DỊCH LÝ CAO ĐÀI

Chương V:

Đặc tính các con số ứng với Thể-pháp trong nền Đại-Đạo: Từ số 0 đến 7

Số 0 | Số 1 | Số 2 | Số 3 | Số 4 | Số 5 | Số 6 | Số 7

 

Số 7

 

SỐ 7

Số 7 là số ngưng kết do 1+2+4

Tức là Thái-cực cộng Lưõng-nghi và Tứ tượng.

Thái-cực là dương,Lưỡng-nghi là cơ biến tướng, tứ tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và cơ sanh hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động; có nghĩa là trong trạng-thái yên-tĩnh ngừng nghỉ. Nên nó cũng ám chỉ vào thể âm.

Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu.

Số 7 ấy tức là 3 ngôi cọng 4 biến; hay là 1+2+1+2+1 nên vô cực là vi-chủ.

Số 7 cũng là thành số của (2+2+2)+1, hoặc 3+3+1=7 như vậy Thái cực cũng vi chủ.

Người hoàn toàn là một Tứ nguyên-tố cùng một tam nguyên tố kết hợp. Nghĩa là 4 thể chất và 3 thể khí. Tức nhiên là (3+4). Ba là tượng cho ba thể chất: không khí, nước và đất và 4 thể chất là: Kim, Mộc, Thủy, Thổ.

Người ta quyết đoán rằng không có một thể lục giác nào mà không có số thứ 7 làm trung tâm điểm. Số 7 có đủ tính chất như số 1 đầu, tức là số của các số. Vì số 1 không gì có thể tạo ra nó, thì số 7 cũng không có một số nào ở trong thập tuần có thể sanh ra nó.

“Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nữa nhứt điểm tinh thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.

BẢY PHẨM CẤP KHÔNG ĐỔI

Đức Lý có dạy rằng:

Đại hỉ! Đại hỉ!

“ Cười…Lão cũng nên cắt nghĩa phẩm vị của Chư Hiền-Hữu: Tỷ như ngôi của Thượng Đầu-sư, Ngọc Đầu sư, Thái Đầu-sư, Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng Sanh hay là Giáo-Tông của Lão đi nữa, dầu ngày sau có nhượng cho ai, thì họ ngồi địa vị của mình, chớ chẳng hề ở thế này có hai Thái-Bạch, hai Thượng-Trung-Nhựt, hai Ngọc-Lịch Nguyệt, hai Thái Nương Tinh, hai Hộ-Pháp, hai Thượng Phẩm, hai Thượng-Sanh bao giờ. Hiểu à!?” (TNII/49 ngày 19-3 Mậu-Thìn 1928)

 

1- Đây: Lò luyện nguyên tử của Cao-Đài:

Lời giáng truyền trên là một sự khẳng định của Đức Lý Giáo-Tông cho biết quyền hành của các Đấng tiền bối này là người mà Đức Chí-Tôn đã chọn để thay thân cho Đức Ngài làm nồng cốt, điều hành nền Đại-Đạo Cao-Đài từ hữu hình cho đến vô vi trong một viễn trình bảy trăm ngàn năm, chứ không chỉ riêng ở một giai đoạn thời gian các Ngài còn sanh tiền ở đây mà thôi. Vì tính cách quan trọng của con số 7 không thể thiếu trong cửa Đạo Cao-Đài, ví như thất tình của con người được tu luyện thuần thục đã biến thành Thất bửu vậy.

Bảy nhân vật đây là tượng trưng cho cái sống vĩnh cữu, là bảy Thái cực của nền Đại-Đạo, như nguyên-tử được tách rời ra. Nhưng đây chỉ là yếu tố về NHÂN mà thôi. Đồng thời tìm đến các yếu tố về THIÊN và ĐỊA nữa.

1/- Về cơ Nhân.

Đức Lý Đại Tiên nhấn mạnh rằng:

…Chẳng hề ở thế này có hai Thái-Bạch, hai Thượng Trung Nhựt, hai Ngọc-Lịch Nguyệt, hai Thái Nương Tinh, hai Hộ-Pháp, hai Thượng Phẩm, hai Thượng-Sanh bao giờ. Hiểu à!?

Tức nhiên mỗi vị được chọn lựa đây là duy tinh duy nhứt, như một nguyên-tử được tách rời ra vậy.

Các yếu tố ấy được vẽ thành hình như trên đây:

Tất cả có 7 vị ứng với 7 vòng tròn, đứng vào 7 Thái cực,tạo thành hai tam giác đều đặt nghịch chiều nhau. Tam giác đỉnh quay lên thuộc về Đạo là ba vị Hiệp-Thiên Đài:

- Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư

- Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang

- Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc; mà Hộ-Pháp đặt vào đỉnh cao. Bởi ngoài quyền Chưởng quản chi Pháp, Ngài còn là Chưởng-quản cả Hiệp-Thiên-Đài nữa.

Tam giác có đỉnh quay về phía dưới thuộc về Đời, tức là cơ quan Cửu Trùng Đài là có 3 vị Đầu-sư:

- Thái Đầu-Sư Thái Nương Tinh

- Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt.

- Ngọc Đầu-Sư Ngọc-Lịch nguyệt

Chỉ duy ba vị Đầu-Sư này có mang Tam bửu của Trời là Nhựt, Nguyệt, Tinh mà thôi..

Theo như lời dạy của Đức Lý Giáo-Tông là Giáo Tông vô vi, thì trong cửa Đạo có hai Đài hữu hình thì:

* Cửu Trùng Đài là quẻ Khảm bởi:

Tinh có hai vị là: Thái-Minh Tinh bị Đức Lý cách chức, sau mới phong cho ông Thái Nương Tinh. Chữ Thái là đứng đầu có hai (số 2 thuộc Âm )

- TINH là sao có hai vị là Âm (tượng nét đứt)

.

- NHỰT là mặt trời là Dương (tượng nét liền)

- NGUYỆT là mặt trăng là Âm (tượng nét đứt)

. Theo thứ tự thì Thái (phái Phật) đứng trước.

. Thượng (phái Tiên), đứng giữa là sự trung chính.

. Ngọc là (phái Thánh), sau cùng.

Trong Cửu trùng Đài chỉ có một Dương-điện-tử là người mang chữ NHỰT tức là Thượng Đầu sư Thượng Trung Nhựt cũng là Quyền Giáo-Tông đó vậy (vì kiêm hai chức phẩm)

* Hiệp-Thiên-Đài thì có ba vị thuộc về ĐẠO:

- Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888)

- Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân-sửu (1901)

- Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890)

Như vậy Hiệp-Thiên Đài theo thứ tự là quẻ LY:

- Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh Cư

.

- Thượng-Sanh Cao Hoài Sang

- Hộ-Pháp Phạm Công Tắc

Bởi ba vị này là ba vị Đệ-tử đầu tiên được Đức Chí Tôn chọn lựa cho xuống trước để đúng ngày giờ Ngài mới qui tụ lại, Ngài dùng “Lương sanh để cứu vớt quần sanh”.

Ba vị là Tam đầu chế Hiệp-Thiên Đài có tuổi lần lượt là Tý, Sửu, Dần, tức nhiên là Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Xin xem lại Dịch-lý Cao Đài I để thấy tính cách quan trọng của các Địa chi ấy.

* Hiệp-Thiên-Đài là quẻ Ly

Xem như đây là một tế bào của Đại-Đạo hay nói theo khoa học thì đây là một phân tử có đủ ba thành phần:

Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang là hào Âm, nằm trong thời-kỳ khởi thuỷ của Đạo-Cao-Đài.

- Hộ-Pháp nắm chi Pháp vừa là Chưởng quản Hiệp Thiên-đài là một Dương điện tử (Proton)

- Thượng-Sanh nắm chi Thế là một Âm điện tử (Électron)

- Thượng-Phẩm nắm chi Đạo là một Trung hoà tử (Neutron)

* Về Cửu Trùng Đài là quẻ Khảm

Theo thứ tự của Cửu Trùng-Đài là Thái, Thượng, Ngọc, thì phái Thái là Âm, phái Thượng là Dương, phái Ngọc là Âm. Cửu trùng Đài đã đủ tính chất trong sáng của Nhựt, Nguyệt, Tinh là Tam bửu của trời ở thời khởi thuỷ. Cơ quan này cũng đủ tính chất của một tế bào hay là một phân tử, vậy:

- Thái Nương Tinh là Âm điện tử (Électron)

- Thượng Trung Nhựt là Dương điện tử (Proton)

- Ngọc Lịch Nguyệt là Âm điện tử (Électron).

Nay qua thời kỳ kiến tạo thì xem như thời-kỳ công quả của nhơn sanh chính là thời-kỳ mà Chí-Tôn chiết khảm điền Ly phản vị Càn bằng sự dâng công đổi vị.

Đây là hình ảnh của quẻ Càn thành hình:

- Hộ-Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên-Đài

▬▬.

- Thượng Trung Nhựt Giáo-Tông Đại-Đạo

▬▬

- Thượng-Phẩm Chưởng quản chi Đạo

▬▬

Người Tín hữu Cao-Đài nhìn vào đây mà lập công cùng Đức Chí-Tôn trong phép Tam lập là lập đức, lập công, lập ngôn như ba vị trên đây, chắc chắn sẽ về được với Đức Chí-Tôn là hoàn thành được ba nét Dương đó.

Riêng bảy Đấng Thiên mạng của Chí-Tôn là hai cơ quan Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thì sáu vị là Tam Âm tam Dương biểu tượng cho hai phân tử tròn đầy. Riêng Đức Lý Giáo-Tông là vai trò trung lập (Neutron)

- Khi phối hợp với Quyền Giáo-Tông là đủ âm dương.

- Khi phối hợp với Hộ-Pháp là quyền Chí-Tôn tại thế.

Do vậy mà công thức mới sẽ thành hình:

- Hộ-Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên-Đài

▬▬.

- Lý Giáo-Tông là Giáo-Tông vô vi

▬▬

- Thượng Trung Nhựt Qu.Giáo-Tông ĐĐ.

▬▬

Đây là cơ NHÂN đã thành hình

Kết luận:

Vì tính cách quan trọng và cần yếu như vừa phân tích trên thì 7 phẩm cấp này không bao giờ thay đổi, mà nhất là khi ba vị: Hộ-Pháp, Lý-Giáo-Tông, Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt phối hợp lại là QUYỀN CHÍ TÔN TẠI THẾ biểu tượng là một khối nguyên-tử, tức là ba Dương-điện-tử đã tinh luyện đến một mức độ cao không gì có thể phân tách ra được. Vì lẽ đó mà Đức Lý mới nói …Chẳng hề ở thế này có hai Thái-Bạch, hai Thượng-Trung Nhựt, hai Ngọc-Lịch Nguyệt, hai Thái Nương Tinh, hai Hộ-Pháp, hai Thượng Phẩm, hai Thượng-Sanh bao giờ.

Xem như Đức Chí-Tôn đã chọn lựa các Đấng có đủ công quả chơn thần để tạo Đạo cứu Đời trong ngươn hội này không khác gì Chí-Tôn đã chọn lựa các nguyên tử gốc mà các Bác-học-gia đã gia công tinh luyện nguyên-tử vậy. Nhưng nguyên tử của thời-đại này là nguyên tử đe doạ Hoà bình, còn Nguyên-tử của Chí-Tôn mới thật sự là nguyên tử phụng sự Hoà bình cho cả nhân loại vậy.

2/- Về cơ Địa:

Xét về Đền-Thánh này có dạng chữ Sơn 山 mà người là Nhơn 人 đến đây thành tâm bái lạy, cúng kính hoá ra chữ Tiên 仙 (Sơn nhơn hiệp lại là chữ Tiên) cho biết người Đạo Cao-Đài hằng ngày đến cúng tại Toà Thánh là luyện phép tu Tiên. Đền Thánh là một Thiền đường như vậy thì không còn duyên cớ gì mà chúng ta phải chạy “đi tìm pháp trường sanh” nữa!

Theo như trước đây Dịch lý I có nói rõ ba Đài tượng trưng Tinh Khí Thần có dạng thức như sau đây:

- Bát-Quái-Đài thuộc quẻ CÀN

- Hiệp Thiên Đài thuộc quẻ LY

- Cửu Trùng Đài thuộc quẻ KHẢM

Nói lại việc Chí-Tôn chiết Khảm điền Ly cách nào?

Nhìn ba Đài trên có ba quẻ tương ứng tức là tuần tự Càn, Ly, Khảm: Càn có ba nét liền, Ly ở giữa là nét đứt, Khảm ở giữa có một nét liền. Nếu đem nét liền của Khảm thay vào nét đứt của Ly thành ra quẻ Càn. Khi kiến tạo Đền Thánh lẽ ra sự sắp xếp cũng theo thứ tự trên, nghĩa là:

- Bát-Quái-Đài ở trên cùng tượng cho THẦN

- Kế là Hiệp-Thiên-Đài tượng cho KHÍ,

- Sau cùng Cửu-Trùng-Đài tượng cho TINH.

Nhưng Đức Chí-Tôn lại sắp đặt hai Đài hữu hình này nằm theo lối chiết Khảm điền Ly phản vị Càn. Tức nhiên Ngài cho Cửu Trùng Đài ở giữa, Hiệp-Thiên-Đài ở ngoài. Xem như Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt quẻ Khảm lên quẻ Ly để tất cả thành quẻ CÀN. Đó là về hình thể của Đền Thánh.

Người Tín hữu ngồi trong lòng Đền-Thánh cúng kính tức là ngồi trên một huyền-linh-pháp mà Chí-Tôn đã đặt định:

Xưa nay người tu Tiên luyện pháp trường sanh là cốt ý luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần, luyện Thần hườn Hư, luyện Hư hườn Vô.

Nhưng trước nhất là làm công việc “chiết Khảm điền Ly phản vị Càn”. Thì hôm nay đây chính Thượng-Đế đã Chiết khảm điền Ly để cho nhơn sanh bớt được thời gian khổ công tu luyện, thay vào đó người Tín hữu Cao Đài chỉ có mỗi môt tinh thần Hiến dâng và Phụng-sự theo tinh thần NHÂN NGHĨA.cho Đức Chí-Tôn mà thôi

Hiến dâng là qua Tứ thời nhựt tụng cầu nguyện là dâng Tam bửu Ngũ-nguyện để tạo một đức tin tuyệt đối.

Phụng sự Đức Chí-Tôn chính là phụng sự cho Vạn linh, hay nói khác đi phụng sự vạn linh là phụng sự cho Chí-linh đó vậy.

3/- Về cơ Thiên:

Quyền năng luyện phép tu Tiên thì có những bước chuẩn bị của Thượng Đế là Ngài trấn Thần trên tượng Ngũ Chi có bảy vị tức nhiên Tam Trấn, Tam giáo, Ngũ chi là quẻ Thuần Càn mà Gia-Tô Giáo-chủ lại đứng vào Tâm của vòng tròn, tượng cho Thượng-Đế (xem hình trang 61).

Tức nhiên:

Tam giáo là: Phật Thích Ca, Đức thái Thượng, Đức Khổng Thánh là một tam giác đỉnh quay lên.

Tam Trấn: Đức Phật Quan Âm, Đức Lý Đại Tiên, Đức Quan Thánh hiệp thành một tam giác cũng có đỉnh quay lên, đây là quẻ Thuần Càn, Càn vi Thiên, là Trời.

Các Đấng đây là những vị đã qua một thời gian tu luyện nay đã thành Tiên tác Phật rồi là thuần Dương.

Tóm lại: Mỗi mỗi một hình thức trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay đều đi vào qui tắc, luật lệ rõ-rệt, nhịp nhàng như những nguyên tử mà khoa học đang thành hình với mục đích “Nguyên tử phụng-sự Hoà-bình”. Nhưng nguyên tử bên ngoài hầu như nhân loại đang hoảng hốt nhiều hơn.

Như vậy Đức chí-Tôn đã làm cho tất cả đều là Thuần Dương, tức nhiên mỗi mỗi đều có sự sống vĩnh cữu

Vừa qua hai trái bom của Mỹ ném xuống hai thành phố Nhựt bản vẫn còn làm bàng hoàng, chẳng những cho dân Nhựt mà còn làm chấn động cả thế giới loài người nữa. Theo thống kê chính thức thì sự tổn thất vô cùng khốc hại như sau đây:

2- Tác hại của hai quả bom nguyên-tử ở Nhật:

* Trái bom đầu tiên ném xuống Hiroshima (Quảng Đảo) ngày 6 tháng 8 năm 1945:

- Số người chết liền tại chỗ: 60.000 người.

- Số người bị thương: 100.000 người.

- Số người không có nhà ở: 200.000 người

* Trái bom thứ nhì cách ba ngày sau: 9-8-1945, ném xuống Nagasaki (Tỉnh Trường-kỳ) gây thiệt hại:

- Số người chết trên 10.000 người

- Số người bị thương trên 20.000 người

- Số người không nhà ở trên 90.000 người.

Bom nguyên-tử khi ném cách trên mặt đất ước chừng 800 thước, máy bay ném bom phải bay ngay. Sau khi ném trái bom xuống chừng độ 100 giây thì bom nổ. Những người mục kích sự tàn phá nói rằng: sức nổ mãnh liệt của bom trong độ 2 giây đồng hồ, những nhiệt tuyến cháy mạnh phóng ra bốn phương. Trong lúc đó không có cái gì có thể ngăn cản, áp lực của nguyên tử không thể tưởng tượng được.

Những luồng chớp lửa và áp lực của nó đến đâu là tàn phá đến đấy bằng một cách mãnh liệt.

Một khi bom đã nổ cái áp lực của nó bắn tung ra và theo không khí làm môi giới và sự tung hoành như vậy thì những vật trên mặt đất làm sao có thể tránh được.

Trái bom ném ở Hiroshima có một hiệu lực như:

Khi ném xuống độ 2 giây thì nổ rất mãnh liệt, lửa tung ra đốt cháy nhà cửa. Sau thời gian 5, 10 phút áp lực của nó làm sập đổ những cơ-sở kiến trúc trong đường bán kính là 15 ngàn cây số. Sau ít phút thì bầu trời âm-u như mưa đen tối. Lúc trời sáng ra thì tưởng như là nguyên-tử hoá tất cả làm thành một cõi toàn bằng chất lỏng (sức nóng đến nỗi làm chảy cả xương thịt biến thành chất lỏng hết).

Đương lúc bom nổ thì tỉnh Hiroshima như bay cả lên không trung.Vừa chất đen âm-u, vừa khói trắng lẫn lộn nhau lên cao ước chừng 12 cây số ngàn. Trên đây là sự báo-cáo độ một phần về sự nguy hiểm của nguyên-tử chứ thực tế sự tàn phá kéo theo thời gian do nhiễm phóng xạ làm mù mắt và còn ảnh hưởng đến thai nhi về sau khó mà diễn tả hết được.

Điều chính yếu là làm sao để tránh nguyên-tử giết người và liệu Thế chiến thứ ba có thể tránh khỏi không? Đó là những điều mà chúng ta cũng nên dành chút thời gian để lạm bàn sơ qua về nguyên-tử.

1/- Thuyết nguyên-tử:

Theo thuyết “Thiên-địa vạn-vật đồng nhất thể” Nguyên-tử nói theo Triết-học là những trái cầu nhỏ bé vô cùng, nó là những vật liệu căn-bản vô cùng nhỏ để cấu tạo thành các phân tử, rồi phân tử thành tế-bào, các vật trong trời đất. Xưa kia các nhà Triết-học đưa ra một ý-tưởng là các vật tuy bề ngoài khác nhau, chỉ là bởi do sự cấu hợp khác nhau của Nguyên-tử.

Các nhà Bác học đã phân tách nguyên-tử ra nhiều tiểu nguyên-tử tức là điện-khí đó vậy. Điện tử chia ra làm hai loại: 1) Dương điện-tử. 2) Âm điện-tử.

Âm điện-tử là một nguyên-liệu để hợp thành thể chất, đó là những trái cầu nhỏ vô-cùng, phải có 2.000 âm điên-tử mới cân nặng bằng nguyên-tử của khinh-khí.

Mọi vật thể đều ở trong trạng thái bình thường là do sự hoà-hợp chặc-chẽ của nguyên-lý âm dương khó mà tách rời nhau được. Nhưng dưới sức mạnh của luồng Quang tuyến Alpha, các nguyên-tử vỡ tan và có thể phát ra một vật nặng gọi là dương điện-tử.

Dương điện-tử có thể phân-tách riêng biệt ra được bằng một áp-lực mãnh-liệt làm cho nguyên-tử phải nổ tan tành làm biến-cải ghê-gớm các nguyên-tử. Cho nên lúc bom nguyên-tử nổ, Dương điện-tử tung-toé ra theo không khí mà biến-cải các vật từ đơn chất này thành ra đơn chất khác bằng một cách mau chóng và mãnh-liệt.

NHÂN CỦA NGUYÊN-TỬ:

Theo các nhà Bác-học thí-nghiệm thì trong trung tâm của nguyên-tử có một cái nhân gọi là điện-hạch rất bé nhỏ giống hình một trái cầu tròn là phải có 10-13 lần đường kính của nó mới thành một phân tây (cm). Cái điện hạch đó là dương điện có tánh chất đẩy bật quang tuyến Alpha mà các nhà Bác-học dùng để phá nguyên-tử. Vì lẽ đó sự phân-tách dương điện-tử là một cách rất phức-tạp, khó khăn và đắc-đỏ. Sau nhiều cuộc thí-nghiệm đã tìm ra số dương điện-tử hợp thành điện-hạch, số đó là một nguyên bội-số của số âm điện-tử chạy chung-quanh.

Điện-hạch thành bởi những dương điện-tử, mà Dương điên-tử lại phân ra có Proton và Neutron.

Proton là dương điện tử toàn chất dương và Neutron là một thứ cũng nặng bằng Proton mà không có một chút điện nào, nó ví như những con đệm để hoà, ta gọi nó là trung-hoà-tử là neutron vậy.

Dương và âm điện-tử mà bật ra cũng bởi ảnh hưởng quang-tuyến Alpha, khi neutron mất một âm điện-tử thì thành ra dương điện-tử.

LỚP NGOÀI CỦA NGUYÊN-TỬ:

Âm điên-tử là những trái cầu nhỏ li-ti chạy chung quanh điện-hạch, tức là những Électron tuy nó không quan trọng bằng dương điên-tử, nhưng cũng nhờ nó mà các nguyên-tử có tính cách hoá-học hay lý-hoc khác nhau; nó có tính cách bồi thêm cho những nguyên-tử bị mất âm điện-tử trong khi nó quay thật nhanh chung quanh điện hạch và nhờ có cái tính âm mềm và thuận-theo của nó, cho nên các nguyên-tử có thể phối-hợp với nhau thành phân tử và phân-tử cũng nhờ sự giao-chuyển nhanh của nguyên-tử mà thành sinh tế bào (cellules) và tế-bào thành các tổ-chức (tissus) như nhục tổ-chức (tissu musculaire), cốt tổ-chức (tisu osseux), tỷ tổ-chức, hay thưc-vật tổ-chức (tissu végétal).

Âm điện-tử rất nhẹ, nặng bằng 1/2.000 một dương điện-tử hay là dương điên-tử cân nặng gấp 2.000 lần âm điện-tử.

Biết rằng cái dương điện-tử một khi đã bị phân-tách riêng ra thì nó có sức tàn-phá mãnh-liệt, vì rằng dương điện theo Kinh-Dịch mà giải có đức tính là mạnh bao giờ cũng “biến-động” để dung-hoà cùng âm-điện, một âm và dương điện khi gặp nhau mạnh thì bật ra lửa. Cũng bởi cớ đó mà các nhà Bác-học khi chế tạo ra bom trước hết phải phân-tách nguyên-tử để lấy riêng ra phần dương điện-tử hay là những điện hạch, mà muốn tách ra được để lấy riêng phần dương thì phải dùng đến quang tuyến Alpha như đã nói trên. Một khi dương điện-tử đã phân-tách ra được thì nó đã tích luỹ một sự tàn phá khủng-khiếp các vật mà nó gặp để cướp lấy âm điện-tử. Cho nên khi lấy được dương điện-tử rồi thì phải nghĩ cách chứa riêng nó. Theo những thí nghiệm của các nhà Bác-học thì sự dịch chất từ quang chất đến Hélium, rồi đến chất Chì (Plomb), như vậy thì quang-chất ngưng lại ở chất chì. Có lẽ vì lý ấy mà người ta lấy chì để ngăn đựng dương điện-tử.

SỨC TÀN PHÁ CỦA NGUYÊN TỬ

Một khi đã tìm được chất chì thì người ta ép rất nhiều dương điên-tử vào trong một trái cầu rỗng bằng chì dầy, ngoài bọc gang, có thể chứa được dương điện-tử không cho thoát ra ngoài và có ngòi mồi để kích nổ. Khi nổ dương điện-tử bị kích động mạnh, tức lên và nổ tung ra theo một áp-lực ghê-gớm của từng dương điên-tử. Dương điện-tử thoát ra được thì lan rộng ra một cách rất nhanh chóng, phi thường theo không-khí và trong khi gặp các vật đều đốt cháy để cướp lấy âm điện-tử. Trong khi các nguyên-tử vật chất bị mất hết âm điện-tử chỉ còn dương điện-tử, cái dương điện-tử mới thành ấy lại cướp lại của vật gần hơn nhất là phần âm điện, hiện tượng này cứ tiến mãi, trong một khoảnh khắc rất ngắn-ngủi mà có thể tàn phá được những vật xa hàng bao nhiêu cây số.

Sự ảnh-hưởng xa hay gần là ở sức ép nặng hay nhẹ của trái bom và những người ở xa chỗ nổ dù bị thương nhẹ ở chân tay rồi sau cũng chết là vì: Một khi đã nhận được một dương điên-tử thì tất nhiên có sự tàn-phá của các tế bào các nguyên-tử gần nhất chỗ bị thương, rồi dương điện tử này cướp âm điện-tử kia và dương điện-tử mới thành lại phát triển đi tàn phá thêm lên là cướp các âm điện khác, cứ lưu-chuyển như vậy đến khi người ta chết nếu không có cách hay thuốc trừ cái phóng xạ năng của dương điện-tử.

Không những người ta bị ảnh-hưởng mà thôi, đến các thú vật, thực vật và kim khí, loại đá hay tất cả muôn vật trong khu-vực hoành-hành của trái bom đường kính 30 cây số cũng đều bị ảnh-hưởng một cách thảm khốc vậy.

Trên đây là tài liệu thu thập được về bom nguyên-tử mà Mỹ đã thả xuống hai hòn đảo Hiroshima (ngày 6 tháng 8) và Nagasaki (ngày 9 tháng 8) của nước Nhật vào những ngày sắp kết thúc của thế chiến thứ II năm 1945. Thế kỷ thứ 19 khoa-học chưa được phát triển lắm, hình thức về nguyên-tử mới là cái bóng mờ trong cõi âm-u, có quan niệm nguyên-tử nhưng nó mới cho ta một bóng lờ mờ trên vòm trời khoa-học. Sau dần đến thế kỷ 20 khoa-học tiến bộ thì sự khảo-cứu về nguyên-tử học cũng nhờ sự tận-tâm nghiên-cứu mà nguyên-tử được phát-hiện dần dần. Sự tiến-bộ về khoa-học của con người đến trình-độ này cũng có thể nói là cướp quyền Tạo-hoá.

PHƯƠNG-PHÁP TÁCH RỜI HẠT NHÂN:

Muốn phân-tách để lấy ra hạt nhân nguyên-tử, các nhà Bác-học phải dùng đến một năng-lương (Énergie) rất lớn mới tách ra được một gram hạt nhân vật chất (m). Nhà bác-học Albert Einstein tính được năng lượng đó theo công-thức như sau: E= m.C2

E: Năng lực tính bằng đơn-vị ergs

m là trong khối của vật chất tính bằng gram.

C: Tốc-độ của ánh sáng tính bằng centimètre (phân tây)

- Biết rằng tốc-độ ánh-sáng là 300.000 Km một giây hay là 30.000.000.000 Cm (ba mươi ngàn triệu phân tây).

Nếu ta lấy một khối vật-chất nặng 1 gram để làm biến ra năng-lực, theo phương-trình-thức trên thì ta có được một năng-lượng là:

E=1x 30.000.000.0002 = 900.000.000.000.000.000.000 ergs.

Xem đó, chúng ta thấy được rằng:muốn có được một gram hạt nhân nguyên-tử, người ta phải dùng đến một năng-lượng có số-lượng đã tính như trên. Đó là năng lượng dùng để tách hạt nhân ra khỏi các âm điện-tử, khi bom nguyên tử nổ thì năng lượng của nó phóng ra cũng tương đương như thế. Thử hỏi có vật-chất nào còn tồn-tại được trong một môi-trường nhiệt-năng như thế?

Con đường cứu thế của Đạo Cao-Đài.

Trong phạm-vi bài viết này, chúng tôi chỉ khai-triển công-thức luyện nguyên-tử của Einstein và mượn công thức này để luận về pháp tu luyện Tam-bửu của Đạo Tiên mà thội. Điểm quan-trọng của công-thức này là m (Maté riel). Ở Trời thì m =1 nhưng ở con người hậu-thiên thì

m =3 . Con số 3 này tức là tam-bửu của con người là Tinh-Khí-Thần. Người tu-luyện sao cho Tinh-khí-thần hiệp nhất được thì mới trở về ngôi vị (ngôi thái-cực). Như vậy ta phải giải phương thức này: m = 1 Ta có công-thức:

m = 1+2 . Hoán-vị công thức này thì ta được: m -2 = 1.

Theo nghĩa của lý số thì 1 là cung Càn, thái-cực; số 2 là lưỡng nghi. Muốn cho 2 = 0 thì ta phải tu Tâm để đạt đến trạng thái hoàn-toàn thanh-tịnh.

2/- Có cách nào hoá giải được phóng xạ Nguyên-tử?

Ngày nay có khá nhiều quốc gia đua nhau sản xuất ra vũ-khí nguyên-tử như Mỹ, Nga, Ấn-Độ, Iran... chắc chắn họ là những người hiểu biết hơn ai hết về tác-hại khủng-khiếp mà bom nguyên-tử đã gây ra cho muôn loài, nhưng chúng ta chưa nghe thấy nước nào đưa ra được phương cách để cứu nguy cho nhân-loại hầu phòng bị khi có xảy ra chiến tranh nguyên-tử. Điều này là nỗi lo-lắng và sợ-hãi nhất của hầu hết các quốc gia tôn-trọng hoà-bình trên thế-giới, nhất là các Tôn-giáo đã đưa ra nhiều giải pháp hay, nhưng chưa được toàn vẹn. Thử hỏi người ta sản-xuất ra bom nguyên tử để làm gì? Câu hỏi này chắc không ai là không trả lời được! Nhưng có điều là khuyên mọi người hãy bình tĩnh và tin-tưởng, vì từ xưa đến giờ chưa có kẻ nào qua được thiên-ý, cũng như chưa có bệnh nào mà không có thuốc trị, chỉ sợ người bệnh không chịu dùng thuốc mà thôi.

Trước khi Đức Hộ-Pháp nhập tịnh vào Trí-Huệ Cung có cho bài thi sau, có tính cách khuyên chúng sanh nên “Chay lạt để ngừa loài khí độc”.

THI

Gắng tu cho kịp Hội-Long-hoa,
Đạo-đức không chuyên khổ lắm mà.
Chay lạt để ngừa loài khí độc,
Mê-man bất tỉnh trận kỳ ba.
Người hiền cứu sống ra phò Chúa.
Kẻ dữ bạo-tàn xác quạ tha,
Thân Dậu tới đây rồi sẽ biết,
Đinh-ninh vẹn giữ mấy lời ta.

Sau đây là lời chỉ dạy cách thức tu-thân, luyện Tam bửu của Đức Hộ-Pháp ngày 14 tháng giêng năm Đinh-Hợi (1947).

- PHƯƠNG LUYỆN KỶ ĐẶNG VÀO CON ĐƯỜNG THỨ BA ĐẠI-ĐẠO

Phải biết thân-thích cùng cả nhân vật tức là tìm nguyên-do của Vạn-linh cùng Chí-linh.

Phải ân-hậu và khoan-hồng.

Phải thanh-nhàn, đừng vị-kỷ.

Phải bình-tĩnh, nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của hoạ, phước, buồn, vui (Tập tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chơn Tánh).

Phải độ-lượng, khoan-dung, tha thứ.

Phải vui-vẻ, điều-hoà, tự-chủ và quyết-đoán.

Giữ Linh-tâm làm căn-bổn, Hiếu-hạnh với Chí Tôn và Phật-Mẫu.

PHƯƠNG-PHÁP TRỊ TÂM VÌ TÂM LÀ HÌNH-ẢNH THIÊN-LƯƠNG

Đức-tin và khôn-ngoan là kho chí bửu ngoài ra là của bỏ, là đồ vô-giá.

Ai đã cố oán kẻ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công-chánh cho đặng.

Ai chẳng oán-hận mới thắng đặng kẻ thù-nghịch cùng mình.

Sự cừu-hận là khối thảm-khổ đệ nhứt của nhơn sanh, nên người Hiền thì không biết đến, hay là từ bỏ cừu hận oán-ghét.

Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận-dữ.

Lấy thiện mà trừ ác.

Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo-tàn.

Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi.

Lấy Chánh trừ tà.

Ấy là đường thương huệ-kiếm.

LUYÊN THÂN, LUYÊN TRÍ.

Ẩm-thực tinh-khiết

Tư-tưởng tinh-khiết.

Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn, Phật-Mẫu..

Thương-yêu vô-tận, ấy là chìa khoá để mở cửa Bát Quái Đài tại thế này.”

Trên đây là những lời tâm-huyết của Đức Hộ-Pháp, Đấng thay Trời cứu-thế kỳ ba, ai có niềm tin thì xem đó là đường hướng chân-chính và cố noi theo trên bước đường lập-đức tu-thân, thực-hành cho đúng thì sá gì phóng xạ của nguyên-tử..Nhưng đã tin nơi Đức Hộ-Pháp thì hãy tin:

Đức Hộ-Pháp có cho biết:

3- Nguyên-tử cứu người:

Với một kho tàng đạo-pháp bao la như thế, một triết-lý siêu nhiên như thế, mà Thượng-đế đã gieo giống lành từ lâu đời rồi, mỗi người làm một phần hành trong cái vô cùng tận ấy. Các nhà Bác-học, nhà nguyên-tử-học đã dày công nghiên cứu, công trình này cũng đứng vào hàng Địa Tiên, nhưng có những thứ không được ơn ích mấy cho nhân loại là nguyên tử lực đe doạ Hoà bình, chứ thực sự chưa thấy phụng sự cho Hoà bình. Vậy thì hôm nay những nhà đạo học đang tìm những thứ “nguyên tử phụng sự hoà bình thực sự” là tìm đến chân lý của đạo mầu. Vì không một Tôn giáo nào qua chân lý. Ấy là các nguyên-tử đạo học đang nằm rải rác trong kho tàng Dịch lý Cao-Đài, nó sẽ là “Nguyên tử cứu người” vậy.

Đức Hộ-Pháp nói tại Ðền Thánh, đêm 29 tháng 3 năm Ðinh Hợi (1947)

“Tiếp khai các nền Tôn Giáo hiện hữu không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh, chúng ta có quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác, vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ buổi Trời Ðất biến sanh đã có, cái khối chơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy?

- Vì ta xét từ trước Ðức Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy.

Phật Giáo nói: Cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng thứ nhì Civa chủ về Pháp, Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là Khí, vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Nên Ðấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm ấy là Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy.

Như chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió; rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hỗn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật, tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy.

Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử khí (Atome) Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ Nguyên tử khí ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt Nguyên tử khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy, mà dầu cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử.

Vì bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy con người mà làm Tiểu Thiên Ðịa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn Khôn, tức là sự sống phải tương liên với Chí Tôn mà Chí Tôn lại cầm quyền năng vô đối.

Hỏi vậy Chí Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai? Ðể cho Vạn Linh, mà đứng đầu Vạn Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Ðức Chí Tôn mới dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Ðức Chí Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem Tiểu Thiên Ðịa đến Ðại Thiên Ðịa.

Ấy vậy về cơ quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng Tu. Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng?.”

Nhắc lại bài thi của Chí Tôn nói về chữ Hoà:

Chẳng quản đồng Tông mới một nhà,
Cùng nhau một đạo tức một cha.
Nghĩa-nhân đành gửi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ Hoà.

Và bài thi chữ Tâm của Đức Phật-Mẫu:

Gắng-sức trau-dồi một chữ Tâm,
Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm,
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm,
Tâm ái nhơn-sanh an bốn biển,
Tâm hoà thiên-hạ trị muôn năm,
Đường tâm, cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước đạo tầm.

Lụât nhân-quả

Thánh-ngôn cũng dạy rằng:

Biến-chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Đời đem thử gan anh-tuấn,
Cửa Đạo mới ra mặt Thánh-hiền.
Đau khổ ráng gìn NHƠN-NGHĨA vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non sông Việt-chủng ngày êm lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập quyền.

Bởi lẽ, tất cả đều nằm trong luật vay trả của nhân lọai mà thôi. Đức Hộ-Pháp có thuyết về Lụât nhân-quả mà chính nhân loại đang chịu trong luật nhân quả ấy, ngày hôm nay “Ông Thầy Trời hát từ màn”. Chắc như vậy! Nên những màn hát hoàn toàn khác nhau, chứ ít khi trùng hợp!

4- Muốn trốn bom nguyên-tử phải chun trong đám đậu nành mà trốn

Đức Hộ-Pháp nói:

“Hôm nay, Bần-Đạo giảng về Luật nhân quả vay trả của nhân-lọai trong thời-kỳ Hạ-nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng-nguơn Thánh-Đức.

Các con ráng ẩn-nhẫn để Ông Trời hát từ màn cho các con coi; các con trông cho đời mau tới, tới chừng tới các con khóc mẹ, khóc cha luôn.

Bần-Đạo nói thật cái quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn một nháy mắt không còn một sanh mạng nơi quả địa cầu này, không cần một tích-tắc đồng hồ, những nhân nào quả ấy trả cho rồi đặng lập đời Thánh-đức mà thôi.

Một ngày kia Trung-Cộng và Căm-bốt (Cambodge) chết không còn một con đỏ, bởi vì Cambodge nghe lời xúi giục của người ta thành ra phải chết hết.

Các con biết sau này sắc tộc, sắc tộc đánh nhau; Tôn giáo, Tôn giáo đánh nhau. Đài-loan từ Hồng-Kông tản cư qua Việt-Nam trước, bởi vậy người hành ác mà mình theo họ, mình ôm eo ếch họ rồi họ trật chân, sút tay, họ té chết thì mình cũng chết theo họ mà thôi, thành ra người Miên (Campuchia) còn có bao nhiêu giống bên Việt-Nam đó thôi, các con ráng thương giùm họ.

Nói về Trung-Cộng là đứa con cưng của Đức Chí Tôn, nên Đức Chí-Tôn mới cho Lão-Tử, Khổng-Tử và Mạnh-Tử giáng trần dạy Đạo: làm lành lánh dữ, nhưng hiện nay Trung-Cộng theo cái thế sắc thủ đắc nguyên tử, sức mạnh là trên hết, tất cả mộng làm bá chủ hoàn cầu

Các con nhớ rằng: dữ tận hiền thăng, mạnh thua yếu được, nhu-nhược trường tồn “xỉ cương tắc chiết” nhơn-lọai trả quả với nhau, các con chịu cái nạn chung, trả từ đời Hồng-bàng đến giờ. Tổ-phụ ta khi xưa cũng ác tâm lắm, ỷ mạnh hiếp yếu, diệt chủng những nước yếu hèn nên phải chịu LỤÂT NHƠN-QUẢ ngày nay.

Bần-Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết món nợ tiền khiên mà Tổ-tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô-lệ nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong. Các con để tâm suy nghĩ; ngó thấy ở dưới thế-gian này ai mạnh cho bằng Tần-Thủy-Hòang, Thành-Cát Tư Hãn? Có ai mưu sĩ cho bằng Tào-Tháo ?

Còn Đức Thích-Ca, Đức Chúa Jésus-Christ không có một tấc thép trong tay để bảo vệ lấy thân mà làm bá chủ hòan cầu mới là lạ cho chớ !

Hành ác trả ác, hành thiện trả lại thiện mà thôi, “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (tuy lưới Trời lồng lộng mà chẳng lọt một mảy lông) không bao giờ sai chạy.

Bần-Đạo nói ra đây các con ráng mà nhớ: các con đừng có mộng làm giàu cho mắc công; các con bây giờ sống trên nắp thùng nổ của bom nguyên tử, dù muốn dù không các con phải chịu ăn bom nguyên-tử mà thôi, các con muốn trốn bom nguyên-tử phải chun trong đám đậu nành mà trốn chớ không trốn đâu khỏi hết.

Sau này nước Việt-Nam còn sống nhiều nhờ biết chay lạt tu-hành, còn các nước khác chỉ còn sống lưa thưa mà thôi vì họ hành ác chạy đua võ-trang giết người hàng lọat, nên Đức Chí-Tôn mới phạt họ.

Năm ngàn năm trở lại đây, biết bao nhiêu Đấng xuống trần dạy Đạo, khuyên nhủ cho người ta biết làm lành lánh dữ, nhưng tánh nào tật nấy, dữ cũng vẫn dữ mà thôi. Họ không có hiền bảo người ta hiền làm sao cho được ?

Trước khi dạy người, ta phải hiền trước để làm gương mẫu; hiền lành trước đi thì người khác mới noi theo, nên Đức Chí-Tôn mở Đạo lấy THƯƠNG-YÊU làm gốc: CÔNG-BÌNH, BÁC-ÁI.

Ngày nào cả nhân-lọai trên mặt địa cầu này biết nhìn-nhận Đức Chí-Tôn là Đấng Cha chung thời ngày ấy mới được Hoà-bình vĩnh-cữu.

Tóm lại ai hành ác mặc họ, Tín đồ Cao-Đài ráng lo tu, chay lạt, đi cúng hằng ngày, phải nhiều thời, nhiều pháp, nhiều kinh, cầu xin Đức Chí-Tôn giảm tội cho họ. Nếu họ biết ăn-năn hối cải mà làm lành lánh dữ, bằng không phải trả giá rất đắc.”

(ĐHP thuyết 15-6-Mậu-Tý 1948)

5- Lý do phải học Đạo:

Học Đạo là luyện TÂM mình tức là luyện nguyên tử để tự cứu mình và cứu người.

Từ bấy lâu nay chúng ta phân tích, chứng minh từng Thể pháp trong cửa Đạo Cao-Đài này đâu đâu cũng có ý-nghĩa là một Bát-quái, là một Thái-cực, có đủ Âm Dương, Tam tài, Tứ tượng, Ngũ hành, là tất cả đều nằm trong định luật sinh tồn của vũ-trụ, chứng minh rằng đây là những tế bào sống, phát xuất từ trong một cơ thể của Chí Tôn, là một sự kết hợp hài hoà với sự sống của trời đất..

Cả Hội-Thánh: Hiệp-Thiên, Cửu Trùng là hai Đài hữu hình hoà hợp với Bát-Quái-Đài của Chí-Tôn hiệp thành ba ngôi. Rồi từ đó Đức Hộ-Pháp mới biến tạo thêm nào là Phước Thiện, Phạm-môn…Nói chung là dù bao nhiêu cơ quan, bao nhiêu thành phần, ban bộ đi nữa cũng là từ những cơ thể hữu vi đều có chứa sự sống, mà khi đã có chứa sự sống thì sự sống này bất diệt với thời gian, tức là nó không bao giờ chết. Vì sao vậy? Vì chính Đức Chí Tôn đã trấn Thần vào đó rồi, chính Đức Hộ-Pháp là quyền Chí-Tôn tại thế này cũng đã trấn Thần ở mọi nơi, mọi chỗ rồi, nên cái huyền-linh cũng đã có ở mọi nơi, mọi chỗ, tức là Ngài đã thổi lằn sinh-linh-khí vào đó. Nhất định nó không chết, tức nhiên các vị Thần này phải kế tiếp nhau làm nhiệm-vụ giữ gìn cho nó sống mãi với thời gian. Cũng như thân thể ta có sức sống đây là do khí huyết vẫn mãi luân lưu trong trái tim, trong lồng ngực này, nhưng sự sống của con người còn nằm trong cơ thể là còn có hạn định. Nếu khi sự sống đã hoà nhập cùng vũ trụ là sự sống đó bất diệt, do đó người tu là tạo cho mình một sự sống bất diệt cho linh hồn, là tạo cho mình được hoà nhập cùng Thượng-Đế, là tạo cho mình hiệp cùng vũ trụ đó. Hiển nhiên là phải đủ cả ba yếu tố Tam tài vậy.

Với nền Đại-Đạo này đâu đâu cũng có bàn tay của Thượng-Đế đặt để vào cả, đó là một điều hạnh phúc cho Việt-Nam làm khởi điểm và cho cả nhân loại cùng hưởng nhờ. Là một đặc quyền mà cũng là đặc ân trong cơ Đại-ân xá lần ba mà chưa có một Tôn-giáo nào trên toàn cầu này hưởng đặng diễm phúc ấy:

1/- Yếu tố THIÊN:

Đức Hộ-Pháp nói:

Nếu có kẻ hỏi: Hiện đã có Đạo Lão, Đạo Gia Tô, Đạo Thích là ba chánh Đạo, thế thì Tam giáo đã có rồi hà tất phải cần lập Đạo khác mà làm gì ?

- “Nếu nói Đạo thì đã có sẵn từ tạo thiên lập địa. Hễ có Đời tức nhiên có Đạo. Hư-vô là Đạo, Âm Dương là Đạo, trời đất là Đạo, nhơn vật là Đạo.

“Tam giáo là Đạo chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải, càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hoá ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau-đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa vào tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ, nên nhứt định chuyển Tam giáo Qui nguyên Phục nhứt, chấn hưng Tôn giáo lại cho hoàn-toàn, rồi khêu sáng ngọn đèn Thiêng liêng lên để dìu-dắt bước đường cho kẻ có công tu hành mà khỏi phải sa chân lạc bước”

(Chùa Gò Kén: 12-Giêng, Ðinh Mão (13 Fevrier 1927)

“Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy, là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Ðịa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy. Cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao!”

“Nền Đạo Cao Đài Đức CHÍ TÔN đến lập, do nơi chơn lý tối cao, chính mình Đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn chánh này mà thôi.

Ngày 19 tháng Giêng Ðinh Mão (20-2-1927)

Chính Thầy đã đến nói:

“Ðạo Trời khai ba lượt, nguồn Thánh độ muôn người, thìn lòng để bước vào nẻo thẳng đường ngay, mà kiếm cho thấu đáo mối huyền vi. Tạo Hóa đã sắp bày độ dẫn, nhuần gội ân huệ cho sanh linh, đương buổi hạ nguơn nầy.

Ai là khách hữu phần, ai là người vô quả, tánh thiêng liêng đã vì công lý mà ra tay tế độ, vớt kẻ giữa bến trần, khá biết thời thế lần vào nương dựa bóng Thái Dương, để bước vào con đường minh huệ, tìm suối lặng, non Thần rửa chút bợn nhơ đã vì phong trào mê muội, mà cam chịu lấp kín gót trần.

Ta vì lấy đức háo sanh, mượn giọt từ bi, hội Tam Giáo mà rưới khắp càn khôn, để độ rước những bậc chí Thánh đọa trần, trước kỳ Thiên điều hành phạt.

Họa Âu, tai Á, sẽ vì nơi Thiên thơ mà sát phạt, gieo sầu để thảm cho những giống dân nào đã vì hung bạo mà gây nên điều thán oán khắp cả càn khôn nầy.

Ai mau bước đặng gặp mối chánh dẫn truyền, mà lần lập công chiết quả, để lánh cả muôn điều phiền não về sau. Chúng sanh khá biết cho!”.

Nay, Đức Hộ-Pháp thay quyền Chí-Tôn lập nền chánh Giáo. Đức Hộ-Pháp nói:

Bần-Đạo may duyên được Đức Chí-Tôn chọn làm Ngự-Mã-Quân của Ngài để thay Ngài lập nền Chánh giáo, tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương-tri lương-năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-Giáo ấy ngày nay đã bị bế.

Đây là Thiên-Thơ đã định “Khai Đạo muôn năm trước định giờ”.

Nền Đại-Đạo này tức là Tôn-giáo toàn cầu vậy! Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp tín-ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi với tôn-chỉ: Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt đó!

Tuy nhiên những hành động sai trái của con người chắc rằng Thiêng liêng không phải không thấy, nhưng Cơ ngưng nghỉ cũng là thời gian phân phàm lọc Thánh đó vậy

Đức Hộ-Pháp khẳng định:

…“Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy.

Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy Em nghe quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy Em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy Em nó đều có linh cảm cả.

Khốn nạn thay! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được thì không được phép ghét nhau.”

(Đền Thánh, đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ)

2/- Yếu-tố ĐỊA:

a/- Việt-Nam là Thánh-Địa:

Chính đây là một nền tảng quan-trọng về vật-chất nữa, là đất nước Việt-Nam:

Toàn dân Việt-Nam có chung một niềm kiêu-hãnh về dân-tộc, về đất nước. Vì đất nước Việt-Nam thân yêu của chúng ta có những nét đặc thù khả kính.

Lời tiên-tri của Thầy là:

“Một nước nhỏ-nhoi trong Vạn quốc,
“Ngày sau làm chủ mới là kỳ”.

Tuy nhiên cũng nên điểm lại trên thực-tế Việt-Nam có được những yếu-tố nào mà được chọn là nước CHỦ của Vạn quốc trong kỳ Thượng-nguơn Tứ chuyển? Vì sao nước Việt Nam được gọi là Thánh-địa?

(Ghi lại từ Dịch-lý Cao-Đài I. Sự lập lại cũng vì tinh thần giáo dục và niềm kiêu hãnh về đất nước mà thôi)

Xét về ba phương-diện:

 
   

* Về mặt triết-lý văn-minh:

Nước Việt-Nam thọ ba ảnh-hưởng của ba nền Tôn giáo: Thích, Đạo, Nho từ Ấn-độ và Trung-hoa truyền sang. Ba nền Tôn-giáo ấy đã được đồng-thời phát triển dưới thời nhà Lý và nhà Trần bằng sự bình-đẳng của ba nền Tôn giáo nói trên.

Kịp đến khi văn-minh Âu-châu tràn vào thì Việt Nam lại được hưởng thụ thêm nền văn-minh Cơ-đốc-giáo nữa. Như vậy, Việt-Nam là mảnh đất gieo Đạo giáo từ lâu; vả lại Việt-Nam ít tạo oan báo, nên nghiệp quả của nó cũng nhẹ nhàng. Việt-Nam có đủ điều-kiện để làm cơ qui nhứt toàn thế-giới vì lý-do ấy.

* Xét về hình thể địa-lý thiên-nhiên:

Việt-Nam nằm vào vị-trí đặc biệt của Á-châu, mà Á-châu lại nằm vào vị trí trung-tâm của quả đất và Á-châu là châu lớn nhất thế giới. Châu Á thuộc sắc da vàng, theo lý của Ngũ-hành thuộc Thổ,mà Thổ chính là ở trung-ương.

Việt-Nam là cửa ngõ để tiếp nạp các luồng tư tưởng từ Đông sang Tây cũng là cửa ngõ để phòng-vệ đất nước cho các giống dân miền Đông Nam châu Á.

* Xét về hình thể địa-lý huyền-bí:

Việt-Nam có con sông dài vào bậc nhất thế-giới tất sẽ tạo nên linh-khí thiêng-liêng. Linh-khí ấy tạo nên Long mạch Cửu-Long và dãy Thất-sơn nơi Châu-đốc đó vậy.

Miền Nam là nơi đất mới khai-khẩn nên những quả báo chưa gây nhiều, lại có luồng nước nóng và nước lạnh từ các miền đại-dương hòa-hợp để tạo nên một khí-hậu điều-hòa.

Tóm lại,Việt-Nam có đủ điều-kiện: Thiên, Địa, Nhân tức là Tam tài để đứng ra chủ trương một mối Đại-Đạo.

Tam-tài ứng với lý Tam ngôi. Tam ngôi ba điểm đều vẹn thì làm chủ thiên-hạ là lẽ thường chớ có gì đâu khác lạ! Nhưng Thầy cũng thường dạy rằng:

“Làm chủ đây là chủ về tinh-thần chớ không phải mang binh hùng tướng mạnh đi chiếm đất như các con lầm tưởng. Cái chủ tinh thần mới trường-cữu, còn làm chủ theo thói đời thì nó lỏng-lẻo, bấp-bênh nào có bền chắc, nào có nghĩa lý gì!”

Cái lý Tam ngôi nhứt thể biến sanh Tam-giáo, Tam nguơn, Tam bửu…Số Tam là chu-kỳ của trời đất để thực hiện cơ vận chuyển hóa sanh, qui hợp.”

Việt Nam cũng là một Bát-quái Đồ thiên có đầy-đủ các con số ấy, tức nhiên là một Thái-cực-đồ trọn vẹn.

b/- Việt-Nam là một Quốc gia Thiên định:

Với đất nước Việt-Nam đã có đủ yếu tố Âm Dương như trong một cơ thể con người toàn vẹn. Nhờ Việt-Nam được kết tinh tú khí Âm Dương điều hòa mới được đứng vào hàng địa linh. Khi đã là địa-linh tất nhiên xuất nhân-kiệt.

Việt Nam là một Thái cực đồ chia hai phần rõ rệt:

- Phần đất liền là Thái Dương

- Phần biển là Thái Âm.

Trong đất liền có biển Hồ (thuộc Cambodge) là nước trong đất tức là Thiếu Âm.

Trong biển có đất (đảo Hải Nam ở Trung-Hoa là đất trong nước) là Thiếu Dương.

Như vậy bốn yếu-tố trên hợp thành Tứ tượng:

Giữa dãy đất có núi Ngũ hành-sơn (số 5) để định cái tâm của vòng tròn tạo thành một Hậu-Thiên Bát-Quái mà núi này đứng vào ngũ trung. Việt Nam là một Thái Cực Hoàn đồ.

* Miền Bắc có Thăng Long thành (kinh đô nhà vua)

* Miền Trung có Cố-Đô Huế (kinh đô nhà Nguyễn)

* Miền Nam có Tòa-Thánh Tây-Ninh là (Thiên-triều của Thượng-Đế).

Ba kinh-đô này đã chấm đậm 3 nét Dương hùng-vĩ lập thành Tam Tài (Thiên Địa Nhân) là quẻ CÀN càn vi thiên (Càn là trời). Chính vì vậy mà Đức Chí-Tôn mới mở cho Việt-Nam một nền Vương Đạo lấy Nho-Tông chuyển thế. Hơn nữa bờ biển Việt-Nam chạy suốt từ Bắc đến Nam như một gạch đứng xuyên qua Quẻ Càn biến thành chữ VƯƠNG 王 mà thành chữ Chủ 主 vì nơi Tòa-Thánh Tây Ninh ở miền Nam Việt-Nam, do Đức Chí-Tôn ngự là một Thiên triều của Thượng-Đế, có một CHỦ quyền, tức nhiên Việt Nam là một quốc gia thiên định, như lời Ngài có tiên tri từ thử:

Trong đất nước Việt-Nam còn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, đó là:

Châu-Đốc có Thất Sơn là 7 núi; đối với người là thất khiếu dương ở mặt, người tu biến thất tình thành Thất khiếu sanh quang để suốt thông trời đất.

Miền Nam có Cửu Long giang, phát-nguyên từ ngọn núi cao nhất thế giới là nguồn phát xuất, là dãy Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya) đổ ra sông Hoàng-Hà chảy dài từ Ấn độ, Trung-Quốc qua Lào, Miên, rồi ra 9 cửa tạo thành Cửu-Long-giang chín khúc, đối với người là Cửu khiếu (Do 7 khiếu ở trên mặt và hai khiếu ở hạ bộ hợp lại là 9).

Địa thế miền Nam Việt-Nam như một mình rồng uốn khúc, dài từ mũi Cà-Mau đến ải Nam-Quan thật linh động. Thế đất Việt-Nam là một con Rồng khi ẩn khi hiện có đỉnh đầu là dãy Thất Sơn (Châu Đốc) có hai mắt là núi Dương đông (Phú-Quốc) và núi Thạch Động Hà-Tiên, vùng Cần-Thơ có miệng là các cửa sông Cửu Long, có chót lưỡi là núi Côn lôn (Côn Đảo).Chấm đậm 12 huyệt sáng-suốt, 6 huyệt chánh, 6 huyệt phụ và huyệt trung ương là huyệt hội các huyệt, mà số 12 huyệt lại thuộc về Tâm điền-huyệt, cho nên khiến các hạng dân trong nước lần lần xu-hướng vào đường đạo hạnh. Các huyệt vừa kết tụ thì các Tôn-giáo, giáo-hội lần lần phát triển, nhân dân mở rộng tâm thiện biết hướng về đạo pháp, biết tín-ngưỡng tu trì. Dân Việt-Nam theo thời cơ thiên-định, tinh-thần rất thông-minh, tài trí, đức hạnh; các hồn linh chuyển kiếp làm con người trong nước, vì mảnh đất Việt-Nam được coi như là một thí điểm. Nam phần Việt-Nam là nơi địa huyệt, thích-hợp với sự tiến hóa của các linh-hồn ấy. Cho nên các linh hồn tốt đẹp, ưu tú khắp nơi hội hiệp tại Nam phần Việt-Nam do luật trời biến động “nguồn ân thánh triết” lâm phàm sẽ thâu các linh hồn ấy vào hàng Môn Đệ của Đức Thượng Đế đúng vào địa-cầu này vậy: Quả đúng như lời tiên-tri của Đức Chí-Tôn về Thượng Ngươn Thánh Đức. Nói đúng ra Việt-Nam là một Thái-cực-đồ trọn vẹn. Việt-Nam là Thánh địa trong toàn thế giới.

c/- Đền Thánh Cao-Đài đặt trong vùng Thánh Địa Việt-Nam

Ngôi Đền Thánh ở tại Toà Thánh Tây ninh rất nhiều kỳ bí, huyền diệu, nhiệm mầu:

Những sự kỳ diệu của Tòa Thánh:

Tòa Thánh Tây Ninh là một công trình kiến trúc vĩ đại và kỳ-diệu của Đạo Cao-Đài. Nó kỳ diệu về phương diện vị trí xây cất, kỳ diệu về kiểu cách hình dáng và kỳ diệu về phương pháp kiến trúc.

* Kỳ diệu về vị trí xây cất:

Tòa Thánh được cất ngay trên cuộc đất Lục Long Phò Ấn. Đó là Thánh địa, là đất linh trổ sanh các bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần, là nơi mà Thượng Đế lựa chọn để làm

Đền Thờ cho Ngài đến ngự. Tức nhiên Đức Thượng-Đế có cho biết đây là Bạch-Ngọc-Kinh tại thế. Qua bài thơ sau

Tân tả Bạch-Ngọc-Kinh:

Một Tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam-Tào
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nỗi.
Vững bền muôn kiếp chẳng hề xao.

* Kỳ diệu về kiểu cách hình dáng:

Bởi vì Đức Chí Tôn có nói: Đức Lý Thái Bạch cất Tòa Thánh theo kiểu vở của Thiên đình.

Kiểu cách hình dáng của Tòa Thánh là một sự phối hợp hài hòa về văn minh kiến trúc của các nền Tôn giáo lớn trên thế giới.

Khi mới thoạt nhìn vào Tòa Thánh, chúng ta thấy nổi bật 2 lầu chuông, trống cao chót vót, tương tự như những tháp chuông của các nhà thờ Thiên Chúa giáo. Ở giữa 2 tháp có tượng Đức Phật Di-Lạc ngự trên nóc với những mái ngói đỏ cong cong chập chùng, tương tự như kiểu dáng của các chùa Phật giáo Trung Hoa.

Nghinh Phong Đài thì bên dưới hình vuông, bên trên hình tròn, chóp tròn, có dáng như những cái tháp của những ngôi Đền Á Rập của Hồi giáo. Ngoài ra còn gợi cho chúng ta hình ảnh Trời tròn Đất vuông, là nơi chứa một kho tàng Vũ Trụ Quan về Kinh Dịch của Nho giáo. Đây là nền tảng cho các nhà Dịch học nghiên cứu sâu vào các con số về kích thước của Tòa Thánh, những cách thức bày trí bên trong, sẽ thấy được những điều kỳ diệu bất ngờ trên những phương-thức về Nho, Y, Lý, Số.

Hình dáng Bát Quái Đài chính là Bát Quái Đồ của Đạo Tiên và trên nóc Bát Quái có 3 pho tượng của 3 vị Phật mà Đạo Bà-La-Môn tôn thờ. Nơi đây là sự phối hợp hài hoà của hai nền triết lý Đông Tây, cổ kim hãn hữu.

Trong Cửu Trùng Đài có 9 cấp bậc từ thấp dần lên cao, giống như 9 bậc phẩm của quan lại trong triều đình Vua chúa theo Nho-giáo thời xưa ở nước Trung Hoa.

Tất cả những hình thức trên thể hiện rất rõ tôn chỉ của Đạo Cao Đài là: Qui nguyên Tam giáo Phục nhứt Ngũ Chi.

* Kỳ diệu về cách thức kiến trúc:

Bởi vì sự tạo tác Tòa Thánh không giống với bất cứ một công trình xây dựng lớn lao của người đời. Thông thường, trước khi xây dựng một công trình to lớn nào, người đời phải nhờ kiến-trúc-sư vẽ kiểu dáng tổng quát, những sự trang trí chi tiết, nghiên cứu nền móng và những kết cấu bê tông, tính toán chọn lựa các thứ vật liệu xây dựng đúng chất lượng cần thiết…rồi phải xin phép cơ quan nhà nước cấp phép xây dựng.

Đối với Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Hộ-Pháp xây dựng không có một đồ án chi tiết nào vẽ ra trên giấy hết, cũng như không có sự tham dự của một kiến-trúc-sư hữu hình hay một công ty xây dựng nào, cũng không có một thứ máy móc nào giúp đỡ, chỉ toàn trông cậy vào hai bàn tay với sức lực của con người không chuyên môn. Những người thợ nam nữ làm không lãnh tiền công, ăn chay trường với cháo rau đạm bạc và đặc biệt phải lập thệ là không được cưới vợ hay lấy chồng trong suốt thời gian xây dựng Tòa Thánh, để có đủ Âm Dương tinh khiết trong việc xây dựng Đền thờ, cũng không xin phép xây dựng với một Chánh quyền nào hết. (Tương tự như khi lập Tờ Khai Đạo), bởi vì đây là mối Đạo Trời, mối Đạo của Thượng Đế, chỉ có Thượng Đế cho phép mà thôi.

Đức Lý Thái Bạch giáng cơ dạy Đức Hộ-Pháp về vị trí xây cất Tòa Thánh, về kích thước tổng quát: bề dài, bề ngang, bề cao. Đức Hộ-Pháp cứ theo đó mà chỉ bảo lại cho công thợ làm, chỉ tới đâu làm tới đó, không biết gì thêm. Hết phần đó rồi, Đức Lý Giáo-Tông giáng cơ dạy tiếp, hoặc Đức Hộ-Pháp ban đêm xuất Chơn thần đi lên gặp Đức Lý để nhờ Đức Lý chỉ dạy trực tiếp, hay Đức Hộ-Pháp vào Bạch Ngọc Kinh quan sát tỉ mỉ kiểu vở, ghi nhớ để về bắt chước làm giống theo. Làm như thế suốt trong sáu đợt, công trình mới hoàn tất. Tòa Thánh trở thành một kỳ quan về kiến trúc của nước Việt Nam.

Sau khi xây dựng Tòa Thánh xong, Ban Kiến Trúc mới đo đạc kích thước, vẽ lại họa đồ kiến trúc Tòa Thánh theo đúng qui định của khoa Đại học Kiến trúc ngoài đời. Tòa Thánh Tây Ninh là một công trình kiến trúc độc đáo, duy nhứt, có sự phối hợp giữa Trời và Người, Thiên khiển Nhơn tạo, nên được mệnh danh là Bạch Ngọc Kinh tại thế, xứng đáng tiêu biểu cho nền Đại-Đạo của Đức Chí Tôn Thượng Đế cứu thế kỳ ba đến bảy trăm ngàn năm..

Thế nên Tòa Thánh là một nơi rất thiêng liêng huyền diệu, hấp dẫn được các bậc chơn tu khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng và lễ bái. Quí vị nầy, sau khi Thiền định trong Tòa Thánh một khoảng thời gian ngắn để dùng huệ nhãn quan sát sự thiêng liêng của Tòa Thánh, họ đều nhìn nhận rằng hồng ân của Thượng Đế bao phủ dẫy đầy Tòa Thánh và điển lành từ cõi thiêng liêng ban rải xuống cho Tòa Thánh liên tục không ngớt, như sương sa. Tất cả đều hơn hẳn các Tòa Thánh khác làm Đền thờ Đấng Thượng Đế trước đây như ở Jérusalem, ở La Mã, hay ở Tây Tạng.

d/- Chương trình xây cất Đền Thánh:

Lập lại lời Đức Lý Đại Tiên dạy ngay từ lúc khởi đầu rằng:

“Phải cất Thánh-Thất cho xong y như lời dạy, chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa-Thánh, chi chi cũng ở tại Tây-ninh này mà thôi. Vì là Thánh Địa. Vả lại phong thổ tốt cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Chí-Tôn không chịu.

Thượng-Trung-Nhựt, phải làm thế nào chừa đất dư ra ít nữa là 50 mẫu là trọn cả bản đồ Bạch-Ngọc-kinh và cho đủ Thánh-địa ấy. Hiền hữu đi chọn đất về cho Lão hay, cầu khẩn Chí-Tôn nghe!” (19-01 Đinh-Mão)

Thầy dạy tiếp:

“Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Địa. Thầy đã ban cho Thần Hoàng Long-Thành thăng lên chức Văn-Xương vào trấn nhậm làng Hiệp-ninh dạy dỗ dân vô Đạo. Thầy ban đặng quyền thưởng phạt đặng răn làng ấy cho đến ngày chúng nó biết ăn-năn cải hối. Vậy thì làng Long-Thành các con khá an lòng.

Còn Tòa-Thánh Thầy muốn để cho có nhơn lực hiệp cùng Thiên ý là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước. Từ khi Thầy đến lập Đạo cho đến giờ Thầy chưa hề một mình chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội-Thánh vừa lòng thì là đẹp lòng Thầy. Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa-Thánh, chi chi cũng tại Tây-ninh này mà thôi”.

(Ngày 20-01 Đnh-Mão)

e/- Đức Hộ-Pháp nói về sự huyền linh:

(Ðền Thánh, ngày 8 tháng giêng năm Ðinh Hợi (1947)

“Ngày nay đã dời quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi Ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên.

Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối Đức-tin của toàn con cái của Ðức Chí Tôn đã tượng nên hình vậy.

Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn 10 năm trường mới dày công đào tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ Đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.

Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng lại trật tự hòa bình cho cái năng lực Nhơn Nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy.

Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của Ðấng Chí Tôn.

Bần Ðạo nhắc lại, Ðức Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài cho chúng ta y theo lời hứa. Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng.

Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải chi quốc dân ta tin thử và cầu nguyện thử đi, rồi coi Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời hứa không”

f/- Toà thánh nơi Thiên đình:

Tất cả nhân sanh đều rõ biết Đền Thánh này là tượng cho Bạch-Ngọc-Kinh tại thế, thì tức nhiên nó cũng phải có một cái gì gọi là tương đương với Bạch Ngọc Kinh trên trời tức là Ngọc-Hư-Cung Linh Tiêu Điện, mà Đức Hộ-Pháp có dịp diện kiến rồi:

Đức Ngài nói:

“Kỳ trước Bần-Đạo dìu-dẫn chư Hiền Hữu vào Linh-Tiêu-Điện (Ngọc-Hư-Cung). Ngày nay Bần Đạo giảng tiếp khi vô Linh-Tiêu Điện.

“Lúc mới tới ngoài, chúng ta ngó thấy lầu các nguy nga, Bần-Đạo có nói dầu cho vị Kiến-trúc-sư nào mà ngó thấy nó rồi thì mơ-mơ mộng-mộng hoài, mơ-mộng cái vẻ đẹp ấy, sợ tới điên chết mà thôi, không thế gì tưởng-tượng được cái đẹp cái khéo của nó đặng.

Lầu các cất bằng ngọc muôn hình ngàn tướng, hễ chúng ta muốn tưởng-tượng cái gì thì có hiện-tượng ra cái nấy, quyền-phép vô biên của Đức Chí-Tôn từ trước đã thành tướng, nó là vạn pháp thành hình, nó huyền-diệu vô biên vô đối, không thể gì tả đặng. Khi chúng ta bước vô dòm lên thấy càn-khôn vũ-trụ minh-mông đại-hải, chúng ta thấy từ trên dài tới dưới, một triều-chánh không có miệng lưỡi nào tả cho đặng, oai-nghiêm huyền-bí làm sao đâu ! Trên hết chúng ta ngó thấy Đức Chí-Tôn ngự với cái triều-nghi của Ngài là Huỳnh-Kim-Khuyết (Lát nữa Bần Đạo sẽ tả cái hình ảnh của Ngài).

Nơi Huỳnh-Kim-Khuyết trên đầu của Ngài nơi xa xa chúng ta thấy vọi vọi, xa nữa chúng ta thấy ba vị Phật mà hiện giờ ta thấy tượng hình trên nóc Bát-Quái-Đài là Brahma Phật, Civa Phật và Christna Phật.

Ngự trên nữa, xa hơn nữa cao vọi-vọi xa-xăm hơn nữa chúng ta không thể gì tưởng-tượng được. Con mắt mình ngó thấy như một đạo hào-quang chớp nhoáng mà không có hình-ảnh gì hết, chiếu-diệu trên cái triều-nghi của Ngài là Huỳnh-Kim-Khuyết, mà dưới Huỳnh-Kim Khuyết là Cửu-Phẩm Thần-Tiên đương ngự triều với Đức Chí-Tôn, oai nghiêm, chúng ta không thể gì tưởng-tượng được.

Oai-nghiêm huyền-bí làm sao, làm sao! Không miệng lưỡi nào tả hình ảnh ra đặng. Nếu may duyên mà chúng ta đoạt Pháp đặng, đoạt-vị đặng, thì dầu chúng ta hàng phẩm dưới cũng không cần gì mơ-mộng tưởng-tượng gì hết, Pháp-thân của chúng ta cũng đến mức đoạt-vị đặng. Còn nếu chúng ta dòm lên thì thấy địa-vị của chúng ta không thấm vào đâu hết, mà hễ dòm lên cao nữa mà so sánh thì địa-vị chúng ta không có nghĩa lý gì hết.!

Còn nếu chúng ta bị đọa thì hại thay, khổ thay, đau-đớn thay, chúng ta thấy cái Triều-nghi xa tuốt mút khỏi con mắt ta rồi nó biến mất. Chúng ta thấy đứng bơ thờ, không biết thân hình đến mức nào hay địa-giới nào, hay mình đến đâu, chỉ đứng đó mà chịu một tấn-tuồng thảm khổ vô đối. Hại thay, cả tội tình đều hiện ra trước mắt chúng ta không thể gì chối cải được, đứng chịu một cách thảm khổ, mình xử lấy mình, hễ xử rồi thì từ từ hạ lần xuống cho tới cửa trần-gian, ấy là cửa Phong-đô đó, chúng ta tự-xử chúng ta đó vậy.

Bây giờ luật triều-nghi của Cửu-Phẩm Thần-Tiên chúng ta ngó thấy khi chúng ta may duyên lập được một địa-vị khả quan, đừng suy đoán, chúng ta sẽ thấy các Đấng ấy cao sang vinh-hiển dường đó. Có nhiều Đấng đến gần Đức Chí-Tôn xấp-xỉ cùng Đức Chí-Tôn cao sang vinh hiển dường ấy, họ đã đoạt đặng huyền-bí mà chúng ta ngó thấy những vinh-quang đều hiện ra một chữ khổ. Các Đấng ấy lập vinh-quang cao trọng là thắng khổ đó vậy. Họ đoạt được cái quyền-năng vi-chủ của họ mà cái khổ muôn triệu vô số trong kiếp sanh của họ, họ đã chịu mà lập-vị vinh-quang. Chính mình ngó thấy ngay Đức Chí Tôn thấy chữ khổ mà Ổng là càn-khôn vũ-trụ, bởi vì Ổng có quyền-năng vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là tại mình không đủ can đảm, không đủ tinh-thần chịu khổ, sợ khổ rồi không biết vi-chủ cái khổ”. (Con đường Thiêng-liêng Hằng sống)

Yếu tố tam tài rất quan trọng, tuy nhiên trong ba yếu tố này duy chỉ yếu-tố về Nhân là yếu thiết hơn cả. Vì sao? Vì hai phần Thiên và Địa thì Đức Chí-Tôn đã toan liệu, sắp sẵn đâu đó. Chỉ có ở con người phải tự chúng ta chuyển cái tâm cho phù hợp với vũ trụ, với đất trời là được toàn vậy. Các vì Thánh nhân đã nói:

Thiên thời, địa lợi đôi điều sẵn,
Chỉ thiếu hoà Nhơn để hợp quần.
Thiên thời, Địa lợi đôi điều sẵn,

3/- Yếu-tố NHÂN:

Trước khi làm Môn đệ, Đức Chí-Tôn đã chọn lựa cả rồi, đã tắm rửa từ xác đến hồn cho người được trong sạch cả rồi.

Vì sao ta dám khẳng định?

Bởi Chí-Tôn đã chuẩn bị ngay từ buổi ban đầu:

Khi một người muốn làm Môn đệ của Chí-Tôn phải lập Minh thệ. Hỏi khi đã thề như vậy mà chúng ta giữ đúng có được thăng vào Tam thập lục thiên không? Tất nhiên phải có! Còn nếu phạm tội có bị xử phạt không? Nhứt định cũng có! Vì đây là Thiên điều, là luật. Đối với Pháp-luật đời khi đã ra lịnh, ra án rồi mà người công dân có phạm tội thì Toà án chả lẽ không xử nghiêm minh! Huống chi đây là Thiên luật! Mặc dầu Đức Chí-Tôn không bao giờ phạt, không bao giờ giết, mà còn yêu ái vô tận vô biên, nhưng vì người không chịu làm một đứa con ngoan để xứng đáng hưởng sự yêu ái ấy, chứ nào phải Chí-Tôn thương riêng hay ghét riêng một đứa con nào!

Điều này tất nhiên Chí-Tôn khởi ở con người, chuẩn bị ngay từ khi còn là trứng nước kia mà. Ngài cũng đã nói rằng:

(Dimanche 30 Mai 1926. 19 tháng tư (Bính Dần)

Thầy chẳng hiểu thế nào chư Môn đệ ám muội dường ấy?

"Chiêu kỳ trung độ dẫn hoài sanh" là nghĩa gì?

Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ; sao các con lại đuổi thiện nam tín nữ?

Rồi Thầy còn ân cần nhắc nhở tiếp:

Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo-hoá cũng đồng sinh.
Đạo Đời tua biết Đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

Nghĩa là sắp nhỏ của con dạy sau cũng nên người ở đời. Ấy là Đời. Nếu biết trọng Đời thì gắng dạy nó nên hiền. Một điểm quang minh là một hồn người; là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền. (Lời giải hai câu thi sau)

(Thánh ngôn I/ 10)

Tức nhiên làm bậc cha mẹ của con cái, thì chính người làm cha mẹ phải hiểu biết trước, phải tu học trước để rồi dạy dỗ cho con cái nên người hữu dụng, đạo đức, nhân nghĩa hoàn toàn. Đây là một quyết tâm.

Nhưng khi nhập vào trường của Đức Chí-Tôn là phải hứa, phải thề. Nghĩa là không dám lơ-là khi đứng trong lòng Thượng-Đế.

a/- Người Cao-Đài lập minh thệ:

Lời Minh thệ tức là lời hứa cùng với Thiêng liêng, với Chí-Tôn không bao giờ dám sai lời.

“Lời Minh thệ đối với vô vi là Luật Thiên-điều rất quan hệ cho Chức-sắc Thiên-phong, Chức Việc, Bàn-trị-sự cũng như lời Minh thệ của người mới nhập môn cầu Đạo là lời hứa trọn vẹn tín thành cùng các Đấng Thiêng-liêng và Hội-Thánh “không đổi dạ đổi lòng”. Nếu giữ tròn lời Minh thệ cho đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên vào Tiên-tịch, nhược bằng trái lại thất thệ vì “lòng một dạ hai” thì rất uổng một kiếp sanh may duyên gặp Đạo”.

Tính cách quan trọng của lời Minh thệ:

Vì tầm mức quan trọng của lời Minh thệ dường ấy nên Hội Thánh lúc nào cũng ân-cần nhắc nhở.

Đến khi lâm chung bài Kinh cầu hồn khi hấp-hối có câu này và chính đây là sự quyết-định do lời Minh-thệ:

Ớ, Tên họ …Thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí-Tôn linh hiển độ sanh.
Ăn-năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh thệ gởi mình cõi thăng.

Lời Thầy cũng dạy bảo trong buổi khai Đạo rằng:

“Chư Môn-đệ đã lập Minh Thệ rồi, ngày sau tùy Âm chất mỗi đứa mà thăng, hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa mười hai người”. (TNII/12)

Bởi Cao-Đài Đại-Đạo ngày nay Đức Chí-Tôn có dạy rõ: trên có Tam Thập Lục Thiên (36 từng trời), dưới có Tam Thập Lục Động (36 cõi đất) đó là tượng trưng hai cảnh đọa thăng của con người. Vì vậy mà lời Minh thệ có 36 chữ. Điều ấy chứng tỏ rằng ai giữ đúng chơn truyền của Đại-Đạo thì đường Tiên thong-thả:

Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
Nhập trong Bát-quái mới vào Ngọc-Hư.

Còn nếu người nào thất thệ với Đức Chí-Tôn thì Tam Thập Lục Động lại mời.

Đức Hộ-Pháp cũng nói:

“Về phần Môn-đệ của Đức Chí-Tôn từ buổi đem thân vào cửa Đạo, trong lúc Nhập môn đã quì trước Bửu điện có Bàn Ngũ-Lôi mà lập Minh thệ. Vậy mà:

Than ôi! Cho những người thề như vậy mà cũng không để trọn Đức tin nơi Đức Chí-Tôn lại thối bước ngã lòng, cởi áo Đạo dẹp khăn tu, mong mỏi xu-hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.

Vậy thì ai là người thất thệ với Chí-Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn-năn sám hối cầu xin Đại-Từ Phụ cùng các Đấng Thiêng-Liêng Từ bi ân xá tội-lỗi tiền khiên thì họa may đặng chung hưởng ân huệ của Chí-Tôn ban cho sau này” (ĐHP: 15-9 Bính-Tuất 1946)

Do đó mà phải xét mình trước khi vào Đạo để chính mình nhận định cho kỹ, hầu tạo cho được Đức tin và sự chí thành. Kinh có dạy:“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”

Khi vào Đạo rồi tự mình nâng cao phẩm giá mình vào lối cao thượng. Cao thượng hơn người thường nhơn còn nhiều hèn kém và lao khổ này.

b/- Trong các bí-pháp có mầu nhiệm đắc Đạo, Pháp Chánh-Truyền có dạy rằng:

…Nhờ Ngài và Hội-thánh cầu khẩn, Thầy mới giáng bút truyền các Bí-pháp ấy cho Hộ-Pháp:

“Mừng thay cho nhân loại chút ít rồi. Hội-Thánh chơn truyền Tân pháp đã đạt đặng như phép “Giải-oan”, phép “Khai sanh môn”, Ban Kim quan…lại còn nhiều Bí pháp nữa mà Hộ-Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng sanh và Hội-Thánh còn mờ hồ không nạp dụng. Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng-liêng và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát-Quái-Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành pháp vì thuộc về quyền hành của các Đấng ấy; ngày nay mới tính sao? Trong các bí-pháp có mầu nhiệm đắc Đạo, bây giờ các Đấng ấy cho hay là không? Thảm!...Cười. Nếu Lão có phương chỉnh đốn nền Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu Trùng Đài cũng đã yểm quyền Bát-Quái-Đài mà chớ! Thật vậy đó chút”

c/- Đạo mở tức là Cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn:

Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa có nói:

“Người mới Nhập môn vào Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước.

Phép này cũng là một Đại Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ) thì được nhẹ nhàng rất nhiều rồi.

Ngoài Bí-Pháp giải-oan này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và đặc biệt nhứt là phép xác và phép độ thăng.

Người Tín-hữu Cao-Đài nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là hưởng được phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh-hồn không còn bị ràng buộc với thi hài bởi 7 dây oan-nghiệt nữa nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi Thiêng-liêng hằng sống.

Còn phép độ thăng là để giúp cho linh hồn những Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn”.

Cho chí đến Thiên-phong Chức-sắc như hai vị Đầu-sư khi lãnh nhiệm vụ cũng phải thề. Thánh ngôn dạy:

“Cả thảy Môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống, biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc, đặng Thầy trục xuất Chơn Thần nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức xông hương tay của chúng nó, như Em có giựt mình té thì đỡ.

Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, quì đến trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:

"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên Ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng Thiên, Hậu Thổ, trước Bửu Pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn Thiên Ðạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."

Ðến bàn Vi Hộ-Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, đều câu sau thì như vầy:

"Như ngày sau phạm Thiên Ðiều thề có Hộ-Pháp đọa Tam Ðồ bất năng thoát tục."

Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa "Phục vị", thì nhị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai. Chư Môn-đệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.

Tới phiên các Môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:

Tên gì? Họ gì? “Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục." (36 chữ)

Tới trước bàn Hộ-Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị Ðầu Sư.”

d/- Cơ khảo thí:

Qua bao sự dẫn chứng trên để thấy rằng mỗi mỗi đều được Đức Chí-Tôn tắm gội bằng nước Ma-Ha cả rồi. Nhưng chưa khi nào được toàn như lời Thầy mong ước. Cũng bởi đó mới có cơ khảo thí lọc lừa của Chí-Tôn trong buổi này mà thôi: “Khảo thí lọc lừa tường hắc bạch”.

Thầy dạy:

Như Nhãn, con nghe Thầy:

Khi giáng trần "Chí Tôn Phật Tổ", Thầy duy đặng có bốn Môn đệ, chúng nó đều chối Thầy.

Khi giáng lập Ðạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ.

Khi lập Ðạo Thánh, thì đặng 12 môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình, thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa.

Còn nay, Thầy đã sắm sẵn Môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng thối chí. Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên Thầy nôn nóng, nhưng thiên cơ chẳng nghịch đặng, ma quỉ hằng phá chánh mà giữ tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi. Còn cái địa vị cao trọng nó làm cho nhơn tâm ganh gổ, con phải lấy Phật-Tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.

Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng tạo hóa. Con cứ lo lập luật, để công phổ độ cho chư Đạo hữu con hưởng chút ít.

Lâm thị ái nữ, nếu Thầy phải đổ tội cho ai thì Thầy phải nói vì con phổ độ trễ, con nêu ra sự ngăn cản ấy, con hiểu tại sao chăng?

- Tại lời dèm pha của phái phụ nữ mà ra nỗi ấy!

Các con phải gắng sức, Thầy hằng ở bên các con, chẳng hề bỏ các con buổi nào, thì tưởng chưa ai phá Ðạo đặng.

Như Nhãn, con nhớ lời tiên tri của Thầy, đọc Thánh Ngôn lại.”

6- ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN KHÔN VŨ TRỤ

Đức Hộ-Pháp thuyết tại Ðền Thánh, thời Tý mồng 9 tháng giêng năm Mậu Tý (dl. 19-02-1948)

“Vì cớ nào đã 23 năm mà nhơn loại chưa hưởng được hồng ân của Chí Tôn chan rưới nơi mặt thế này?

…Bần Ðạo đã thuyết mấy kỳ trước: Một nền Chánh giáo dầu Bí-pháp, dầu Thể-pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền Chánh giáo. Ngày nay là ngày Chí Tôn đến cùng ta, kỹ-niệm nầy, bất tiêu bất diệt. Bần Ðạo đã thuyết vì cớ nào từ tạo Thiên lập Ðịa đến giờ, nhơn loại vẫn khư khư tầm Ðạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn loại trên địa cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta còn tồn tại đây, theo Chơn pháp để lại tính ra đến nay là 3 lần 36 ngàn năm. Thành ra từ mặt địa cầu có nhơn loại đến giờ là 108.000 năm. Trong 108.000 năm biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn loại đã quên Chí Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ mãi mà thôi? Bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng.

Tại sao không nhớ Ngài không đặng?

Nhơn loại đang đi tìm, khao khát cái danh từ, tên tuổi của Ngài. Các dân tộc đang tìm tòi vì biết nhìn Ngài là người chủ quyền tạo đoan Càn Khôn Thế Giới. Ai đã dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn lý chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn tìm tòi mãi điều ấy mà thôi. Bần Ðạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu tri hữu giác cũng vẫn tìm Người mãi mãi.

Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rõ ràng không âm thinh, chỉ có sắc tướng ta thấy chắc trí giác đã thế nào. Bần-Ðạo xin hỏi đá tìm ai? Kiếm ai mà cục nầy chồng chất lên cục kia, leo trên nhau mà thành ra hòn núi?

- Ðặng tìm kiếm khối sanh quang của nó.

Vật hữu sanh, chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình, nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai? Tìm Ðấng Tạo Ðoan. Ấy là vật vô tri vô giác. Còn người tại sao bỏ không đặng? Hễ không bỏ Ðấng Tạo Ðoan đặng thì phải tìm tòi mãi, gọi là tầm Ðạo. Ðạo là cơ quan bí mật làm cho Trời Người hiệp một trong sự sống của Càn Khôn Vũ Trụ, nên con người vẫn đi tìm nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi tìm Ðạo đó.

Chúng ta buổi mới sanh ra còn anh hài không đủ trí thức xét đoán, chúng ta đã thấy gì? Thấy trước mắt vạn vật hữu sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn vật đối với sự sống của ta rất hữu tình như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh thần con người tự tỉnh. Quan niệm của vạn vật đối với con người rất nên mật thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người, tình thân ái giao hảo vẫn liên quan mật thiết. Chúng ta thấy cọp beo, sấu, hùm, gấu làm cho ta sợ sệt sự hung-dữ của nó có thể hại sanh mạng của ta được, nên mới kiêng sợ như vậy. Ngoài ra toàn vạn vật đều có tình hữu ái đối với ta “Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật”. Ta thấy cả vạn vật ấy đối với ta rất có cảm tình, bởi lẽ đồng sanh, như đứa con nít thấy con bướm đẹp-đẽ thì mê lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì sợ sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Ðạo.

Lớn lên chút nữa, biết ái-tình chung trong gia đình hay xã hội, biết thân danh chung. Phận-sự của người giữ Ðạo là giữ sự đồng sống trong khuôn khổ xã hội, tức nhiên tìm mối đồng sanh của cơ tạo đoan ấy. Thân danh ta đối với xã hội nhơn quần, ta thấy xã hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào? Thật sự là tìm phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi. Vì sự sống của vạn-vật, của loài người sản xuất do Ðấng Tạo đoan là Chí-Tôn, nên chữ Ðạo nó liên hệ mật-thiết với loài người thế nào thì nó liên hệ mật thiết với Chí-Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ diệt cho tiêu tan ác nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn loại, như nhắc nhở họ phải tôn sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn sùng, tức nhiên phải nhìn Ðấng Tạo-đoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt điểm linh quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu hiệu cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh thần của Thánh Hiền hay sống theo tánh hung bạo tàn ác của con vật? Cốt yếu đem cái sống Thánh Hiền ấy là cái sống của Chí-Tôn ban cho, là vật báu để trong mình, vật ấy quí hóa không phải hèn hạ.

Giờ đây Chí-Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn loại biết tôn trọng sự sống ấy trong khuôn khổ của Chí-Tôn định, hiệp tâm lý trở lại làm một trong tình thân ái Đại-đồng. Chơn-pháp của Chí-Tôn đem đến với chúng ta đã 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đã mang danh thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự mình lập phương pháp làm kiểu mẫu cho thiên hạ nhìn Ðạo Cao-Ðài là Chánh giáo, thế nào làm khuôn mẫu cho cả toàn tâm lý loài người đồ theo thì chúng ta thất hiếu cùng Chí Tôn lắm vậy!”.

7- Văn-Vương ở Dữu Lý chịu bảy năm ngồi ngục

Đức Hộ-Pháp là người nắm Pháp của Tam-Kỳ Phổ-Độ, tức nhiên là Giáo-Chủ của nền Đại-Đạo ngày nay.

Xưa Vua Văn-Vương ở Dữu Lý chịu bảy năm ngồi ngục mà làm nên bộ Kinh Dịch truyền lại cho đời, rồi gầy dựng sự nghiệp nhà Châu buổi nọ.

Nay Đức Hộ-Pháp Giáo-chủ Đạo Cao-Đài thọ nạn để giải ách nô lệ cho dân tộc Việt Nam vào ngày 25-6 Tân Tỵ (1941) Đức Ngài chịu 5 năm 2 tháng (5+2=7) bị lưu đày sang Hải Đảo Madagascar ở Phi châu như Văn Vương bị giam ở Dữu-Lý vậy, nhưng Đức Ngài còn kém hơn Vua văn Vương những 1 năm 10 tháng kia mà!

Đức Hộ-Pháp, Ngài nói rằng:

“Thọ lãnh thiên mạng với chơn lý chánh đáng là một Giáo-chủ hướng dẫn con cái Đức Chí-Tôn với một tinh thần đạo-đức trong phạm vi đạo giáo mà thôi.

Lấy một thiên tài, phận sự một công dân tạo hạnh phúc cho giống nòi Việt-Nam, gây dựng lập trường vững chắc và mới mẻ, chờ tiếp rước bậc hiền nhân, chí sĩ do giọt máu con Hồng cháu Lạc tức là dòng dõi của tiền đồ lưu lại, thành lập quốc gia công bình, chơn chánh, vị tha, không ham danh, chẳng màng lợi, mới có thể thuần túy được.”

Nhưng, nợ trả vay xương máu chưa dứt sớm được là bởi số kiếp của dân tộc Việt-Nam, ách tương tàn cốt nhục vốn mãi kéo dài, khiến cho Pháp sớm đưa Đức Ngài về Tổ đình Tây-ninh vào ngày 22 tháng 8 năm Bính-Tuất (1946) tức là sau 5 năm 2 tháng. Sau khi bị lưu đày nơi Hải đảo Madagascar Ngài than rằng:

“Còn thiếu 1 năm 10 tháng mới may ra giải khổ, chấm dứt được, lẽ dĩ nhiên luật công bình tạo hóa, ta dầu muốn cũng không hề sửa cải được”.

Khi đến Mã Đảo (Madagascar) Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến ngày 24-11-1944, mới được ra ngoài làm lụng. Trong những năm tháng bị lưu đày khổ sở, Đức Phạm Hộ-Pháp luôn luôn được các Đấng thiêng-liêng che chở, thoát khỏi được nhiều tai nạn hiểm nghèo, mà người Pháp muốn dùng cách đó để gián-tiếp giết chết Đức Hộ-Pháp.

Trong khi bị lưu đày, Đức Ngài ra ngồi trên bãi biển, tay cầm một que nhỏ và tay kia khỏa cát cho bằng, thì liền có một Đấng giáng tâm để an ủi và báo tin cho biết tình hình chuyển biến của thế giới và Việt-Nam, đồng-thời cũng có tiên tri như bài thi của Linh Sơn Thần Nữ núi Bà Đen vâng lịnh Thất-Nương đến thăm Đức Phạm Hộ-Pháp.

NOSY-LAVA một đảo nhỏ ở về phía Tây Bắc của Madagascar, nơi mà Đức Hộ-Pháp bị lưu đày ở Hải Đảo.

Trong thời gian đó các Đấng có giáng Cơ thăm hỏi

Như vậy hình thức Cơ bút là một sự cảm ứng với huyền diệu Thiêng-liêng, cho nên dù bất cứ nơi nao, miễn có tâm thành là tiếp nhận được, nhưng việc này chỉ dành cho bậc Thiên mạng mới không ngại tà quái xung nhập.

Vai trò của Hộ-Pháp:

“Điều cần biết là khi đến lập giáo, trước tiên Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh truyền tức Hiến-Pháp của Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ độ rồi mới tạo Hội-Thánh lưỡng đài, nhứt thiết đều do Cơ phong Thánh.

Cơ phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài do Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm phò loan là “Cơ Đạo Pháp” trong khi đó cũng có nhiều cặp Cơ Phổ độ, dạy Đạo của chư vị Thập Nhị Thời quân.

Nhưng “Đức Hộ-Pháp là một chơn linh siêu việt mới đủ năng lực xây dựng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, tạo tác Tổ Đình đồ sộ với nhiều sự nghiệp bất hủ không còn ai phủ nhận được.

Việc cơ bút trong Đạo, Người đáng kể là bậc Sư Tổ”

Tất cả công việc làm nào của Ngài cũng đi vào qui tắc luật định, nên việc thọ khổ của Ngài cũng là một việc hy sinh để phụng sự cho Chí-Tôn, tức là hy sinh để cứu giống nòi như Chúa chịu thọ hình đóng đinh trên Thánh giá ngày xưa, vào thời tiền kiếp của Ngài là Chúa Jésus Christ.

Con số 5 năm 2 tháng chính là số Ngũ hành hợp với Âm Dương mà làm nên con số 7 (5+2=7) tức là 5 thể chất là: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ và Nhị khí.

Số 7 có đủ tính chất như số 1 đầu, tức là số của các số. Vì số 1 không gì có thể tạo ra nó, thì số 7 cũng không có một số nào ở trong thập tuần có thể sanh ra nó.

Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nữa nhứt điểm tinh thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.

Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu.

Thế nên mới có sự so-sánh với Vua Văn Vương ngồi ngục Dữu-Lý 7 năm còn Ngài chịu nạn 5 năm 2 tháng cũng đi vào con số 7 là vậy.

8- Đức Chí-Tôn cho 7 bài thi nói về Đồ Thơ

Xem trong Thi văn dạy Đạo đã ghi chép về sự quan yếu của Hà đồ và Lạc Thơ (nói chung là Đồ Thơ):

 

THI

1- Người đâu biết đặng tấc lòng mình,
Hoạ hỏi đến Trời mới biết linh.
Thiệt thiệt hư hư vì mắt thịt.
Thôi thì đợi chết biết tiền trình.
2- Tiền trình Thầy dạy trước con tường,
Đợi hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn,
Đến chừng ấy khá Đạo lo-lường.
3- Lo-lường cho rõ thấu Thiên cơ.
Biết đặng thì tua tính kịp giờ,
Khuyến thiện đã nhiều công cực nhọc.
Toan lo cho vẹn Đạo Đồ Thơ,
4- Đồ Thơ oằn-oại gánh nghiêng vai,
Mặc khách làng văn nhọc chớ nài.
Nghiệp nước nỗi nhà còn bận bịu,
Thanh nhàn chưa phải buổi xem mai.
5- Xem mai trông gặp trổ hai lần,
Như Đức Khổng xưa muốn thấy Lân.
Hờn gió, giận mưa hoài trí tính,
Thâu niên chẳng đoái chút tinh thần.
6- Tinh thần đầy xác mới tinh anh,
Đừng vướng nẻo Công với mối Danh.
Thường hứng gió Đông tua biết gió,
Đừng trương cánh nhạn chịu tan tành.
7- Tan tành khó nỗi kết làm nguyên.
Như chỗ non cao muốn quá thuyền.
Mình biết phận mình an thú vị,
Chẳng phen bằng Phật cũng là Tiên.

Nhất là hai câu thơ:

Đợi hạ sang năm mới tuyển lương.
Năm bảy năm sau nên nghiệp lớn.

Hai câu này cũng là đề tài để đoán vận mệnh cho cơ Đạo cơ Đời một phen thật là sôi nổi, nhưng đã “Cơ” thì nó là máy tạo huyền vi, đoán đúng khi nào sự việc được hiển lộ. Nhưng có điều cho ta một niềm tin lớn là vào ngày 01 tháng giêng năm Mậu-Tý (dl. 10-02-1948)

Đức Hộ-Pháp nói rằng:

“Ngày hôm nay, giờ nầy chúng ta vui một tí, năm Tý đến với chúng ta, nếu Bần Ðạo nhớ không lầm thì buổi Chí Tôn hành pháp có cho Bần Ðạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành Ðạo. Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Ðạo sẽ kết quả lời hứa của Chí Tôn với con cái của Ngài, thành Ðạo tức thành Ðời nơi nước Việt Nam đó vậy”.

 
 
   

Nếu tính từ ngày khởi khai Đại-Đạo là:

Nhưng nếu lấy móc thời gian là Giáp Tý (1924) là 1,

Qua Mậu-Tý (1948) là điểm thứ nhì. Nay là Mậu Tý là điểm thứ ba (2008) thì cũng đủ ba con chuột rồi vậy.

Lấy số thời gian 84 này chia cho 12 tháng của một năm thì được con số 7 “Thất phản cửu hoàn” tượng 7 bài thi. Hơn nữa “ba con chuột trước” là 24 năm (2+4=) là 6 Âm.

Từ Mậu-Tý (1948-2008) là một hoa giáp 60 năm lại là 6 là sáu Dương, bởi số 0 phía sau là đi vào Hư vô. Hai lần 6 cũng đủ 12, có phải là “năm bảy năm sau nên nghiệp lớn” không? (5+7=12) Số 0 trên cũng là tâm tức ứng với ngũ trung, chính là chữ “năm sau” đó vậy. Đem 1+2=3 là tam tài vẹn vẻ. Đoán vui tí mà!

9- Giá trị số 7=3+4
Thất đầu xà” (là rắn bảy đầu)

Thất đầu xà đây là chỉ về 7 thứ tình của con người, mà khi làm người thì ai ai cũng có 7 thứ tình ấy, duy khác nhau là do trình độ tiến hoá về tâm linh mỗi người thôi.

Số 7=3+4 chỉ về Người hoàn toàn là một Tứ nguyên tố cùng một tam nguyên tố kết hợp. Nghĩa là 4 thể chất và 3 thể khí. Tức nhiên là (3+4). Ba là tượng cho ba thể chất: không khí, nước và đất và 4 thể chất là: Kim, Mộc, Thủy, Thổ.

Đạo là lý, cho nên học Đạo thì phải suy lý, vì vậy nếu không am tường chơn lý, vô tình làm đầu đề cho sự mỉa-mai Tôn-giáo và làm hoang-mang cho những tâm hồn nặng mang tinh thần khoa học rồi không biết nghe ai !

Ngày nay Đạo Cao-Đài có giải rõ: người có bảy thứ tình, mà tình cảm nếu không biết chế ngự thì nó hung hăng, dữ tợn, nguy hiểm và độc hại không khác nào rắn độc; nhưng nếu rắn độc thì chỉ có một đầu, còn người mà ác độc thì sự nguy-hiểm gấp đến bảy lần như vậy, vì thế tượng trưng bằng “Thất đầu xà” (là rắn bảy đầu)

1/-Diễn tả:

Hình ảnh thất đầu xà được đặt ngay “Bán nguyệt Ngũ Lôi-đài” của Hiệp-Thiên-đài Tòa-Thánh Tây ninh. Nơi đây, có hình tượng của ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn là Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh. Bảy đầu rắn quấn vào chiếc Cẩm đôn, mà thân tượng của các Ngài đứng trên Cẩm đôn ấy.

 

Từ phía dưới cẩm đôn của Hộ-Pháp ngóc lên ba đầu mang chữ: HỈ, ÁI, LẠC; bốn đầu còn lại cúi xuống, cái đuôi quấn vào Ngai của Đức Thượng-Sanh, choàng cái mình qua quấn vào Ngai của Đức Thượng-Phẩm. Bốn đầu còn lại mang chữ: AI, Ố, NỘ, DỤC.

Khi Hộ-Pháp ngồi trên Ngai thì hai chân đạp lên hai đầu rắn có chữ “AI, NỘ” hai tay đè lên hai đầu rắn có chữ “Ố, DỤC” ý-nghĩa là chế ngự Thất tình; khác với Phật giáo là chủ trương “diệt Thất-tình”.

Còn “chữ KHÍ” đặt phía sau lưng Hộ-Pháp tượng trưng “khí sanh quang” của vũ-trụ. Vạn vật nhờ khí sanh quang mà sống, nếu dứt thì vạn-vật phải chịu hủy-hoại.

Đền-Thánh là nguồn cội của Khí-Sanh-quang của vũ-trụ và vạn vật.

BẢY MỐI TÂM-LÝ (thất tình) ấy tạo nên hình tướng loài người, lúc chưa phát ra gọi là TRUNG, phát ra đều và trúng tiết gọi là HÒA .

- TRUNG là gốc lớn trong thiên-hạ,

- HÒA là con đường đạt Đạo trong thiên hạ.

Đạt được đến mực TRUNG HÒA thì thiên địa sẽ vận hành đúng ngôi vị của mình, vạn vật sẽ được sanh hoá cũng như cái tình cảm của nó. Sự việc ấy diễn tả rõ đến cái lẽ biến hóa từ gốc đến ngọn.

Thất tình đã tạo nên hình tướng của loài người. Chính bảy mối tình ấy cũng là bảy mối dây oan-nghiệt.

- Hễ có HỈ mới có NỘ

- Hễ có LẠC mới có AI.

- Hễ có ÁI mới có Ố.

Duy có mối DỤC đứng chủ-trung quyết định mà thôi. Nó có lập trường căn bản đặc sắc đủ quyền điều khiển; ấy là hình tướng thiên nhiên của tạo-đoan, nên Chí Tôn nói có Âm ắt có Dương, có nóng ắt có lạnh.

Nếu có Âm mà không có Dương là mặt trời, thì bảy trái địa cầu và cả nhơn loại đều chết hết. Nếu có mặt trời mà không có mặt trăng, là không Âm; thì cả vạn-vật và loài người không còn; nghĩa là không có Âm Dương thì không có càn khôn vũ-trụ.

Bảy đầu rắn quấn ba Cẩm-đôn của các Ngài (Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh) là tượng trưng cho TINH, KHÍ, THẦN hiệp nhứt. Người tu cũng đến mục-đích là hiệp TAM-BỬU mà thôi. Như vậy tu theo Đạo Cao-Đài là chế ngự thất tình, phải nêu cao ba Tình: Hỉ, Ái, Lạc và đè xuống bốn tình còn lại là Dục, Ai, Ố, Nộ

Thế nên, Đức Hộ-Pháp nói: “Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chân tánh”.

Chính cái tình DỤC nó khiến ta làm nhiều điều tội lỗi cũng do ăn, uống, ở, mặc mà ra.

Hằng ngày sát hại bao nhiêu sanh vật, ăn vào chất chứa trong bao tử khác nào một “nghĩa-địa” của loài cầm thú, vì vậy nên mới gọi đây là “nhứt tỳ”. Khi xác thân này chết thì đem chôn nơi đất “nhị tỳ” tức là nghĩa-địa thứ hai, hay là nghĩa-trang; là nơi chôn xác con người đó vậy. Đã gọi là đất để chôn thây thì có còn chăng là những hồn hoang phảng-phất gọi là “MA” hay là “quỉ”. Thử hỏi nếu ta ăn những thức ăn động vật thì hằng ngày có phải ta sống với “ma” hay không? Chính tư-tưởng ta cũng bị ảnh hưởng về sự nóng giận không ít, nhưng gần đây nhứt là nhiễm nhiều thứ dịch bịnh do các thứ động-vật mà ra.

Cuộc đời này lắm bệnh mới phát sanh, hỏi tại sao?

Câu “Bệnh tòng khẩu nhập, hoạ tòng khẩu xuất” cũng không còn chuyện lạ nào nữa. Bệnh tật là do bởi ăn uống. Hằng ngày người miền ngoài thường kêu lên bởi ăn thức ăn ngộ độc, khi mà món ăn thông dụng không thể bỏ được. Giờ này bị độc phải bị bệnh như tiêu chảy cấp chẳng hạn. Bệnh này tái diễn mãi, cũng bởi cứ ăn mãi thì nguy cơ khó tránh. Thầy đã nói: Vì ăn cho phải bị đoạ, vì dâm cho phải bị đày là vậy

Với người Cao-Đài chắc không quên lời thơ của Đức Hộ-Pháp đã cho trước khi Ngài nhập tịnh nơi Trí Huệ-Cung, ngày 16-01 năm Tân-Mão (1951) như trên đã nói “Gắng tu cho kịp Hội-Long-Hoa” (trang 324).

2/- Nguyên căn sản xuất Thất tình:

Các Bạn có biết Phật Mẫu là ai?

Ngài dùng bảy ngươn khí tạo Chơn-thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí phách ấy làm Chơn-thần, tức là Nhị xác thân chúng ta; khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng-liêng ấy vẫn còn tồn tại. Hình hài thay đổi đặng, văn-hóa của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm, nhà Phật có nói: Nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng dừng mà thôi.

Chơn-thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo Hóa-Thiên là từng thứ chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Ðạo-Giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây. Bảy từng có liên quan lạ lùng với thất tình:

 
   

- Từng thứ 7, 6, 5 là ba tình: Hỉ, Ái, Lạc.

- Từng thứ tư là Dục (muốn)

- Từng thứ ba là Ai (Buồn)

- Từng thứ nhì là Ố (ghét)

- Từng thứ nhứt là Nộ (giận)

- Tới từng chót nầy thì xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.

Mỗi linh-hồn đều mơ ước tấn tới mãi, tới đạt địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận thiện, tận mỹ và linh-hồn ta có thể đạt vị đặng thì Phật-Mẫu đủ quyền năng binh vực con cái của Người nơi cõi Hư-linh vậy”.

Dầu cho về đạo-lý-học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái nguơn-linh của Đức-Chí-Tôn không hòa-hợp với nguơn-âm của Phật-Mẫu thì Thái-cực chưa ra tướng; Hễ Thái-cực chưa ra tuớng tức nhiên càn-khôn vũ-trụ này không ra gì hết.

“Chúng ta ngó thấy hành tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nưã nhứt điểm tinh-thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.

“Dầu cả nhơn sanh hay chúng ta cũng vậy, đều chịu ảnh hưởng của Thất tình.

Hình ảnh thật hiện con Thất Ðầu Xà mà ta thấy là hình ảnh của người đó vậy, bảy mối tâm lý ấy tạo nên hình tướng loài người, là do bảy mối tình”

Con người có bảy thứ tình cảm, tuy nhiên chỉ có mỗi một tình DỤC là nguy hiểm hơn hết, cho nên mới nói là Lục dục mà Thất tình; 6 cái tình dục là có thể: dục Hỉ, dục Ái, dục Lạc, dục Ai, dục Ố, dục Nộ. Ba cái dục sau này gọi là Tam độc: tham, sân, si. Nhà Phật nói ba con “ma lục tặc”chính là nó vậy.

Nếu người mà thường xuyên biết kiểm-soát tư tưởng và hành-động của mình, không cho thất tình quấy động và kềm chế được tánh nóng giận, tức là làm chủ được tình dục, đưa tư-tưởng hướng thượng; nghĩa là dục lên hay nói rõ hơn là chỉ lấy sự thương-yêu, vui-vẻ, mừng rỡ, làm phương châm cho cuộc sống hằng ngày, đồng thời diệt đi sự ghét-ganh, buồn, giận…thì đương nhiên chuyển được cái tâm hướng thiện và hướng thượng.

3/- Một biểu tượng của Thất tình:

Đức Shiva-Phật thổi ống Tiêu bảy lỗ:

Trên bức tượng Tam Thế Phật nơi đỉnh của Bát Quái-Đài Toà-Thánh: Đức Shiva-Phật mình trần quay về chánh Bắc, đứng trên Thất-đầu-xà tức là Thần hủy diệt, ngó qua phía hữu, ấy là ngôi thứ nhì tượng trưng phần Âm Dương, cơ sanh hoá cũng là cơ hủy diệt, ấy là ngôi Bảo tồn.

Phật Shiva cũng như Hộ-Pháp ngự trên Thất Đầu Xà để trừ bốn mầm độc trong bản thân nhơn loại, đó là Ai, Nộ, Ố, Dục. Nhìn vào thực tại Đấng đó cũng là hiện thân của Hộ-Pháp, nhưng thổi ống tiêu để thức tỉnh quần linh, hướng miệng ống tiêu để đưa sinh khí vào cung Chấn chánh Đông tức là cung Pháp, nơi tụ nguơn Thần. Nếu những tư tưởng quấy ở con người có dấy lên sẽ bị ngự trị phần Ai, Nộ, Ố, Dục của nhơn sanh, để giữ còn cái nguơn Linh của Thượng Đế,

Ống tiêu có bảy lỗ tượng cho Thất tình, nếu con người khéo tu biến thành Thất bửu cũng thể hiện cho Thất khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được Cửu khiếu nhờ kết tụ Tam-diệu sẽ chiếu ngần ánh Xá lợi. Nên Thích Lão định danh là Mâu Ni Bửu Châu hoặc Thử Mễ Huyền Châu hay Cửu Khúc Minh Châu.

Diêu-Trì-Cung là nơi ngự của Đức Phật-Mẫu, ngày nay Ngài đến tại mặt thế gian này đã tượng-trưng bên Ấn Độ: Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Shiva-Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng ta để trên nóc, thấy có “Tinh Nhũ” nơi ngực của Ngài đó.

Hồi buổi Chí-Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái “Linh-Pháp” của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật.

Đức Shiva Phật, Ấn-Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc-chắn Nam Nữ (Âm-Dương). Đức Shiva trong huyết-khí tức nhiên là huyết, còn đào tạo Chơn-thần là do Đức Chí-Tôn.

Như trên đã nói người mà không chuyển được ba thứ tình: Ai, Ố, Nộ thì sẽ biến thành Tam độc

4/- Tam độc là gì? Tham Sân Si do đâu mà ra?

Tức nhiên là ba thứ tình cảm không tốt đó là “Tham, Sân, Si”. Nguyên nhân sinh ra Tam độc này là do AI là buồn cho đời mình thiếu thốn, nghèo khó, rồi không kềm giữ được lòng ham muốn, nên sinh lòng “Tham”, muốn cướp của người khác, nhiều khi gây tội lỗi như các vụ án giết người, cướp của chẳng hạn.

Khi có người nói đúng nhược điểm rồi sinh giận (Nộ) Từ chỗ “Giận mất ngon” nên “Sân” hận đời rồi trả thù, cũng nguy hiểm lắm vậy.

“Si” là đam mê, ham muốn quá mức không kềm chế được, cũng do lòng ganh ghét, tỵ hiềm đủ thứ mà nên thế. Như vậy ba thứ tình cảm này phải được điều chỉnh cho hay đẹp, chỉ có gia công tu luyện, sửa đổi mới nên thôi.

Trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Phật-Mẫu đến nhìn con cái của Người và cho biết quyền-uy tối thượng của Người là tạo cả Chơn Thần, Thể phách chúng ta. Phật-Mẫu còn tạo ra tám phẩm cấp chơn hồn nữa.

Màu sắc tượng trưng cho Phật-Mẫu là màu vàng. Kinh xác nhận: “Phái Vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ”.

Con người thì có bảy tình gọi là thất tình nhưng chỉ có Lục dục, mà ba tình cảm tốt đẹp được phát huy là HỈ, ÁI, LẠC; còn ba tình cảm chưa tốt là AI, Ố, NỘ cần phải trau giồi, hướng thượng, đó là phong cách của người TU. Vì vậy Dịch nói là “Săn được ba con cáo” tức nhiên nếu không trau giồi ba tình cảm ấy thì nó sinh ra Tam độc là “Tham, Sân, Si” thì mối hiểm nó cũng nguy như “Ba con cáo” gian ngoa này vậy.

Nhưng nay nhờ có bàn tay Phật-Mẫu đến giáo hóa, khỏi phải bơ vơ, vì:

Trước kia trẻ vẫn mịt mờ,
Từ nay mới hãn Ơn nhờ Mẫu Nghi.
Đắc truyền khai mối Tam Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương…

5/- Tượng Thất tình bằng hình ảnh chữ Phi 非 là không. Tại sao Phi là không?

 
   

Chữ Phi 非 chính nghĩa của nó là không. Nếu xếp bảy thứ tình này vào hai bên của chữ Phi thì bên trái có ba tình: Hỉ, Ái, Lạc, tượng phần Dương.

Bên tay phải có ba tình: Ai, Ố, Nộ, tượng cho phần Âm.

Chữ Dục đứng ở giữa. Như vậy thấy rõ nếu người tu là tự mình biết khai thông các đức tính tốt vì nó ở tận thâm cung của đầu óc. Còn nếu thiếu tu tức nhiên hay giận, buồn, ganh ghét, vì những tính này tận bên ngoài dễ xuất hiện. Thử nhìn bên ngoài xã hội, người nóng nảy, la lối, thì nhiều, mà người điềm tĩnh thì ít. Vì sao?

Nếu người tu là biết cho thất tình này dục lên, nên thành cao thượng; trái lại dục xuống thì thấp hèn là vậy. Do vậy Đức Hộ-Pháp có lời khuyên: “Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chân tánh”.

Có nghĩa là không thái quá cũng đừng bất cập, với sự vui buồn thường tình, tức nhiên coi như trở về không, có nghĩa là đã cân bằng nhau rồi, vì vậy hình ảnh chữ Phi trên mới có nghĩa “Không” là vậy.

10- Bảy bước đến thành công

Tiền nhân thường nói là “Bảy bước đến thành công” hay là “Đi hia bảy dặm” là do ở lời của Phật nói.

Truyền thuyết rằng khi Phật vừa sinh ra đời, Ngài bước tới bảy bước, mỗi bước đi của Ngài nở hoa sen, xong một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói “Thiên thượng, thiên hạ duy Ngã độc tôn”, câu nói này có nghĩa rằng con người vốn có đủ thất tình, nhưng phải biết hướng thất tình thành thất bửu, bởi mỗi bước đi có nở hoa sen, tức là thất tình này hoàn toàn được trong sáng như sen. Bấy giờ người mới xứng đáng vào ngôi Tam tài, sánh cùng trời đất. Vì trên là trời, dưới là đất, giữa là người, chỉ có con người duy nhứt mới được tham dự vào chuyện của trời đất mà thôi, chứ câu này thường bị hiểu lầm. Lời trong triết, trong Phật thường rất sâu xa, “ý tại ngôn ngoại” là vậy. Hơn nữa chữ Phật 佛 chính là nhơn và phất là người hoàn toàn.

Tại sao phải là 7 bước?

 
   

Vì con người khi đã được đứng vào hàng phẩm Tam tài là Thiên Địa Nhân rồi nên biết rằng tất cả đều có lý Âm Dương của nó luôn hoà quyện vào nhau:

- Đạo Trời là do Âm Dương kết tụ .

- Đạo người là Nhân Nghĩa.

- Đạo đất là Cương Nhu.

Nếu lấy quẻ Kiền làm biểu tượng cho Tam tài, thì mỗi tài cũng đủ cả Âm Dương của nó.

Nhưng dù là trời, đất hay là người đều chung chịu trong một quyền năng của Thượng-Đế cho nên khi hai quẻ Kiền Khôn họp nhau dưới hình thức một ngôi sao sáu cánh tức là Tam Âm tam Dương gát chồng lên nhau thì luôn có một cái tâm để định cho vòng tròn ngoại tiếp của nó tức nhiên là có 7 điểm. Như vậy tâm 0 ở giữa đây là xác định cho điểm thứ bảy là quyền năng của Đấng Thượng-Đế luôn chi phối mọi nơi, mọi chỗ để nhắc nhở cho nhân loại biết rằng dù ai tài giỏi đến đâu cũng không qua luật của đất trời, như câu chuyện xưng là Tề Thiên mà cũng không qua phép Phật là vậy. Những kẻ chống trời sau cùng thì chịu hạn hán, lũ lụt thất mùa đói khổ thì mới kêu lên rằng Thiên tai!. Khi nhận biết là Thiên tai thì đã muộn quá rồi! Đáng tiếc vậy!

Số 7 do 1+2+ (2+2)

Số 7 là số ngưng kết do 1+2+(2+2)

Tức là Thái-cực cộng Lưõng-nghi và Tứ tượng.

Thái-cực là dương,Lưỡng-nghi là cơ biến tướng, tứ tượng là cơ sanh-hóa. Nhưng cơ biến tướng và cơ sanh hóa chạm nhau lại khắc nên số 7 trở thành số riêng biệt không có biến động; có nghĩa là trong trạng-thái yên-tĩnh ngừng nghỉ. Nên nó cũng ám chỉ vào thể âm. Số 7 cũng chỉ vạn-vật hữu tướng thành hình; trong thân người là thất khiếu ở trên đầu. Số 7 ấy là 1+2+1+2+1 cũng là thành số của (2+2+2)+1 nên vô cực là vi-chủ.

11- Đặc biệt là nghi thức cúng Đàn dâng Lễ Chí-Tôn
Đờn Bảy bài

Trong các thời Đại-đàn dâng lễ Đức Chí Tôn có Đờn bảy bài, do Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy về ý-nghĩa của bảy bài đàn ấy, bởi trong các bài đàn này là thể hiện đủ tám món Nhạc khí của dân-tộc Việt-Nam. Chỉ duy hiến lễ cho Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế mới có bảy bài ấy là:

1- Xàng xê là khi trời đất mới sơ khai, chưa phân thanh trược, thuở còn hỗn độn.

2- Ngũ Đối thượng hay là bài Thượng, là khí thanh bay lên làm trời.

3- Ngũ đối hạ hay là bài Hạ, là lúc khí trược lắng xuống thành đất .

4- Long đăng là mặt nhựt chiếu sáng, sức nóng làm cho nước bốc lên thành mây.

5- Long ngâm là lúc mây gặp khí lạnh nên tụ lại thành mưa, từ trên trời rơi xuống.

6- Vạn giá là muôn vật đã định rồi, ấy là lúc nước hợp với đất biến sanh, khiến sản-sanh ra vạn-vật, gọi chung là chúng-sanh.

7- Tiểu khúc là những vật nhỏ-nhít đều có định luật của nó, khi đất biến ra Ngũ-hành sanh ra kim-thạch, thảo mộc, thú cầm đến loài người …

Đức Hộ-Pháp thỉnh giáo: Vì sao phải đờn bảy bài ?

Đức Chí-Tôn dạy:

“Thầy thích nghe những bản âý, vì nó có ý-nghĩa của sự Tạo thiên lập địa, là buổi mới có Trời đất. Còn Đảo ngũ cung có ý-nghĩa là qui trở lại, tức là qui cổ: đó là Vạn thù qui nhất bổn”.

Đức Hộ-Pháp bạch tiếp:

Nếu lấy những bài đó hiến lễ thì Thầy tư-vị dân tộc Việt-nam sao?

Đức Chí-Tôn phán dạy rằng:

“Trên thế-gian này chưa có nền Âm-nhạc cổ nào để rước Thầy mà đủ ý-nghĩa như Âm-nhạc cổ của Việt-Nam; nên Thầy chọn nó làm tiêu-biểu cho toàn cầu, cho nhân loại noi theo” (18-5-Bính-Dần 1.926)

Đức Hộ-Pháp giảng về Âm nhạc có lời rằng:

“ĐẠO CAO ĐÀI là nền Đạo qui pháp cả cái sống của Bát hồn mà dâng lễ trả cái sống. Khi mới phôi thai càn khôn do nơi hai khối khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho CHÍ-TÔN tức là qui pháp cho khối sanh-khí ấy, tức là CHÍ-TÔN vui và duy nhứt mà thấy sự sống trả lại cho Ngài.

Toàn đạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm mầu đạo lý ấy mà lần lần đạt cho được chơn pháp của CHÍ-TÔN.

NHẠC là hưởng ứng của cả khối sanh-quang của càn-khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-đông có câu “ Biều, thổ, cách, mộc, thạch, kim, dữ tư, trước nãi bát âm” . Các vật vô năng mà nói đặng, có trật-tự niêm luật hòa nhau là đạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến-lễ. (TĐII/80)

Chú thích

Bát âm là tám loại âm thanh phát ra từ tám nhạc khí cổ ở Đông phương. (Bát: Tám, thứ tám. Âm: Tiếng, âm thanh. Tám thứ âm thanh vang ra từ Nhạc)

Bát âm tương ứng với Bát Quái, là:

1- Biều 瓢 là cái bầu, tức là dùng quả bầu khô (Tiếng sên) tiếng sinh, kèn thuộc cung Tốn.

2- Thổ 土 (tiếng trống đất) Trống đất thuộc cung Khôn.

3- Cách 革(tiếng trống da) Tiếng trống da thuộc cung Càn.

4- Mộc 木 (Tiếng mõ gõ) Tiếng mõ cây thuộc cung Chấn.

5- Thạch 石 (tiếng đá) Tiếng khánh thuộc cung Cấn.

6- Kim 金 (tiếng chuông đồng) chuông thuộc cung Ðoài.

7- Ty 絲 (tiếng dây đàn).Tiếng dây đàn thuộc cung Ly.

8- Trúc (Trước) 竹 (tiếng ống sáo tre) Tiếng sáo tre thuộc cung Khảm. (dữ 與 nghĩa là và, với. Câu “dữ ty, trước”)

Bát âm là chỉ chung về âm nhạc:

“NHẠC cũng là một việc cần yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ ra vẻ long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành Lễ, trên thì hiến cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới là làm cho chúng ta, vì nghe đặng cái giọng tao nhã, nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng nhạc trổi mà lòng ta vẫn hân hoan mà quên bẵng cái mỏi mệt trong cơn hành Lễ hoặc có khoản vì cái thức phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thể thiền tâm vọng cầu các Đấng cho thấu đáo.

Có câu phương ngôn của bậc hiền triết miền Âu châu rằng: “La musique adoucit les moeurs” lại có nói Nếu muốn biết sự tấn hóa của một sắc dân, sau sẽ trở nên thế nào, thì duy có xem trong nét văn-chương và nghe giọng Nhạc của sắc dân ấy cũng đủ hiểu trước.

Huống chi Đấng Chí-Tôn ra công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại-Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước, mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn-chỉnh nghề Nhạc cho hoàn toàn hầu gìn giữ đường tấn hóa cho nền Đạo sao?” (Tiếp Lễ Nhạc Quân Mỹ Ngọc)

12- Bảy từng không gian:

Đây là giải về Không gian và Thời gian:

Không gian là một khoảng giới hạn vật chất hữu vi

trong đó vạn vật đang sống, đang tiến triển như thế nào.

Không gian là cái vòng chứa đựng vạn vật trong đó. Như vậy có rất nhiều không gian khác nhau:

1- Phàm thể không gian: tức là cõi mà nhân loại đang sống và trông thấy đây.

2- Thần trí không gian: là cõi mà chúng ta sẽ thấy trong lúc ngủ, ở cảnh trí.

3- Nhận chân không gian: là cõi của linh hồn.

4- Chân không không gian: là cõi cao hơn nữa.

5- Chơn như không gian.

6- Thái hư không gian.

7- Hư-vô không gian.

Đó tức là cơ hữu tướng của càn khôn vũ-trụ.

Còn thời gian là cái thời khắc chuyển biến của vạn vật tức là cái sự lâu mau để sinh hoá hay tiêu diệt Càn khôn.

Thời gian là cái lệ định cho vạn vật phải diễn tiến như thế nào trong một khuôn khổ đã sắp đặt trước cho vạn vật. Ấy chẳng khác nào hai cái lý tương tiếp gát chồng lên nhau, Âm Dương hỗn hợp, hữu hình và vô hình theo tiếng gọi của người đời thường vậy.

Không gian ấy là Dương, Thời gian ấy là Âm

Bà Bát-Nương giải thích:

Trong không gian lẫn lộn bóng thời gian để làm gì?

“Vậy thì cõi vô hình tức là Không gian ấy là Đạo đó vậy. Trong Không gian có lẫn lộn thời gian tức nhiên Thế nằm trong Đạo. Vậy thì Thế ở trong Đạo để làm gì? Có phải chăng là để cho thời gian trau giồi mà mở cơ tấn hoá đó chăng?

Bây giờ nói về Đạo-pháp thì thời gian nảy sanh từ Khí Lưỡng-nghi phân tách, tức là cơ tạo đoan phát diễn hành tàng. Vậy thì Thời gian lẫn lộn trong không gian như bóng với hình..

Khí Ngũ hành là cơ Thế tạo nên hữu vi sắc tướng lấy KIM MỘC THUỶ HOẢ THỔ mà tạo nên trường công quả cho không gian.

Lẫn lộn thế nào?

Trong Thế có Đạo, trong Đạo có Thế. Thời gian toả bóng ấy không gian, không gian tạo hình là Thời gian, tức nhiên là Thế Đạo cùng Thiên Đạo đó.

Thiên Đạo phải do nơi Thế Đạo làm hạ tầng cơ sở, còn Thế đạo phải nhờ Thiên đạo làm thượng tầng đoạt vị, đôi đàng phải nương nhau. Vậy thì thời gian do không gian chế ngự và Không gian do thời gian mà biến hoá.

Lẫn lộn rồi đến đâu?

Ấy là cơ siêu việt tấn hoá mà tạo nên Hư vô thanh khí, tức là cơ tạo đoan tấn hoá đến chỗ tận thiện, tận mỹ vậy.” (Trích: Luật Tam Thể của Đức Cao Thượng-Phẩm)

13- Về Y-lý

Thiên lý là con đường đi của từng sự vật, nên mới nói là gần Đạo: Biết được sự vật tức là ta thường nói biết được cái số mệnh của sự vât, là bậc quang minh sáng láng đắc Đạo vậy. Bất cứ sự vật gì xảy ra trong thế hệ đều theo những luật định của thiên nhiên ảnh hưởng bởi những tinh tú, ví dụ như:

1- Những thiên tượng và sinh lý của đàn bà như kinh nguyệt thường từng tháng theo Âm-lịch là 28 ngày (hay là 4 tuần lễ, mà mỗi tuần lễ là 7 ngày=28).

2- Sự động của thai nghén bắt đầu trong hạn từ 126 ngày (hay là 18 tuần lễ, mỗi tuần 7 ngày).

3- Cái thời hạn mà người ta gọi là thời có thể sống được là cái hạn độ 210 ngày ( là 30 tuần lễ, tuần 7 ngày)

4- Thời hạn khai hoa nở nhuỵ thì phải 280 ngày (hay là 40 tuần, mỗi tuần 7 ngày, hay là 10 tháng âm lịch là 28 ngày, hay là 9 tháng theo dương lịch, 30 ngày mỗi tháng và 10 ngày).

Xem như vậy thì những thời hạn nghiệm xét như trên là một dấu chấm, đánh dấu sự thành tựu từ đầu của sự sinh dục có thể thành cái căn bản để tinh toán về Thiên văn-học mà phần nhiều, nhiều nước dùng theo sự hành động trực hay gián tiếp của nó vậy.

(Các số còn lại đọc tiếp Quyển Tổng luận :XV)

►Xem tiếp >>>>>

 

Cập nhật ngày: 14-07-2009