
SỐ 1
Nguyên lý:
Số 1 là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh hoạt trước nhất để biến vi hữu tướng.
Số 1 chỉ về Thái-cực tức dương, người hay vật mang số này thì có tánh chuyên nhất và ưa cầm quyền vi chủ. Tánh tình cứng cỏi, ít chịu thua kém ai, hễ muốn làm là làm cho được nhưng hay nóng nảy, ít chịu đầu phục nên đôi khi hay quá mức.
Số 1 chỉ cơ động nên dễ thành công và cũng hay thất bại, khó điều hoà, hay thái quá nhưng thường là người có danh giá được đời tôn kính.
Phép toán đến số 1 là chỉ gặp điều lành nhưng không may mắn lắm, mà chỉ một tánh chất có giá trị lâu dài
SỐ 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến, nên Đạo-gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt minh, nhơn đắc nhứt thành”.
Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật, chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh.
Số 1 thuộc bản thể hư-linh sản-xuất nên có quyền thống-trị cả càn-khôn. Cho nên bất cứ ở đâu cũng vậy, số 1 luôn vi-chủ là quyền ấy toàn vẹn, còn nhiều chủ thì sanh phân tán, nên số 1 chỉ một uy-quyền tuyệt-đối. Người mang số 1 là người có đầy đủ đặc-tính can-đảm, ý-chí siêu-việt nên ảnh-hưởng của ngôi Thái-cực hóa sanh”.
Một số lẻ là con số 1, có nghĩa là một vật thẳng thắn, là hình ảnh của một người sống đứng thẳng, bởi vì nó là những con vật được hưởng cái diễm phúc ấy.
Thêm cho nó cái đầu thì nó thành chữ “P” là biểu trương về dương, đực; tượng là Cha, có cái năng lực tạo tác. Như chữ Pháp gọi cha là “Papa”, chữ Anh gọi là Father, người Bắc gọi là “Bố”, người Nam gọi là “Ba”.
Nếu lấy theo chữ Hán thì chữ “Phụ” gọi là Cha, thế nên ngày nay nhân loại kỉnh thờ Đấng Thượng-Đế là “ĐạiTừ-Phụ” (là Đấng Cha lành, Đấng Tạo hoá).
Thông thường người miền Nam gọi đấng sanh thành là “Ba”, một danh từ hết sức cao thượng.
Suy cho kỹ phải hỏi rằng đây chỉ có ngôi “ba”. Vậy ngôi 1 và 2 là ai?. Ở đâu?
Ngày nay Đạo Cao-Đài đã phân rõ:
- Ngôi 1 là Đức Đại-Từ-Phụ là Phật.
- Ngôi 2 là Đức Phật-Mẫu là Pháp.
- Ngôi 3 là Tăng là hàng sanh chúng. Trong gia đình là người Cha của con cái được gọi “Ba” là vậy.
(Xem thêm “Số 3 Huyền diệu”.Cùng Soạn giả).
Số 1 là cái vi Dương khởi thuỷ biến động thành nước. Theo cõi Thần linh thì nước là cõi hỗn độn, tức là cõi mù mù, mịt mịt, minh minh, mông mông.
Tây phương có câu “Tout part de l’unité et retourne à l’unité) nghĩa là việc chi cũng do một mà ra rồi cũng trở về một. Số 1 là số chánh của Thượng-Đế, vì vậy nên Đạo Cao-Đài chỉ thờ “Một Con Mắt” mà thôi. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm trong phép luyện Thần.
Số 1 là ngôi Thượng-Đế. Thông thường gọi là Trời.
TRỜI LÀ AI?
“Thầy là Chúa-tể cả Càn-khôn thế-giái, tức là chủ tể sự vô-vi, nghĩa là chủ-quyền của Đạo, mà hễ chủ quyền của Đạo ngự nơi nào thì là Đạo ở nơi ấy”
Số một thể hiện trong Thể pháp Cao-Đài:
1- Thánh tượng Thiên-nhãn
Đạo Cao-Đài thờ Thiên-nhãn tượng ngôi Thượng Đế tức là một “Con mắt trái”. Bởi vì mắt của người thì có hai, mà mắt trái là ngôi dương, hơn nữa mắt được lấy làm biểu tượng là Thiên Nhãn. Đây phải gọi là “Nhãn” chứ không còn gọi là “Mục”. Nhãn là con Mắt thấu thị. Con mắt thứ ba của người tu, đắc huệ nhãn, tâm nhãn, Thần nhãn, Thánh nhãn, Thiên Nhãn…
Học Dịch cần phải quán-thông các lý lẽ, không chấp lời cũng không chấp từ mà phải nắm vững lý biến hoá của Dịch, là một sự linh-động.
Tuy là nhứt ngũ mà cả tượng là một điểm. Dịch gọi “thiên nhứt sanh thủy” Thủy này không phải là nước mà là thể khí, đó là khí-sanh-quang hóa sanh ra muôn loài vạn vật. Câu này ứng hợp với lời Thầy:
“Khi chưa có chi trong càn khôn Thế-gíơí thì Khí Hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực”.
Số 1 là số đầu tiên; nhưng khởi thủy của các số là ở con số 0 là số không số (nom Nombre) mà ra. Cái gì tuyệt đối là con không số.
Khí Hư vô tức là hư vô bổn thể là con số 0. Từ 0 lại sanh ngôi Thái-cực tức là số 1. Rồi từ đó mới biến-hóa ra.
Nguyên-lý:
Đầu tiên, Khí Hư-Vô tức là Hư Vô chi Khí hay còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí.Tuy nhiều danh gọi khác nhau nhưng cùng là một lý duy nhứt là Đạo.
Khí Hư-vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại-Linh-Quang, cũng gọi là Thái-Cực, hoàn-toàn sáng đẹp, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận, quyền hành thống cả Càn khôn vũ-trụ.
Bắt đầu từ đây Vũ-trụ đã xuất hiện ngôi Thái Cực, duy nhứt và Đấng Thống quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà ngày nay Tín-hữu hân-hạnh được xưng tụng Ngài là Đức Chí Tôn, Ngọc-Đế, hoặc là Đại-Từ-Phụ.
Đức Chí-Tôn đến ban cho nhân loại một nền Đạo mục đích là diệt trừ mê tín, những sự chi có ý mê hoặc nhơn sanh thì không phải là của Thầy. Do vậy mà chỉ có Lý Dịch mới làm sáng danh Đạo Thầy được.
Thầy dạy về ý nghĩa của “Thiên Nhãn” (TNI/112)
NHÃN THỊ CHỦ TÂM . LƯỠNG QUANG CHỦ TỂ
QUANG THỊ THẦN. THẦN THỊ THIÊN. THIÊN GIẢ NGÃ DÃ
眼 是 主 心 兩 光 主 宰
光 是 神 神 是 天 天 者 我 也
Giải nghĩa: Mắt chính là tâm. Hai yến sáng là chúa tể. Yến sáng đó là Thần. Thần là Trời.Trời là Ta vậy (TA tức là tiếng tự xưng của Thượng-Đế).
Bởi vì Đức Thượng Đế có giải rõ:
“Thần là khiếm-khuyết của cơ mầu-nhiệm từ ngày Đạo bị bế, lập “Tam-Kỳ Phổ-Độ” này duy Thầy cho“Thần” hiệp“Tinh Khí” đặng hiệp đủ “Tam Bửu” là cơ mầu-nhiệm đặng siêu-phàm nhập Thánh.
“Các con nhớ nói vì cớ nào thờ con Mắt Thầy cho chư Đạo hữu nghe."
2- Cân công bình của Thiêng-liêng Tạo hóa
Khi bước vào Đền Thánh ngẩng nhìn lên ngạch cửa Tịnh Tâm Đài chánh giữa vầng mây có một bàn tay phải nắm Cán Cân Công-bình là của Đấng Tạo Hóa. Ngài chính là Đức Chí-Tôn Đại-Từ-phụ, thông truyền với chúng sanh rằng Ngài thực hiện mọi sự Công bình. Đòn cân nằm trên quả đất tiêu biểu sự Công bình Bác ái đối cùng vạn loại, kế trên có ngôi Bắc Đẩu thể hình ở trời là chủ tể. Thất Tinh phát xuất thất diệu, sự phổ chiếu để quan sát chúng sanh mọi việc dữ lành cũng như các vị Thiên Thần Ky-Tô-Giáo
Ngôi của trời có Thất Tinh, ở người có thất tình nó biến sinh Thiện và Ác nên đạo trời tượng thể để trước mắt nhơn sanh một Cây cân lớn của tạo hóa kể như mọi việc
lành dữ, hoạ phước đều được cân nhắc rõ-ràng. Kinh rằng “Nhứt toán họa phước lập phân”. Chúng sanh hằng gọi Đức Thượng Đế là Đấng Hồng Quân, hai chữ Hồng Quân có nghĩa là “Cây Cân lớn”. Chớ Đấng toàn năng đó chẳng có hình ảnh bao giờ, nếu có là do những sắc dân nhìn vào sự phân tánh của Trời giáng sinh đến với người vì thương đời, được nhơn sanh ái mộ dựng lên một thần tượng để tâm chiêm ngưỡng, thành ra tư tưởng bất đồng về quan điểm ý thức hệ, vì đó mà buổi Hạ Nguơn trời mở đạo kỳ ba dạy thờ Thiên Nhãn là Thần Thiên lương của nhơn loại để qui nhứt tín ngưỡng ở Thượng Đế trong Hoà-ước cụ thể là Bác-ái và Công-bình.
Cây cân Thiên-bình dưới bàn tay của Thượng-Đế cho ta thấy: nếu khi cả hai bên cân và vật đồng nhau thì cây kim mới chỉ vào điểm 0. Cũng như hai gánh Đạo và Đời mà Ngài sắp giao cho Ông Phạm-Công Tắc cũng phải giữ cho tương-đồng thì mới vẹn phận “Đạo Đời tương đắc” vậy.
Hiện tại Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài lấy biểu hiệu là “Cây cân công-bình” đính trên mão.
 |
|
(H.50) Cây Cân công bình Thiêng liêng Tạo hoá |
Vai trò của Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc tạo Đạo cứu Đời. Bởi vì Đức Hộ-Pháp cho biết:
“Đức Đại-Từ-phụ với lòng Đại-từ Đại-bi của Ngài không thể gì nói đặng. Hai mươi mấy năm trường Ngài đến, Ngài độ từ đứa, Ngài dụ từ người, đem cả một thể thống thiêng-liêng vô cùng vô tận, quí hóa kia đem đổi lại một tấm yêu-ái của chúng ta đặng làm cơ-quan cứu thế.
Buổi Ngài mới đến, Bần-đạo thú thật phần nhiều anh em chúng ta buổi nọ không hiểu Đạo là gì, dầu đàn anh của chúng ta có sứ-mạng nơi mình lãnh trách-nhiệm làm Thánh-Thể cho Ngài, khi ấy cũng không biết Đạo là gì cả, chỉ nhắm mắt theo Ngài mà thôi; chính Bần-Đạo buổi nọ, Đại Từ-Phụ xin Bần-Đạo, nói xin lại với một lời yếu thiết:
- “TẮC! dâng cả mảnh thân con đặng Thầy tạo Đạo cứu đời, con có chịu chăng?
Bần-Đạo trả lời với Ngài một cách quả quyết rằng:
Nòi giống con còn nô-lệ, nước nhà còn lệ thuộc, thì làm thế nào con tu cho đặng !
Ngài cười nói:
Nhưng điều ấy các con làm không đặng đâu, để đó cho Thầy.
Tiếng “để đó cho Thầy” Bần-Đạo nhớ lại nói dễ như không không, mà đã hai mươi mấy năm trường rồi đó. Ngài hứa khi Ngài mới đến cùng Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo cuối năm Tý đó vậy, theo phàm tánh của ta có lẽ buồn, nhưng vì chúng ta sống trong thời-gian, còn Đức Chí-Tôn sống trong không-gian; chúng ta tính từ ngày, tháng, năm; còn Ngài chỉ lấy quyết-định của Ngài làm căn-bản mà thôi. Lời hứa đơn-sơ ấy ngày nay chúng ta đã thấy rằng Ngài không bao giờ thất hứa với chúng ta đó vậy, nếu chúng ta đoán xét kỹ cơ-quan của Ngài đã thi thố, đã giải ách nô-lệ cho nòi giống Việt-Nam, chúng ta ngó thấy một hành tàng khắc-khe khó nói, thi thố với một cách mà trí óc phàm chúng ta không thể đoán đặng và Bần-Đạo nói rằng không có một tay phàm thi thố đặng; muốn giải ách nô-lệ cho nước Việt-Nam mà dùng quyền phép vô biên của Ngài đào-độn cả vạn quốc hoàn-cầu đặng làm cho sôi-nổi một trường chiến-tranh của toàn thế-giới giục-thúc các nước còn lạc-hậu chiến-đấu lấy cho đặng quyền
sở hữu của họ, giành cho được độc-lập cho nòi giống và quốc-gia của họ. Quyền sở-hữu ấy là quyền định sống của họ đó vậy.
Nơi cõi Á-Đông cả toàn thể nước nào còn lạc-hậu đều đặng giải-thoát, đều chiến-đấu đặng tranh độc-lập và thống nhứt.
Nước nhà nòi giống Việt-Nam cũng tấn triển theo khuôn-luật ấy mà định vận-mạng lấy mình, không coi lại sự độc-lập và thống nhứt nước Việt-Nam có nhiều điều khắc-khe mà trí óc phàm này không thế làm đặng nên phải dùng tay của Đức Chí-Tôn, cả con cái của Ngài, Bần-Đạo đứng nơi tòa giảng này không nói thêm, không nói bớt:
- Khó nhứt là nước Việt-Nam,
- Nòi giống Việt-Nam,
- Quốc-gia Việt-Nam.
Đã thiếu Ngài một nợ tình, không biết giá-trị nào nói cho đặng. Thâm tâm của Ngài muốn gieo một nợ tình với quốc-dân, đặng chi? Ta nêu một dấu hỏi (?).
Thêm cho đủ yếu-lý ấy. Bần-đạo nói sự mơ-ước của Ngài rất đơn-giản, rất nhẹ mà giá-trị không cùng, chỉ muốn quốc-dân Việt-Nam làm Thánh-thể của Ngài, thay thế hình ảnh của Ngài đặng chia khổ cho Ngài, chung hiệp cùng Ngài, hầu nâng-đỡ kẻ khổ, an-ủi tâm-hồn nhơn-loại đang đau-đớn trong buổi cạnh tranh giành sống của họ, của cơ-quan tranh-đấu cho kỳ đặng độc lập, đặng bảo-vệ sự sanh sống của họ, nếu không mực thước chuẩn-thằng định tâm-lý của họ, dầu cho đấu-tranh để lập quyền sống của mình ít nữa phải có nhơn-đạo đặng giúp mạng sống của người, chớ đừng bảo-vệ mạng sống của mình để chiếm đoạt mạng sống của kẻ khác.
Tấn-tuồng ấy Bần Đạo chỉ nói là quả kiếp mà thôi. Đức Chí-Tôn Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài cốt yếu làm thế nào cho họ đừng cướp sống lẫn nhau mà an-ủi với nhau ấy là chí-hướng của Ngài đó vậy”
(ĐHP 8-1 Canh-Dần 1950)
Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có được cán Cân công-lý do bởi bàn tay Thượng-Đế
Đức Hộ-Pháp giải rõ: Pháp-Chánh-truyền và Tân luật tức là Thiên-điều tại thế
“Muốn cho xã-hội loài người trong thế-giới này đạt được mức quân-bình tuyệt-đối thì phải có sự công-bình được lập lại bởi cán cân công-lý, mà xã-hội loài người từ xưa đến giờ chưa có công bình thật sự.
Ngày nay Thiên-thơ đã định cho nước Việt-Nam này có được cán cân công-lý do bởi tay Thượng-Đế đến cầm đòn cân định vận-mạng cho Việt-Nam và cả nhân loại.
Cho nên khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phồ-Độ, Đức Chí-Tôn đã lập ngay Pháp-Chánh-truyền và Tân-luật tức là Thiên-điều tại thế để điều-hành guồng máy hành chánh đạo hầu bảo thủ chơn truyền và công-bình Thiên-đạo vì nếu thiếu pháp luật thì còn gì là Đạo nữa.
Ấy vậy, Đức Chí-Tôn lập Tân Pháp là lập chủ quyền cho Đạo. Nếu chúng ta biết Đạo và ý thức rằng pháp-luật là do Thiên-ý và công-lý mà lập ra thì tự nhiên phải tuyệt-đối tôn-trọng chủ quyền đó là tuân-hành qui điều pháp-luật Đại Đạo.
Phạm luật Đạo tức là phạm Thiên-điều, mà phạm Thiên-điều thì tội-tình kia có chi giải nỗi.
Hội-Thánh hiệp nhau lập luật cũng như cả Thập nhị khai thiên lập luật.
Thập nhị khai thiên lập luật giao lại cho Thầy, còn Hội-Thánh lập luật cũng giao lại cho Thầy. Vậy thì Tân luật với Thiên-điều cũng đồng giá-trị.
Dẫu cho Hộ-Pháp phạm luật cũng bị đòi đến Tòa Tam-giáo bên Cửu-Trùng-Đài thì Thiên phẩm mình dường như không có, kể như một người đạo-hữu kia vậy.
Còn Giáo-Tông nếu phạm tội cũng phải bị đòi đến Tòa Hiệp-Thiên-Đài thì cũng chẳng khác một người tín-đồ kia vậy.
Luật Đạo thành ra Thiên-Điều thì Hội Thánh là Ngọc-Hư-Cung tại thế. Hội Thánh hiệp nhau lập luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật lập Thiên điều.
Vậy thì Hội-Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể”.
(ĐHP diễn-văn 14-2 Mậu-Thìn 1928)

►Xem tiếp >>>>>