỳ mỹ-lệ.

…Rồi tới Hạ tầng Thế-giái, Tam Thiên thế giái, Ba ngàn quả tinh-cầu phân làm Tứ đại bộ châu rồi nối theo Thất thập nhị điạ, tức là Đệ nhứt cầu cho đến địa-cầu các con ở là địa-cầu 68.”

Chính những con số này mà Đức Chí-Tôn đã lập thành hệ thống Chức sắc Cửu Trùng Đài đó vậy.

Tính từ dưới lên tức là hàng Thánh vị thì:

- 3.000 Giáo Hữu ứng với số Tam thiên thế giới.

- 72 vị Giáo-Sư ứng với con số Thất thập nhị địa.

- 36 vị Phối-Sư ứng với con số tam thập lục thiên

Nhưng trong số này có ba phái (Thái, Thượng, Ngọc) được chọn ra mỗi phái một vị làm Chánh Phối Sư ứng với con số Tam thiên-vị (ba ngôi Trời). Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam thiên (ba mươi ba từng trời) tức là số 33 vị Phối-sư còn lại đều “là người lãnh quyền của Chánh Phối sư ban cho, đặng đồng quyền, đồng thể cùng Chánh Phối Sư khi Người giao trách nhiệm cho mình” cộng với ba ngôi trên là ba mươi sáu từng trời, nên gọi là Tam thập lục thiên.

Về hàng Tiên vị thì do con số biến hoá từ Đạo ấy mới sanh ra Thái cực, là 1. Về hữu hình tức là một ngôi Giáo-Tông là số của Tiên Thiên, khi qua Hậu Thiên thành ra 3, nên chi một mà ba, mà ba cũng như một, chính nó cũng có Âm Dương. Thế nên ba ngôi Chưởng Pháp thuộc về Đạo là Dương, ba ngôi Đầu Sư thuộc về Đời trong Đạo là Âm.

5- Giáo Tông nghĩa là Anh Cả ba phẩm Ðầu-Sư, nghĩa là Giáo Hữu

Riêng ở cơ-quan Cửu-Trùng-Đài thì Giáo-Tông là Chưởng-quản, dưới có 6 phẩm cấp là ba Chưởng-Pháp và ba Đầu-Sư. Đó là cơ-quan quản-trị càn khôn vậy.

Thánh ngôn có dạy:

… “Vậy Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông nghiã là Anh Cả ba phẩm Ðầu-Sư, nghiã là Giáo Hữu. Chẳng đặng một ai duới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn-loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị thầy ban thưởng. Còn cả Môn-đệ ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; những kẻ nào phạm tội thì Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi điều rối loạn”. ( Ngày 24- 4-1926)

(H.62) Vạn linh hiệp Chí-linh

Theo hình vẽ cho thấy rõ, như vậy có nghĩa là hàng Tiên-vị có 3 phẩm: Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu-Sư đặt trên Tam-giác có đỉnh quay lên, tượng Chí linh.

Đồng thời hàng Thánh-vị có 3 phẩm là: Phối-sư, Giáo-sư, Giáo-hữu, tượng cho Vạn linh. Tam-giác này đỉnh quay xuống dưới: Cho thấy ngôi Giáo-Tông và Giáo hữu cùng nằm trên trục đứng xuyên tâm đối.

Thế nên đỉnh trên là Giáo-Tông, đỉnh dưới là Giáo hữu, đặt thẳng hàng xuyên qua tâm.

- Tại sao nói Giáo-Tông… nghĩa là Giáo hữu?.

PCT: “Đã nói Giáo-Hữu là người thân mật với nhơn sanh hơn hết, mà kể từ phẩm Giáo-Hữu đổ lên cho tới Giáo-Tông thì xa lắm. Ấy vậy Giáo-Hữu thì gần với nhơn sanh, còn Giáo-Tông thì xa nhơn sanh. Nếu Giáo Tông muốn gần với nhơn sanh thì phải cần mẫn giao thân cùng Giáo-Hữu. Giáo-Hữu là người biết nhơn sanh hơn hết, nếu Giáo-Tông muốn biết nhơn sanh, thì phải nghe lời Giáo-Hữu.

Thánh ý muốn cho Giáo-Tông đặng gần nhơn sanh cũng như Giáo-Hữu, cho nên dặn Giáo-Tông phải để ý cần mẫn, xét nét mỗi điều của Giáo-Hữu cầu xin hơn hết song mỗi điều chi Gíao-Hữu cũng không đặng phép loạn đẳng cấp trên mình mà dâng sớ”.

- Tại sao nói: “Giáo-Tông nghĩa là Anh Cả ba phẩm Đầu-sư”?

PCT: Đầu-sư có quyền cai trị “phần Đạo” và “phần Đời” của chư Mộn-Đệ Chí-Tôn.

Tức nhiên:

“Đầu-sư có trọn quyền về phần Chánh trị của Cửu Trùng-Đài và phần Luật-lệ của Hiệp-Thiên-Đài. Vậy thì Người đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp, tức là người của Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài; bởi vậy Đầu sư phải tùng cả hai mà hành chánh, chẳng đặng phép tự ý riêng mình mà thi thố điều chi không có lịnh của Giáo-Tông và Hộ-Pháp truyền dạy”.

Về phần Hội-Thánh Em, thì:

Đầu-Sư Em là phẩm Chánh-Trị-sự cũng vậy, người nắm cả hai quyền Chánh trị và Luật lệ, nhưng chỉ có quyền trong một địa phận mình mà thôi.

Đức Hộ-Pháp nói:

“Cái phẩm vị Thiêng Liêng của mấy em nơi mặt thế, Phó Trị Sự, Thông Sự đối với Ngôi Giáo Tông, Hộ-Pháp, trong khi tuổi của mấy em đã tri thiên mạng rồi, rất ngộ nghĩnh thay Đức Chí Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh Thể của Ngài, Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật Tạo đoan hay là một gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo, Đức Chí-Tôn đã để:

- Hàng Tín-Đồ đối với Đại-Từ-Phụ.

- Phó-Trị-Sự và Thông Sự đối với Phẩm Giáo Tông và Hộ-Pháp.

- Chánh-Trị-Sự đối với Phẩm Đầu-Sư.

Thì mấy em thử nghĩ coi khuôn khổ Thánh Thể của Ngài không có một cái gì sơ sót hết.”

6- Tại sao lại mượn 6 phẩm cấp của cơ quan Cửu Trùng Đài làm biểu tượng cho 6 hào của quẻ Kiền?

Gọi là “Thời thừa lục Long dĩ ngự Thiên” Ấy là lúc nào cũng có 6 Rồng ngự trên trời. Sáu Rồng này luôn đi lại đó đây không bao giờ ngừng nghỉ. Bởi 6 hào của quẻ Kiền là quẻ thuần Dương, năng động, nên:

- Trước hết có sự ứng hợp với cơ-quan Cửu Trùng Đài là một cơ-quan trọng-yếu của nền Đại Đạo là giáo-hoá nhơn-sanh. Phải là năng động, linh hoạt

- Những phẩm tước này là Thánh-thể của Đức Chí Tôn tức nhiên thay thân cho Thầy mà lo phần dạy-dỗ nhơn-sanh.

- Thánh-thể Chí-Tôn có quyền làm Cha khi Cha vắng mặt. Làm Thầy khuyên dạy đám trò yêu của Chí-Tôn mà Chí-Tôn đã giao phó. Đó là “quyền huynh thế ngôn” hoặc là “quyền huynh thế phụ”.

- Sáu hào biến của quẻ Càn gọi là “Lục vị Thời thành”

Lục vị 六 位 là sự kết hợp của quẻ Kiền do 6 vạch Dương mà thành, tức nhiên 6 vạch này là 6 con của Kiền Khôn mà ra.

Bát-quái có tám quẻ mà Kiền Khôn là đầu mối của vạn vật hay nói khác đi thì Kiền Khôn là cha mẹ sinh ra 6 con là “Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn” làm khởi thuỷ. Tuy vậy mà lúc nào cũng hoà-hợp…

 

Theo hình vẽ thì lúc mới sinh ra: hai quẻ Kiền Khôn nằm ở đầu và cuối trên một đường thẳng, như một sự đi ra để ấp-yêu con dại. Sáu con nằm giữa lòng cha mẹ để có được sự bảo trì.

- Lần đầu Kiền hợp với Khôn, cướp một âm của Khôn mà sinh ra một gái trưởng (Trưởng Nữ) là Tốn Khôn hợp với Kiền mà lấy một dương của Kiền rồi sinh ra một trai trưởng (Trưởng Nam) là Chấn đấy là hàng con trưởng.

- Lần nhì Kiền hợp với Khôn cướp một âm của Khôn mà sinh một gái giữa (Trung nữ) là Ly đồng thời Khôn giao với Kiền cướp 1 dương của Kiền mà sinh một trai giữa (Trung Nam) là Khảm là hàng trung.

- Lần ba Kiền giao với Khôn cướp một âm của Khôn mà sinh ra một gái út (Thiếu Nữ) là Đoài đồng thời Khôn giao với Kiền và cướp một Dương của Kiền sinh ra một trai út (Thiếu Nam) là Cấn đây là hàng Thiếu là trẻ, hình thành sau hết .

Ở đây có một sự hài hoà rõ-rệt từ số đến thứ bậc như: Kiền 1 là Cha hợp với Khôn 8 là Mẹ, do vậy mà hợp số là 1+8= 9

Tốn 5 là trưởng nữ hợp với Chấn 4 là trưởng nam, hợp số là 4+5= 9

Ly 3 là trung nữ hợp với Khảm 6 là trung nam, hợp số là 3+6= 9

Đoài 2 là Thiếu-nữ hợp với Cấn 7 là Thiếu nam, hợp số là 2+7= 9

Như vậy đủ thấy Đạo chủ-trương là hoà hợp dù bất cứ ở phương-diện nào. Có hoà-hợp mới có yêu thương trong đức háo-sanh của Trời. Sáu hào của quẻ Kiền đã nói lên tinh-thần thân thiết của một gia đình trong đó có cha mẹ, anh em từ lớn chí nhỏ đều sống trong cộng-đồng yêu thương nhau. Khi đã thành Lục thân (phụ mẫu, huynh đệ, phu phụ) thuận hoà thì làm bất cứ việc gì cũng thành công một cách mỹ-mãn.

Với Đạo-pháp thì ngôi thứ đã rõ-rệt như thế:

- Kiền là tượng ngôi của Đức Chí-Tôn.

- Khôn là tượng ngôi của Đức Phật-Mẫu.

II- Phật độ 6 ức nguyên nhân là nghĩa gì?

Con số 6 ấy là nói phép tu theo Phật là cho hiểu nguồn gốc khổ của con người là do lục căn, bởi khi tiếp xúc với lục trần thì sinh ra lục dục. Nếu nhờ biết tu thì biến tất cả thành ra lục thức để đến chỗ cao thượng hơn là đạt cho được Lục thông để khỏi phải bị đoạ vào Lục đạo luân hồi.

Chính ra những con số LỤC này nó đã nằm ngay trong chân tính của con người, nhưng khi đến trần là bị nhiễm trần, lâm phàm rồi thì cái gì cũng phàm. TU chính là lau bụi trên mặt gương, nào phải lau gỗ mà thành gương được. Thế nên chỉ có người TU mới được viên mãn mà thôi. Cho nên Đạo-pháp nói lý là “Phật độ được 6 ức nguyên nhân” là vậy:

- LỤC CĂN: Sáu gốc rễ có sức nảy sanh.

Lục căn (lục là 6; căn là rễ) chính là sáu giác quan của con người để nhận biết sự vật, như:

1- Nhãn (Mắt)

2- Nhĩ (tai)

3- Tỷ (mũi)

4- Thiệt (lưỡi)

5- Thân (da thịt)

6- Ý (Tư tưởng)

- LỤC THỨC (thức là biết) Sáu điều hiểu biết của con người. Lục thức có được là do Lục căn.

Lục thức gồm:

1/- Nhãn thức: sự biết do mắt nhìn thấy

2/- Nhĩ thức: Sự biết do tai nghe

3/- Tỷ thức: Sự biết do mũi ngửi

4/- Thiệt thức: Sự biết do lưỡi nếm

5/- Thân thức: Sự biết do da thịt cảm nhận

6/- Ý thức: sự biết do tư tưởng

-LỤC TRẦN: (Trần là bụi), chỉ cõi trần. Lục trần là sáu cảnh nơi cõi trần diễn ra trước Lục căn, làm cho Lục căn sanh ra Lục thức. Lục trần gồm

1/- Sắc: cảnh vật có màu sắc xinh đẹp.

2/- Thinh: âm thanh êm ái, lời nói ngọt ngào.

3/- Hương: mùi thơm của hoa, của món ăn.

4/- Vị: thức ăn ngon béo bổ.

5/- Xúc: trang sức lụa là, da thịt mát mẻ.

6/- Pháp: Tư tưởng mưu tính thực hiện cho thoả ý muốn

- LỤC DỤC (dục là muốn) Sáu điều ham muốn. Lục trần khêu gợi Lục căn, Lục căn sanh ra Lục thức, Lục thức sanh ra Lục dục. Lục dục gồm:

1/- Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp

2/- Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai.

3/- Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu

4/- Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng

5/- Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng.

6/- Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn.

Con người có Lục căn nên mới có Lục thức. Lục thức bị Lục trần cám dỗ mới sanh ra Lục dục. Bốn thứ ấy liên hệ mật thiết nhau, tương tác nhau làm cho con người lẩn quẩn như bị trong cơn lốc của cuộc đời.

“Thất tình Lục dục là mối loạn hằng ngày trong tâm trí, không phương trừ khử. Một đám giặc liệt cường tài trí đánh phá ruồng trong núi cao rừng thẵm còn dễ trừ dẹp đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là Lục dục: Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân và Ý dục, chúng nó phá hại hằng ngày.

Nhãn thì ưa màu sắc tốt đẹp.

Nhĩ thích nghe những giọng nói tao nhã thanh bai.

Tỹ thì ưa mùi thơm hơi ngọt.

Thiệt thì ưa nếm vật lạ món ngon.

Thân mến vợ đẹp hầu xinh, cả dục tình dâm loạn.

Ý lại tư tưởng vất vơ quấy phá.

Nhứt là Ý là mối đại hại cho con người. Nó tư tưởng sự nầy sang sự nọ. Chuyện nọ hết đến chuyện kia. Nó ra vô lẹ làng không chi ngăn đón đặng, nên mới cho nó là đứa ăn trộm tài nghề, xách món nầy, lấy vật nọ trước mắt muôn người mà chẳng ai thấy.

Còn thân, cái thân thể muốn sự dâm dục quá độ, mới hao tán nguơn Tinh, nguơn Khí, nguơn Thần.

Thiệt là lưỡi, miệng ham ăn món ngon vật lạ, đồ mỹ vị cao lương, phạm tội sát sanh, bị sa đọa vào Lục đạo.

Tỹ là mũi ưa thơm tho mới khiến lòng ham muốn.

Nhĩ là tai, tai nghe điều phi lễ.

Nhãn là mắt ngó thấy sắc đẹp thì lòng dục dấy lên.

Vậy thì, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân ham, đều xúm làm cho thân xao động, sanh lòng quấy

Vả lại, Lục dục là sáu con quỉ, tức là sáu đứa côn đồ, nhưng biết cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỉ ấy trở nên Lục thông là đắc đạo.

Muốn thâu phục sáu con quỉ ấy thì phải làm chủ cái Tâm, tâm cho thanh tịnh, định cái trí, trí phải tự nhiên. Lục dục được an, Lục thần đầy đủ.

Hễ có Lục dục thì có Lục trần, mà hễ có Lục trần thì mới sanh Lục tặc. Có Lục tặc thì hại Lục căn, Lục thức, Lục thần, nên sa vào Lục đạo.

Ấy là kiếp con người không có Nguơn Thần chấp chánh, để cho Thức Thần đương quyền, thì dầu có sống, sống một cách vất vơ như bồ nhìn trơ trơ để gió lay người đẩy” (tham khảo Tự điển ông Nguyễn văn Hồng)

III- Đền-Thánh có LỤC LONG PHÒ ẤN

 

(H.63) Đền Thánh Tây-ninh

 

Khi du khách đến viếng Toà Thánh, điều mà lôi cuốn đầu tiên là hai lầu chuônglầu trống cao ngất.

Một hệ thống kiến trúc kiểu Pháp nằm giữa hai khu rừng Thiên nhiên màu xanh biếc.

Jeanine Anboyer trong quyển: Mỹ Thuật Viễn Đông nhận định rằng: Người Việt Nam đã biết chọn những cảnh thiên nhiên đẹp nhất để xây dựng những công trình thờ cúng của họ (Les arts de L’ Extrême Orient. Pario 1948 trang 83). Đó là lối kiến trúc cổ Việt-Nam theo lối kiến trúc cảnh vật hóa.

Một tu sĩ Nhật-Bản cũng cho rằng Toà Thánh được xây cất trên suối ngầm chảy qua 6 cửa gọi là “Lục long phò ấn” hay “Lục long kết tụ”. Vùng đất này rất phát triển về Đạo pháp và nhân tài (Huỳnh Minh, Tây Ninh Xưa và Nay)

Về phương hướng xây dựng Đền Thánh.

Thầy dạy:

“Toà-Thánh day mặt ngay hướng Tây, tức là chánh cung Đoài ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là cung Càn bên tay mặt Thầy là cung Khôn đáng lẽ phải để bảy cái Ngai của phái Nam bên tay trái Thầy, tức cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ chi cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số.

Nơi đây có đủ Tam Tài ứng hợp:

1- Phần Thiên:

Đức Lý giáng dạy đêm 23-1 Đinh-Mão (Dl 24-2-1927) tại chùa Gò Kén

THÁI BẠCH.

“Hỷ chư Đạo hữu, chư Đạo muội. Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa không, tưởng chư Hiền hữu không thấy nữa.

Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa?

Sâu hơn 300 thước, như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi, gọi là LỤC LONG PHÒ ẤN. Ngay miếng đất đó đặng 3 đầu: Một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.

Người Lang-sa chỉ đòi 20 ngàn, nói rồi trả đúng có 15 ngàn, Lão dặn thì thành trả 17 ngàn, 18 ngàn thì đặng Còn xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn. Đất nay còn rẻ, miếng đất chung quanh Thánh địa ngày sau hóa vàng. Chư Hiền hữu biết lo lập, ngày sau rất quí báu.” THĂNG (Đạo-Sử II/ 225).

Khi phá đám rừng nầy thì đàn Thổ (người Miên) xuống cả ngàn người để phá rừng, làm cho ông Chánh Tham Biện (Tỉnh Trưởng Tây Ninh) người Pháp nghi ngờ, mời Đức Thượng Phẩm ra Tòa Bố.

Ông hỏi Đức Thượng Phẩm: Chớ làm cái gì mà đông đảo như vậy?

Đức Thượng Phẩm trả lời rằng: Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su.

Ông Tham Biện hỏi: Trồng mấy mẫu?

Đức Thượng Phẩm trả lời:

Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó. Nên ngày nay, trong Nội Ô có cây cao su là do đó” (trích Đạo-Sử I/52)

Tất cả những phương hướng trên qui kết vào một Bát-Quái Đồ Thiên thật là ngoạn mục và vi diệu vô cùng. Mỗi mỗi đều ăn khớp nhau như những mắc lưới đều-đặn, mà phải do bàn tay của Đấng Tạo công mới làm nên bức tranh tuyệt sắc như vầy (Xem thêm Dịch-lý Cao-Đài I. Cùng Soạn giả có giải thích kỹ về Bát-Quái)

2- Phần Địa: Viễn cảnh Toà Thánh Tây Ninh

- Về phía Đông cung Chấn gối lên giồng Sân Cu (ý là đất lành chim đậu)

- Mặt trước là phía Tây cung Đoài trông ra sông Vàm Cỏ Đông.

- Phía tả: Nam (đứng theo phía Tòa-Thánh) có dòng sông Cẩm Giang và Bến Kéo nước chảy quanh cuộc đất. Đó là điểm kết long mạch, sách Lỗ Ban Kinh gọi là Hàm rồng. Phong-thủy là Âm Dương hội đủ.

Cận Cảnh, hồ Động Đình (Bàu Cà Na) nước chảy không ngừng (pháp luân thường chuyển) vào rạch Ao Hồ Tây Nam. Hai bên trái phải Toà Thánh là hai cánh rừng Thiên nhiên xanh biếc hài hòa cảnh trí.

- Phía Bắc là cung Ly suối Lâm Vồ.

- Phía Đông Bắc là cung Tốn là Suối Đá, Suối Cái chảy về Phía Đông là cung Chấn

- Phía Nam cung Khảm qua Đoạn Trần Kiều, Suối Con lươn ra Giải khổ Kiều, bốn suối hợp sức tưới mát và bao quanh vùng Thánh địa, hợp với sông Vàm Cỏ Đông, Cẩm Giang mà kết tụ Lục Long Phò Ấn. Biểu hiện Tay Long (Dương), Tay Hổ (Âm) không đối lập nhau mà còn hòa hợp lẫn vào nhau nhiều lần viễn cảnh cũng như cận cảnh. Bên trái (Thanh Long), bên phải (Bạch Hổ) thế sông núi châu đầu vào nhau như hình móng ngựa (đại kích!). Địa thế Lục Long phò Toà Thánh đó, không đâu tốt đẹp bằng! Như vậy trên Plafond là có Lục Long đoanh nhau, dưới có Lục Long phò ấn, đủ 6 Âm, 6 Dương là 12.

3- Về Nhân: Biểu tượng Thánh Thể Đức Chí-Tôn:

 
   

Quẻ Càn gọi Lục Long: nghĩa 6 hào của quẻ Thuần Càn tượng 6 rồng. Đạo-pháp: Xem như 6 phẩm cấp của Cửu-Trùng Đài tượng trưng Thánh Thể của Chí-Tôn.

IV- Luận về 6 chữ ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

Đức Hộ-Pháp nói:

“Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí-Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao Đài. Với danh-hiệu “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” 大 道 三 期 普 渡 có 6 chữ; đứng về số-học thì số 6 là do 3+3 hay là 3x2.

Trước nhất nó có nghĩa là 3+3 tức là 3 ngôi đầu tiên hỗn-hợp nhau để hóa thành 3 ngôi nhỏ nữa, cũng có nghĩa là 3x2 tức là 3 ngôi ở cấp thứ nhì do luật Âm dương biến tướng với 3 ngôi đầu tiên. Quả thật, nhìn vào từ-ngữ thì 6 chữ “Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” là do 3 từ kép, mỗi từ có 2 chữ.

Con số 2 là con số Thiếu-âm, con số 3 là con số Thiếu dương, tất cả đều là nằm trong số của Tứ tượng.Tức nhiên trong Tứ tượng có 4:

1 là Thái Dương 2 là Thiếu Âm
3 là Thiếu Dương 4 là Thái Âm

Nếu hiệp hai số Thái lại với nhau thành ra 1+ 4= 5

Nếu hiệp hai số Thiếu lại với nhau cũng ra 2+3 = 5

Trong sáu chữ này đã có đủ Ngũ hành Dương và ngũ hành Âm, từ đó mới biến hoá vô cùng.

Điều này có luận trong “Dịch lý Cao-Đài” quyển I

Đây xin luận về chữ Hán: 大 道 三 期 普 渡

 

Với 6 chữ Hán này cũng chia ra làm Tam Âm Tam Dương như đã nói ở trên, tức là chính nó đã làm nên một ngôi sao sáu cánh. Đỉnh Dương quay lên. Đỉnh Âm quay xuống. Ấy là một sanh ba, ba sanh vạn vật, chỉ âm dương hiệp nhứt, thuộc về cơ quan Chưởng-quản, đó là quyền Chí linh đối phẩm với quyền Vạn-linh:

- Chí-linh là TRỜI, cơ qui nhứt (đỉnh A)

- Vạn-linh đại diện là NGƯỜI, cơ tấn-hóa (đỉnh A’)

Ngôi sao sáu cánh này Đức Hộ-Pháp lấy làm biểu tượng là một huy hiệu.

Hỏi vì sao chỉ riêng Đức Hộ-Pháp có hình ngự trên huy hiệu này mà không vị Chức sắc nào được?

- Bởi Ngài là Giáo-Chủ hữu hình, tức nhiên Đức Ngài nắm quyền Chí-Tôn tại thế, là làm chủ nền Đại Đạo. Ngài là Chưởng quản Nhị hữu Hình đài: Hiệp-Thiên và Cửu Trùng, nghĩa là Ông TRỜI dưới thế này.

Sáu chữ đặt trên sáu cánh ngôi sao:

- Chữ Đại 大 (3 nét) đặt ở cánh bên mặt, chữ B’

- Chữ Tam 三 (3 nét) đặt ở trái, tức là đối xứng nhau qua chữ Đạo ở giữa (C’)

Hai chữ có số nét bằng nhau, tức nhiên cân bằng lý Âm Dương để điều hòa vũ trụ. Cũng như về quyền hành Đức Hộ-Pháp Chưởng quản cả hai cơ quan Hành chánh và Phước thiện, tức nhiên cơ quan hành pháp và luật pháp của Đại Đạo. Ngài là Chưởng quản cả nhị Hữu hình Đài, tức nhiên kiêm quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Các chữ này đặt nghịch chiều kim đồng hồ, gọi là nghịch chuyển. Đó là con đường trở về tức là phản bổn hườn nguyên mà Thầy đã dạy “Tu hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng”.

Lại nữa Hộ-Pháp bấy giờ là hiện thân của số 1 mà ba, mà ba cũng là một. Vì:

- Hộ-Pháp hiệp với Lý Giáo-Tông là quyền Chí-Tôn.

- Hộ-Pháp hiệp với Quyền Giáo-Tông cũng là quyền Chí-Tôn tại thế, là quyền Trời đó vậy.

- Chữ Đạo 道 (12 nét) đặt ở đỉnh cao, tượng trưng một uy quyền tuyệt đối, là quyền chúa tể Càn khôn vũ trụ này. Thánh ngôn rằng:

“Thập Nhị khai thiên là Thầy, Chúa cả càn khôn thế giái nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy”.

Quyền Đạo có vô vi, có hữu hình tương đắc.

Như trước đây quyển Dịch-lý I đã chứng minh rằng Giáo-Tông làm chủ Bát-Quái Đồ Thiên mà Hộ-Pháp cũng làm chủ Bát-quái Đồ thiên. Đó chứng tỏ rằng khi Giáo Tông hữu hình thì Hộ-Pháp vô vi. Khi nào hai quyền này hiệp một đó là Quyền Chí-Tôn tại thế. Đây là một Bát Quái đồ thiên có đầy đủ tính chất trời người hiệp một: tức là đủ tính chất Âm Dương.

 

Trong khi đó nếu Đức Hộ-Pháp hiệp với Đức Lý Giáo-Tông cũng là quyền Chí-Tôn. Như vậy một mà ba, mà ba cũng như một. Ấy là Tam tài.

Nhưng Đức Quyền Giáo-Tông là chủ Cửu-Trùng Đài mà trước đây là Đầu sư Thượng-Trung-Nhựt, là một trong ba Bửu của Trời, vậy phải kể đến ba vị

- Thái Nương Tinh

- Thượng Trung Nhựt.

- Ngọc Lịch nguyệt

Còn Hộ-Pháp là chủ Hiệp-Thiên-Đài mà là Chủ chi Pháp.Bên cạnh còn có Thượng-Phẩm chủ chi Đạo và Thượng-Sanh làm chủ chi Thế. Để thấy rằng những chức vị mà các Đấng ấy lãnh một vai trò yếu trọng trong nền Đại-Đạo này.

Khi vẽ hai hình Tam giác và hai hình vuông đặt chồng lên nhau tức là Âm Dương tương hiệp cho ra một hình ảnh mới đó là hình có tám cạnh gọi là Bát-Quái. Chính Bát quái này Đức Hộ-Pháp làm chủ.

Thể pháp này áp dụng trong các Đạo phục của chư Chức-sắc Thiên phong

Dịch nói “Thiên Nhứt sanh Thuỷ, Địa lục thành chi”

Số 6 chính là tượng cái thể nước thành hình ở cõi hữu hình, tức là cõi dưới cho nên 1 hợp với 6. Mà 6 là do 5+1. Số 5 là số tượng trưng một vòng cõi khác, vì vậy mà số 1 biến sanh ra Thuỷ theo Thần linh, mà số 6 hoá thành nó là chất nước hữu hình. Cũng vì lẽ ấy nếu lấy số 5 để giải sự khác nhau của hai cõi: hữu hình và vô hình thì những số 1,2,3,4,5, tức là 5 số đầu thuộc về Thần linh và 5 số sau là 6,7,8,9,10 thuộc về cõi hữu hình là cõi đất. Nói là cõi vô hình thành tượng tức là 5 số trên là tượng mà 5 số dưới là hình: 6=5+1, 7=5+2, 8=5+3, 9=5+4, 10=5+5

Trên đã nói: 1 biến sanh Thuỷ mà 6 thành nó. Đây giải cái sơ khai sinh Ngũ hành và thành hình ở trái đất.

Nhìn chung vào tấm huy-hiệu này có 7 điểm (6 cánh + 1 tâm) mà điểm giữa là hình ảnh của Hộ-Pháp ngự trị. Số 7 chỉ về người, ứng với số của trời là 1. Trước đây đã nói Giáo-Tông cũng đứng chủ trung con số 7 ấy là cơ hiển tức cơ Âm, giờ này Hộ-Pháp cũng nắm con số 7 là cơ ẩn, ấy là cơ Dương. Trên tấm huy hiệu còn có 4 chữ “Đảng phái thống nhứt” ngoài ý-nghĩa là một nền Tôn giáo Đại Đồng ra, thì con số 4 là chỉ Tứ âm Tứ dương, để hiệp vào các con số Tam ở trên mới tạo thành Bát-quái, mà 5 chữ “Giáo-chủ Phạm-Công-Tắc” vừa xác-định ngôi vị của Ngài trong nền Đại-Đạo, mà con số 5 cũng để xác định là con số “ngũ trung” tức là Tâm của Bát-quái nữa.

Hộ-Pháp làm chủ Bát-quái Đồ Thiên

Tam Âm tam Dương và Tứ Âm Tứ Dương hiệp lại sẽ thành Bát-quái Đồ thiên mà Hộ-Pháp vi chủ. Giáo-Tông làm chủ Bát-quái hữu-hình, Hộ-Pháp làm chủ Bát quái vô vi. Âm dương không xa lìa nhau. Khi Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế. Nay Đạo Cao Đài dùng Bát-quái Đồ thiên. Tấm huy hiệu của Hộ-Pháp tuy 6 cánh mà có 7 điểm. Ngài ngự vào tâm: vì lẽ đó số 7 cũng chỉ về quyền-uy của Hộ-Pháp đứng trên Thất Đầu-xà tức là làm chủ Thất tình của nhân loại. Ngài nói: Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thắm vào chơn tánh.

►Xem tiếp >>>>>

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009