DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương V:

Đặc tính các con số ứng với Thể-pháp trong nền Đại-Đạo: Từ số 0 đến 7

Số 0 | Số 1 | Số 2 | Số 3 | Số 4 | Số 5 | Số 6 | Số 7

 

Số 3

 

SỐ 3 HUYỀN DIỆU

Nguyên lý:

Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3 (1+ 2)

3 tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở Càn-khôn vũ trụ này.

Số 3 là số nửa tịnh, nửa động, nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật loại thuộc quyền Tăng. Số ấy có đặc tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì chất nóng nảy nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung hòa.

Ba là cơ sở của Tam thể: PHẬT, PHÁP, TĂNG nên nó vừa có năng lực huy động mà cũng vừa có năng lực dung hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy có bản thể cứng rắn, nhiều hoạt động, ít may-mắn, dễ thành nhưng mau bại.

Tuy nhiên con số 3 có tính cách phổ-thông lại mầu nhiệm, huyền-diệu vô cùng.

Số 3 là cơ HOÀ vậy.

1- DANH TỪ AĂÂ

Người Cao-Đài nhận biết con số 3 đầu tiên qua AĂÂ là tá danh của Đức Chí-Tôn Đại-Từ-Phụ.

Đức Hộ-Pháp nói:

“Chúng tôi thật không biết Ông AĂÂ là Đức Chí Tôn chút nào hết, bây giờ hiểu lại, Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ-trụ định thể, ba chấm nói rõ là số 3, Con số thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy”.

Nay cơ tận độ Kỳ ba nên Đức Chí Tôn đến lần đầu tiên với tiền bối chúng ta xưng Thánh danh bằng ba chữ: AĂÂ ám chỉ ngôi thờ Đức Thượng Đế tức là Tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế:

- A là Phật (Bát Quái Đài).

- Ă là Pháp (Hiệp Thiên Đài)

- Â là Tăng (Cửu Trùng Đài)

Ngoài ra, ba chữ AĂÂ về đạo pháp là một triết lý uyên thâm huyền diệu.

- A là chữ đầu của 24 chữ cái tức là Đạo (Phật)

- Ă là dấu Âm như nửa vành trăng là Pháp (Pháp).

- Â là một dấu Dương, chứng tỏ đây là một sản phẩm toàn hảo của Đấng Chủ Tể Càn Khôn là Thế (Tăng)

Trong Kỳ ba Đức Chí-Tôn đến lập Đạo để cứu Đời, nên A là Phật, Ă là Pháp, Â là Tăng, hay :Tinh Khí Thần.

Buổi Tam Kỳ cơ tuần huờn phản tiền vi hậu, Thầy là Phật chủ cả Pháp Tăng, với chơn lý cơ tận độ, Thầy tức Phật là A, nhưng thờ ở sau để đưa cả chúng Tăng là Â trở vào Hư Vô Chi Khí, Ă là Pháp, đó là lời của Đức Chí Tôn xưng với Môn đệ như vậy.

2- Đại-Ân-xá lần ba là gì?

Việt Nam này hân-hạnh được đón nhận trước tiên để rồi thông truyền cho cả thế giới một nền Tân Tôn-giáo với chủ-nghĩa Đại-Đồng để hưởng Cơ Đại-Ân xá lần ba của Đức Thượng-Đế.

Đại-Ân-xá là gì? Tức là một cuộc ân-xá lớn (tiếng Pháp gọi là Troisième Amnistie de Dieu en Orient).

“Mỗi ngươn hội Đức Chí-Tôn với lòng Từ-bi tha thiết thương con cái của Người không nỡ để chìm đắm nơi sông mê bể khổ, nên mỗi ngươn hội Đức Chí-Tôn có mở một kỳ Phổ-Độ để cứu vớt nhơn-sanh và rước các Nguyên nhân tức là nguyên-linh đã xuống trần nay đem trở về ngôi vị cũ.

Như thế thì mỗi Kỳ Phổ-Độ đều có mở một cuộc Ân-xá, mở cửa dễ dàng cho các Đẳng chơn hồn có đủ phương lập vị.

Nền Đạo này là Cơ Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là Đại-Đạo. Vì chủ-nghĩa tối cao của Đại-Đạo chẳng những là QUI TAM-GIÁO HIỆP NGŨ CHI mà thôi, mà phải làm thế nào dầu bậc Đế vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Đạo, phải dò theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới mong trị an thiên hạ đặng.

Vậy mới gọi là HIỆP NHỨT.!

Vậy mới gọi là ĐẠI-ĐẠO!

Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật-Đạo vì gồm hết Tam giáo Nho, Thích, Đạo và Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca”.

3- Tam nguơn của Trời đất:

- Thượng-nguơn là nguơn tạo-hóa ấy là nguơn Thánh-đức, tức là nguơn vô tội (cycle de création c’est-à-dire cycle de l’innocence)

- Trung-nguơn là nguơn Tấn-hóa, ấy là nguơn tranh đấu, tức là nguơn tự diệt (Cycle de progrès ou cycle de lutte et de destruction).

- Hạ-nguơn là nguơn bảo-tồn, ấy là nguơn tái tạo, tức là nguơn qui cổ (cycle de conservation ou cycle de reproduction et de rénovation)

Đạo có ba ngươn chính, mà ngươn Tạo-hóa là Người đã gầy dựng Càn khôn vũ trụ. Vậy khi mới tạo thiên lập địa nhơn-loại sanh ra tánh chất con người rất đỗi hỗn độn, còn đương thuần phát thiên lương, nên chi cứ thuận tùng thiên-lý mà hòa-hiệp dưới trên, tương thân tương ái, thời kỳ ấy người người đều hấp thụ khí Thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh-nhàn khoái lạc mà vui say mùi đạo-đức tháng ngày, bởi cớ đời Thượng-cổ mới có danh là Thượng đức. Thượng ngươn ấy cũng kêu là đời Thượng đức nữa.

Kế đó bước qua Trung-ngươn thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thế đời, thâm nhiễm nhiều nết xấu làm cho xa mất điểm Thiên lương, nên chi nay Đại-Đạo ra đời.

4- Tam-Trấn Oai-nghiêm

Khái niệm:

“Khi lập ra mối Đại-Đạo này lẽ ra phải có đủ Tam giáo: Phật. Tiên. Thánh như hai lần Phổ-Độ trước để thích hợp với trình độ của dân trí, phù hợp với nhân tâm cùng sự tiến hóa vượt bực của nhân loại trong thời kỳ nguyên-tử chuyển này. Chính vì thời buổi thay đổi, Đức Chí-Tôn mới đến lập nền Đại-Đạo chuyển Tam giáo qui nguyên Phục nhứt cho hợp với Thiên-thơ, Đức Chí-Tôn mới chọn ba vị: Phật, Tiên, Thánh cầm quyền Tam-Trấn thay mặt cho Tam giáo giáng cơ lập thành đạo đức.

Ngài lập Tam Trấn Oai-nghiêm thay cho Tam giáo lập Đạo vô-vi, không hình thể như trước, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

TAM TRẤN OAI NGHIÊM là ba vị trấn nhậm với một quyền hành Oai nghiêm. Ba vị này thay thế ba Đấng Giáo-chủ của Thích, Đạo, Nho để phổ độ chúng sanh trong kỳ ba Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn.

Nay bước qua Thượng ngươn Tứ chuyển là ngươn phục cổ nên thuộc về Phật, do vậy mà đại diện của:

- Phật Đạo là Đức Phật Quan-Âm chưởng quản về Phật giáo, quyền Nhứt trấn Oai nghiêm.

- Tiên Đạo là Đức Lý Đại Tiên Chưởng quản Tiên giáo, quyền Nhị Trấn Oai nghiêm.

- Thánh Đạo là Đức Quan Thánh Đế Quân, chưởng quản Thánh giáo, quyền Tam Trấn Oai nghiêm, cũng gọi là Nho-Tông chuyển thế.

Như vậy Tôn chỉ của Tam-kỳ Phổ-Độ là Tam giáo qui nguyên Ngũ chi Phục nhứt. Thế nên không còn có các vị Giáo-chủ làm đầu Tôn-giáo như trước nữa, vì vậy Đức Chí Tôn lập Tam-Trấn Oai-nghiêm thay quyền Phật-vị.

Đây cũng là cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn, Ngài đến xưng là AĂÂ tức là Tam ngôi nhứt thể “Qui các Đạo hữu-hình làm một”.

1/- Tại sao gọi là Tam Trấn Oai-nghiêm?

Tam trấn tức là ba Trấn. Ba Trấn cũng có nghĩa là Tam giáo. Như Nhứt kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ các Đấng ấy giáng thân lập Đạo kêu là Tam giáo. Nay, Đức Chí-Tôn lấy Huyền-diệu lập Đạo mà chấn hưng Tam giáo, lại phải có ba vị thay thế cho: Phật, Tiên, Thánh nên kêu là Tam Trấn có nghĩa là trấn nhậm.

Đấy cũng là Đức Chí-Tôn chọn lựa công quả Chơn thần thiêng liêng của ba vị đương lúc còn ở thế, như:

- Thái-Bạch Kim-Tinh công bình minh chánh.

- Quan-Âm Bồ-Tát tiết hạnh trinh liệt.

- Quan-Thánh Đế-Quân trung can nghĩa khí.

Ngài lập Tam Trấn đặng giao trách nhiệm thế quyền cho đủ số Tam-giáo lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

2/- Quyền-hành Tam Trấn:

“Tam trấn Oai-nghiêm thay quyền Phật vị tại thế này. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng trọn lành của Bát-Quái-Đài” (PCT/19)

…Thầy lập đặng thay mặt cho Thầy nơi Cửu Trùng Đài cầm quyền chánh trị là Phật đó vậy. Cửu Trùng Đài phù hợp với Cửu trùng Thiên thì dầu cho cả Chơn linh trong Càn khôn cũng phải vào nơi đó đoạt cho đặng các phẩm vị giả trạng ấy mới mong mỏi tạo lập Thiên vị mình, chẳng vào cửa Đạo hiệp cùng Cửu-Trùng-Đài thì chẳng đi đường nào mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng”. (Diễn văn ĐHP: 14-2 Mậu-Thìn)

3/- Ba thời kỳ Chí-Tôn mở Đạo:

Vậy thì từ trước đến giờ đã có ba lần mở Đạo:

* Nhứt kỳ Phổ-Độ

Phật-giáo là Nhiên-Đăng Cổ-Phật,

Tiên-giáo là Thái-Thượng Đạo Tổ.

Thánh-giáo là Văn-Tuyên Đế-Quân

* Nhị kỳ Phổ-Độ

- Phật-giáo: Thích-Ca Mâu-Ni

- Tiên-giáo: Thái-Thượng Lão-Quân

- Thánh-giáo: Khổng-Phu-Tử.

* Tam-kỳ Phổ-Độ

Thay Phật-giáo: Quan-Âm Như Lai.

Thay Tiên-giáo: Thái-Bạch Kim-Tinh.

Thay Thánh-giáo Quan-Thánh Đế-Quân

4/- Niệm danh Tam Trấn:

Trong các nghi thức lễ bái, tế tự hay lòng sớ dâng về Thiêng liêng của Đạo Cao-Đài, các Môn-đệ của Đức Chí-Tôn sau khi nguyện lấy dấu: Phật, Pháp, Tăng và niệm danh Thầy, rồi kế đến niệm danh Tam Trấn:

- Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát

- Nam Mô Quan Thế Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

- Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

- Nam Mô Hiệp-Thiên Đại Đế Quan-Thánh Đế-Quân

- Nam Mô chư Phật chư Tiên, Chư Thánh, chư Thần.

Năm câu nguyện trên, ba câu giữa là niệm danh Tam Trấn đủ thấy quyền năng và trách nhiệm của Tam Trấn là trọng đại trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ.Ấy là ba ngôi hiệp cùng Nhị khí Âm Dương thành ra Ngũ Khí đó vậy.

5/- Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn:

Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Thầy dạy:

Trong Tam-Kỳ Phổ-Ðộ và qui Tam-Giáo nầy:

- Phật thì có Quan-Âm.

- Tiên thì có Lý-Thái-Bạch.

- Thánh thì có Quan-Thánh Ðế-Quân khai Ðạo.

“Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng đàn; con phải lập bàn Ngũ-Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa Kim-Quang-Tiên, còn con viết bùa Giáng-Ma-Xử để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc và Sang; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó.

Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn.

Các con nghe Tịch Ðạo, thi:

THANH ÐẠO tam khai thất ức niên,
Thọ như Ðịa huyển thạnh hoà Thiên.
Vô-hư quy phục nhơn-sanh khí,
Tạo vạn cổ đàng chiếu Phật duyên.

THANH là tịch các con."

Đây là Tịch Đạo cho Nam-phái. Ngay trong buổi Giáo-Tông này thì Tịch Đạo cho Nam là chữ THANH

Nhưng vào thời Giáo-Tông kế nữa đây, thì Nam phái sẽ lấy chữ ĐẠO.

Vậy thì theo lời Thầy dạy. Ví dụ Chơn-thần như:

Tương là Thượng-Tương-Thanh,

Kim là Thượng-Kim-Thanh,

Thơ là Thái-Thơ-Thanh.

Phải dùng tên ấy mà thề.

(Nếu như ngày sau đổi Tịch Đạo thì ví như:

Tương là Thượng Tương Đạo

Kim là Thượng-Kim-Đạo

Thơ là Thái-Thơ-Đạo)

6/- Tam Trấn cũng là Tam Bửu: Tinh Khí Thần:

Nay Đức Chí-Tôn lập Tam-Trấn thì:

- Đức Phật Quan-Âm tượng cho Thần, là đức BI.

- Đức Lý Đại-Tiên tượng cho Khí, là đức TRÍ.

- Đức Quan-Thánh tượng cho Tinh, là đức DŨNG.

Ba đức BI. TRÍ. DŨNG chính là Tam bửu mà chính người Môn đệ Cao-Đài học hỏi nơi Tam Trấn rồi dâng lên cho Chí-Tôn, phải có đủ Bi, TRí, Dũng như vậy.

7/- Tại sao thờ Tam Trấn?

- Tại thời kỳ khai Đại Đồng Tam giáo: Nho, Thích, Đạo qui nguyên, Đức Chí-Tôn làm chủ cầm quyền Chưởng pháp cho phù hợp trong buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế. Ba vị Tam Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập luật pháp, Đạo Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ.

Vì thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn nên trong toàn bổn Đạo phải để tâm thành kính và phụng thờ Tam Trấn”.

Thế nên Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí-Tôn lập Tam trấn Oai-Nghiêm thay quyền cho Tam-giáo.

Hết Tam-kỳ Phổ-Độ thì nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-kỳ Phổ-độ nữa sẽ có vị Phật nữa ra đời cầm quyền vi chủ định-luật Càn-khôn. Đó là cơ-quan quản-trị Càn khôn vũ-trụ vậy.

8/- Dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn:

Đức Hộ-Pháp nói:

“Quyền hành của các Ngài trong Tam Trấn Oai Nghiêm có liên quan với cái Lễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy.

Tỷ như một người kia tìm Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt thấy Bông, Rượu, Trà người ta để dấu hỏi, ba món ấy báu lắm hay sao? Báu ấy là báu gì ?

Bần-Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là:

- Thứ nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh, Bông tượng trưng xác thịt.

- Thứ nhì là trí não của ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí, Rượu tượng trưng cho trí não.

- Thứ ba là Trà tượng trưng cho linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới gọi là ba cái báu.

Thật ra chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.

Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác.

Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người, nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.”

9/- Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà:

“Tưởng đâu là gì, thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu của ta đó.

Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là xác thịt, trí não và linh hồn của mình để Ông làm gì? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả lời:

- Chúng ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho, Thích, Đạo, lấy cả tinh thần đạo đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng, rồi lập thêm làm gì Tam Trấn Oai Nghiêm? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta và Tam Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn, sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì cho chúng ta thờ phượng.”

10/- Thánh thể Dâng Tam bửu:

“Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này.

Tại sao? - Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ Khí, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn”.

11/- Tam Trấn Oai Nghiêm trượng trưng ba báu vật ấy:

Đức Hộ-Pháp nói:

a/- Đức Quan Thánh tượng trưng Tinh: tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần. Quả vậy, tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo.

Ấy vậy hôm kỳ Vía của Ngài, Bần-Đạo đã có nói Quan-Thánh, Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông Chuyển thế đó vậy.

b/- Bây giờ nói Đức Lý: tức nhiên Anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo-Tông trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo.

Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Thuộc về Khí.

c/- Đức Quan Thế Âm Bồ Tát: Ngài tượng trưng cho linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh.

Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sứ mạng tối yếu tối trọng ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.!

Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị Đại-hồi này, hay Tiểu-hồi vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong Tiểu-hồi vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong Đại-hồi, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên quỉ vị, phẩm vị riêng biệt là “quỉ vị”.

Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ-Tát không?

Ba cái gương, ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được. “Đức Quan-Âm tượng THẦN.”

Tóm lại:

1- Đức Phật-Quan-Âm tượng cho THẦN, là Nhứt Trấn.

2- Đức Lý Đại-Tiên tượng cho KHÍ, là Nhị Trấn.

3- Đức Quan Thánh Đế tượng cho TINH, là Tam Trấn

Đức Lý là Nhị-Trấn Oai-nghiêm, nhưng trong các lòng Sớ dâng về Thiêng-liêng thì lại nói là “Nhất Trấn Oai nghiêm.”

12- Tại sao Đức Lý lại là Nhứt Trấn Oai nghiêm?

Bởi quyền-uy của Đức Lý là Đấng Đại Tiên trưởng ngoài ra còn là Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ nữa, cũng như Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc chỉ là Hộ-Pháp đứng đầu của cơ quan Hiệp-Thiên-Đài mà thôi, nhưng khi Ngài là Chưởng-quản cả Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thì Ngài là Giáo-chủ của nền Đại-Đạo, bởi khi hai quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế, nhưng chỉ là Giáo-chủ về phần hữu hình, chứ phần Thiêng liêng vẫn là quyền tối thượng của Chí-Tôn đó vậy.

Bấy giờ thì Phật Quan Âm là quyền Nhứt trấn mà khi thi hành thì là Nhị trấn, còn Đức Lý quyền là Nhị Trấn mà hành sự thì là Nhứt Trấn.

Trong quẻ Trạch Lôi Tuỳ tượng trưng Tam Trấn Oai-nghiêm, tức là quẻ Tuỳ hấp thụ đầy-đủ đức tính của Càn Khôn Thiên địa. Hơn nữa Tùy là từ quẻ biến là Thiên Địa Bĩ Thế nên hào Dương quẻ Kiền xuống ở dưới hết của quẻ biến, nên Khôn biến thành Chấn . Hào Âm của Khôn lên đến tận cùng quẻ Kiền , biến thành Đoài .

Như vậy thì các Vị Đại diện của Tam Trấn Oai nghiêm hiện giờ thay quyền Tam-giáo:

- Phật Quan-Âm thay quyền Phật-giáo.

- Đức Lý Đại Tiên thay quyền Tiên giáo.

- Đức Quan Thánh Đế Quân thay Thánh giáo.

Nếu xếp thành quẻ thì:

Nhưng khi hành quyền thì Đức Lý Đại Tiên kiêm thêm chức Giáo-Tông vô vi trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ, do vậy mà Đức Lý hành quyền Nhứt Trấn Oai Nghiêm và Đức Phật Quan Âm hành quyền Nhị Trấn Oai nghiêm.

Vả lại ba Ngài là tượng trưng Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt của nền Đại-Đạo. Quẻ trên biến thành:

Quẻ Tùy kết hợp bởi Đoài trên, Chấn dưới là do sự trao đổi quyền hành của hai vị thay quyền Phật và Tiên vị.Vì vậy mà Đức Lý làm chủ quẻ Chấn, tượng cho Hào Sơ Cửu, tức là con trai trưởng của Thượng-Đế.

Đức Phật Quan-Âm làm chủ quẻ Đoài, là con gái Út của Thượng Đế. Tất cả đều khế hợp với Dịch vậy.

(Xem tiếp quẻ Tuỳ số 17 Quyển Dịch-lý Cao-Đài VI)

5- TAM THÁNH KÝ HÒA-ƯỚC

* Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM: Nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạt Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng-Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.

* Cụ VICTOR HUGO: Nhà thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đệ tử của Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân-Động.

* Cụ TÔN DẬT TIÊN: Đại-cách-mạng-gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch Vân Động.

Ba vị Thánh-nhơn trên đây là Thiên-sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước”

Trên đây là Bức hình “Truyên ký Tượng Tam Thánh” đặt tại Tịnh-Tâm-Đài thuộc phạm vi Hiệp-Thiên Đài của Đền-Thánh Toà-Thánh Tây-ninh. Bên cạnh bức Tượng Tam Thánh, tấm bia này để giải thích về bức tranh.

1/- Tượng Tam Thánh

Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ-Pháp truyền họa, khuôn khổ:

2 m 80 X 1 m 90. Hình tượng bằng người thường.

- Đức Thanh Sơn cầm bút lông thỏ.

- Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng

- Đức Tôn Trung Sơn cầm nghiên mực.

Hai Đấng đang viết trên bia đá chữ Hán và Pháp:

* 8 chữ Hán văn:

Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái - Công bình

天 上 天 下 博 愛 公 平

* 4 chữ Pháp-văn:

DIEU et HUMANITÉ- AMOUR et JUSTICE

(H.56) Tượng Tam Thánh ký Hoà-ước

2/- Đức Hộ-Pháp trấn Thần Tượng Tam Thánh:

Đức Hộ-Pháp nói:

“Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn-linh họ đến phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng-Thiên cho các Chơn-linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay. Quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được. Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa.”

Khi Đức Hộ-Pháp trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp-Thiên-Đài, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền-Thánh.

Đức Hộ-Pháp giải thích: Ba vị:

1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.

2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.

3. Đức Tôn Trung Sơn.

Là đại diện của Hội-Thánh Ngoại-Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài.

Cả 3 vị Thánh đều mặc cổ phục.

Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa.

Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp-Thiên-Đài, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.

Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.

Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.

Kể từ ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp-Thiên-Đài là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo”.

Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày.

Tòa Thánh, ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948)

Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.

3/- Ý-nghĩa Tam Thánh ký Hoà-ước:

Ðức Chúa Jésus-Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy. Bởi Ngài đã ngó thấy:

- Nhứt Kỳ Phổ-Ðộ nhơn loại ký Hòa-ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên-Ðiều, nhân-quả nhơn loại gớm ghiết. Do nhân-quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh-Giáo gọi là “tội Tổ tông”.

- Chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký đệ nhị Hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị Hòa-ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí-Tôn, là Ðại Từ-Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.

Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào?

Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng.

“Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy”.

Thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết, chúng ta thử suy đoán: với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế vật cứu thế như Ðức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường tình kia mà Đức Chí-Tôn phải đền trả đến vô cùng. Nay ngôi vị của Ngài đã hoà nhập cùng Thượng-Đế, tức là đi vào tâm vậy.

4/- Tam Thánh đứng đầu Bạch Vân Động: Bạch Vân Động là gì?

1- Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ: Ngài giáng trần ở Việt-Nam là Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491-1585).

2- Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn: Ngài giáng trần tại nước Pháp là Đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).

3- Đức Trung Sơn Chơn nhơn: Ngài giáng trần ở Trung Hoa là nhà Cách mạng Tôn Dật Tiên, tức là Tôn Văn (1866-1925)

Ba vị Thánh kể trên.là Người của Bạch Vân Động

BẠCH VÂN ĐỘNG là gì?

Đức Hộ-Pháp giải thích về Bạch Vân Động :

“Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.

Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động). Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch-Vân Hòa-Thượng, miêu duệ của Từ-Hàng Đạo-Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan-Âm. Bạch Vân Hòa Thượng đã hai lần giáng trần ở Pháp và một lần ở Việt-Nam.

- Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu,

- Một lần là Quận Công La Roche Foucault.

- Ở Việt-Nam, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi Trạng Trình”.

5/- Luật Bác-ái và pháp Công-bình

Đức Hộ-Pháp nói trong con đường Thiêng Liêng Hằng Sống:

“Nếu như các Ngài còn chối cải, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi là con đường Tín-ngưỡng Trời và Người đặng dìu dắt nhơn-loại trong Luật Thương-yêu và Pháp Công-chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng.

Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện. Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký kết với nhơn loại bản Hòa-ước thứ ba.

Hai Hòa-ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng Bác-ái Từ-bi Chí-Tôn đến ký Hòa-ước thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ tấm Tượng Tam-Thánh biểu nhơn loại tín-ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có Bác-ái, Pháp có Công-bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội-Thánh Ðạo Cao-Ðài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác-ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là Pháp Công-bình.

Luật pháp của Ðạo Cao Ðài, ngoài ra luật Bác-ái và pháp Công-bình, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.”

6/- Đức Chí Tôn muốn dành để cho họ phẩm vị gì? Và phận sự của họ phải làm gì?

"Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn loại tiềm tàng khảo cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh thần của con người, dầu ai có muốn chối cái tinh thần ấy là chủ quyền cái sống của họ cũng không được. Tại sao? Tại họ đã thọ lãnh cái điểm linh về tinh thần của họ nơi Đấng Tối-linh kia. Đấng Tối-linh ấy ban cho họ, muốn cho nhơn-loại từ từ đi từ phẩm-vị con người đạt cho đến quyền năng, đạt cho tới cái địa vị làm Trời hữu hình tại thế này đó vậy.

Ngày giờ nào không lấy Luật Thương-yêu thiên nhiên của Đức Chí-Tôn để trong tâm não của họ, thì họ chưa hề có can đảm làm phận sự tôi tớ của họ mà phụng sự nhơn loại một cách đắc lực, một cách vui vẻ, một cách hữu hạnh, hữu phước, một cách làm cho mình có thể chung lại với nhau đặng hưởng hòa bình yêu ái của toàn nhơn loại nơi mặt địa cầu này.

Muốn làm Chúa thời phải thiệt hiện Hòa-bình tâm lý trước đã và Hòa-bình hình chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương-yêu của Đức Chí-Tôn để nơi tâm khảm của chúng ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi”.

7- Thầy là Cha của sự thương-yêu:

Đức Chí-Tôn có dạy:

“Thầy thường nói với các con rằng: Thầy là Cha của sự thương-yêu, do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành thế-giới và sanh dưỡng các con.

“Vậy thì các con sản-xuất nơi sự thương-yêu. Đã sản-xuất nơi sự thương-yêu, các con tức là cơ thể của sự thương-yêu.” (xem thêm “Số 3 Huyền diệu”cùng Soạn giả)

Đức Chí-Tôn thể hiện đức thương yêu ấy đối cùng vạn linh, là các vật trang trí trong cửa Đạo ngày nay ngoài việc làm tăng mỹ thuật mà còn là thể hiện cơ Đại ân xá của Chí-Tôn nữa. Rồng là con vật đứng đầu hết, nên các giống thú cũng phải nương theo Tứ linh này chuyển-hóa để thăng tiến. Nay Cao-Đài Đại-Đạo mở ra là để cho các chơn-hồn tiến-hóa, tức là kể cả vật-chất, thảo mộc, thú cầm, nhơn loại gọi chung là chúng-sanh và bốn phẩm-cấp cao hơn là Thần, Thánh, Tiên, Phật, gồm chung là Bát phẩm chơn hồn vậy.

Chấn tượng Rồng (chấn vi long). Rồng là con vật linh, đứng đầu trong Tứ linh: Long, Lân, Qui, phụng. Con vật linh ấy khi dấy lên để rồi sẽ được yên-tĩnh, nghỉ-ngơi, từ dưới chỗ âm-u thì rồng dậy. Nay là Cơ Đại-ân-Xá của Chí-Tôn nên mở rộng cửa cho vạn linh đoạt vị, do đó mà Tứ linh là bốn giống thú linh cũng được dự vào cơ Đại-Ân xá này và tất cả đều hả miệng, chính là cơ phổ độ vậy.

- Đạo-pháp: nhắc về khi làm 7 cái ngai cho các Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài Thầy cũng bảo chạm Tứ linh, nhưng ngai của Giáo-Tông “chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng” ấy là lý âm dương biến hóa vô cùng.

Theo lý vạn-vật xuất ra ở cung Chấn là nơi huy động đầu tiên sinh ra muôn vật. Từ đó người Á-Đông ta cảm nhận lý biến-hóa của vũ-trụ nên lấy vật Tổ là Rồng để biểu-dương một tinh-thần bất-khuất của dân-tộc-tính. Từ xưa đến giờ đều tự-hào là “con Rồng cháu Tiên”. Ngay trong Đền-Thánh cũng đều trang-trí hình ảnh Tứ linh, nhiều nhất là Rồng đủ màu sắc và là rồng hả miệng để nói lên thời kỳ Phổ-độ chúng-sanh trong kỳ ba đại-ân-xá, tận độ chúng-sanh qui nguyên-vị

8- Lý Dịch trong tượng Tam Thánh:

Ba vị Thánh hiệp thành số 3 tròn đầy, tức nhiên đủ

Tinh Khí Thần hiệp nhứt. Vả lại ba người là đại diện của các nước: Pháp (Victor-Hugo), Trung-Hoa (Tôn Dật Tiên) Việt-Nam (Trạng-Trình), nhưng Đức Trạng-Trình lại là Sư phó của Bạch-Vân-Động, tức nhiên là Thầy của hai vị kia. Đúng như lời Đức Chí-Tôn đã nói là:

Một nước nhỏ-nhoi trong vạn quốc,
Ngày sau làm Chủ mới là kỳ.

Thấy rõ mối Đạo này là của nhân loại tức là Tôn Gíao Đại-Đồng, đi từ: Đại-đồng nhân chủng, Đại-Đồng xã hội đến Đại-Đồng tư tưởng.

Về mặt Thiên Thơ, Việt-Nam làm Thầy của Vạn quốc rồi vậy, cũng là luật Công bình của Đức Chí-Tôn đã thể hiện trong thời buổi này giữa người và người. Xưa Việt-Nam chịu sự đô hộ Tàu hàng ngàn năm, nô-lệ Tây 81 năm, ngày nay Việt-Nam được nhận mối Đạo Trời để làm khởi điểm cho nền văn-minh tinh thần của toàn nhân-loại, của thời-đại nguyên-tử-chuyển này trong luật Bác-ái và phép Công bình. Hơn nữa Thầy còn ban ân huệ đến toàn vạn linh, tức nhiên vạn loại cũng được hưởng công bình ấy

Trên tượng Tam Thánh Đức Victor-Hugo tay cầm lông ngỗng (chỉ loài chim) viết lên 4 chữ Pháp: DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE. Bốn chữ nói lên Tứ tượng là chỉ văn minh vật chất, đến giờ này phải biến hoá, nghĩa là phải biết thương yêu loài vật như Thượng cầm, cả đến việc không ăn thịt chúng nữa, chúng là bạn đồng sanh.

Đức Trạng-Trình tay cầm bút lông (lông thỏ hoặc lông mèo) chỉ hạ thú, viết lên tám chữ Nho là chỉ văn minh tinh thần đã đến Bát-quái rồi. Tám chữ ấy là:

Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái - Công bình.

天 上 天 下 博 愛 公 平

Để thể hiện đức hiếu sanh của Trời bấy nhiêu hình ảnh ấy nói lên ý-nghĩa là người phải Công bình và Bác-ái cả với loài thượng cầm và hạ thú. Kinh sám hối nói:

Thượng cầm, hạ thú lao xao,
Côn trùng, thảo mộc loài nào chẳng linh?
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi,
Bền công Kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt-thòi rất oan…

Nay là thời kỳ tất cả phải được tiến hoá trong khuôn luật Công bình ấy nên chúng nó đã tự giải thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt của người lúc nào cũng kề cổ, nồi nước sôi và khỏi chịu nồi da nấu thịt nữa. Cái cảnh “Dịch bệnh” là phương giải thoát để loài vật sớm được tiến hoá.

Lại nữa “Vật dưỡng nhơn” đã chấm dứt, tức nhiên nhân loại đã cơ-giới-hoá trong nông nghiệp, không còn phải cày bừa, kéo xe như ngày nào nữa. Do vậy mà bò trâu cũng chết vì lỡ mồm long móng, ấy là sự tự giải thoát.

Còn về kích thước khung hình là 2m80x1m90. Nếu cộng các số ấy lại có tổng số là 10 (2+8=10) và (1+9=10) Mười là con số tượng trưng thập Thiên can. Còn hai chữ số của chữ Nho và chữ Pháp hiệp lại là 12, tức là số Thập Nhị địa chi. Trong một bản như vậy có đủ Thập Thiên can và Thập Nhị địa chi cũng đã rõ sự biến-hoá rồi.

Như thế mỗi mỗi hình ảnh trong cửa Đại-Đạo là một Bát-quái có liên hệ và ăn khớp nhau như tế bào trong cơ thể đó là tinh thần nhứt quán trong lý Đạo đó vậy.

Lại nữa Đức Tôn Văn trên tay cầm nghiên mực toả hào quang sáng chói là nói lên tinh thần của Đạo Cao-Đài ngày nay lấy nền tảng là NHO TÔNG CHUYỂN THẾ.

►Xem tiếp  >>>>>

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009