
SỐ 2
Đặc tính VỀ CON SỐ 2:
Số 2 là số biến-hóa do số 1 mà ra. Một biến thêm 1 nữa thành 2.
Số 2 là số tịnh, ấy là cơ Âm Dương thuộc về Pháp. Pháp là tương liên nên phải nhỏ-nhẹ, mềm-mỏng. Ta thấy một bà Mẹ hiền-từ, ưu-ái, dịu-dàng. Số 2 chỉ vào lẽ ấy. Tóm lại số 2 chỉ cơ hòa-hợp Âm Dương.
Với Đạo-pháp thì ngôi hai là ngôi của Phật-Mẫu gọi là 2ème Logos.
1- Nguyên-lý VỀ VŨ-TRỤ:
Lưỡng-nghi là cơ Âm Dương phối hợp thì bất cứ vật chi chi trong trời đất này cũng đều do Âm Dương sản xuất, mà cũng gọi là lý Nhị nguyên đó vậy. Âm với Dương vốn là cơ động tĩnh, mâu-thuẫn nhau, tương-khắc mà lại tương hòa. Hai cái lý đối nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu diệt nhau.
Trời có sáng tối, người có Nam Nữ, vật có cứng mềm, đất có nắng mưa, vạn loại có trống mái, cho chí đến loài cỏ cây, sắt đá cũng có cái lý của Âm Dương. Một cái cây mới nẩy chồi thì ra hai lá đầu tiên ấy là hình tượng của Âm Dương đó.(Thậm chí đến một cái lá nhỏ-nhoi như vậy cũng có tính chất Âm Dương của nó: mặt trên lá là Âm vì nó mềm mại, bóng láng, luôn hướng về ánh mặt trời để Âm Dương cùng hoà hợp. Mặt dưới lá là Dương vì nó có gân cứng, thô, nên nó hướng về đất để nhận lấy Âm khí). Âm Dương vốn là cơ sản xuất, luôn luôn trong Dương có Âm và trong Âm cũng có Dương. Nho-gia gọi “Vạn-vật phụ âm nhi bão dương trung chí dĩ nhi Hòa” 萬物負陰而保陽中至以而和 là vậy. Tức là vạn-vật ôm ấp Âm Dương, đến mực trung dung thì gọi là hòa. Cơ hòa là cơ sanh-hóa.
Nhìn trên Đồ hình Âm Dương biến hoá thấy:
- Trong phần Dương lớn gọi là Thái Dương
số 1, có phần Âm nhỏ gọi là Thiếu Âm
số 2
- Trong phần Âm lớn gọi là Thái Âm
số 4, có phần Dương nhỏ gọi là Thiếu Dương
số 3
- Hai cái lý ấy gát chồng lên nhau gọi là Tứ tượng.
- Tứ tượng thành hình mới biến ra Bát-quái là căn bản của nhân-loại và vạn-vật.
Đầu tiên, Khí Hư-Vô tức là Hư Vô chi Khí hay còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí. Tuy nhiều danh gọi khác nhau nhưng cùng là một lý duy nhứt là Đạo.
Khí Hư-vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại-Linh-Quang, cũng gọi là Thái-Cực, hoàn-toàn sáng đẹp, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận, quyền hành thống cả Càn khôn vũ-trụ.
Bắt đầu từ đây Vũ-trụ đã xuất hiện ngôi Thái Cực duy nhứt và Đấng Chưởng-quản ấy được gọi là Ngọc Hoàng Thượng-Đế mà ngày nay người Tín-hữu Cao-Đài hân-hạnh xưng tụng Ngài là Đức Chí-Tôn, là Ngọc-Đế, là Đại-Từ-Phụ.
Đức Chí-Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương Quang và Âm Quang. Ngài Chưởng quản Khí Dương Quang. Đức Chí-Tôn mới phân thân ra là Đức Phật Mẫu là ngôi thứ nhì để Chưởng quản Khí Âm Quang.
Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân
Quan niệm của Thiên Chúa giáo cũng không ngoài Lý Âm Dương. Đức Hộ-Pháp cũng nói trong đêm Giáng sinh 1-12 năm Giáp-Ngọ rằng:
“Mỗi năm Bần-Đạo đã giảng về Đạo của Chúa Jésus Christ nhiều rồi. Nhưng hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói rằng: Tổ Tông của loài người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi vườn Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của chúng ta gọi là Tiên Cảnh.
Nhờ Đức Chí-Tôn ban cho một điểm linh-quang nên con người khôn hơn loài vật hữu sinh đồng chung sống với nhau, không biết chết là gì. Nhưng khi Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa-Đàng, không giữ lời dặn của Đức Ngài, ăn trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra khỏi Địa-Đàng. Vì lẽ mất nghĩa với Đức Chí-Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra cho kỹ giờ phút này nhơn loại khổ não là bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra khỏi Địa Đàng ấy. Vì cớ nên Ông cha ta trở nên phàm tục không còn vẻ Tiên phong Đạo cốt nữa nên phải chịu Luật Luân-Hồi là vậy”.
2- Giữa Đạo và Dịch có gì khác nhau?
Xét giữa Dịch và Đạo thì cái nguyên-nhân của Dịch Lý là do ở sự cảm tưởng cái căn-nguyên, cái mối đầu của vũ trụ, ở cái lý tuyệt-đối là THÁI CỰC.
Lý ấy chỉ có một ở trong vũ-trụ, do động tĩnh mà thành Âm Dương, rồi sinh ra vạn-vật; vạn-vật chung qui lại trở về Thái-cực; đó là cái lý cùng về mà lắm đường, một trí mà trăm mối lo “Đồng qui nhi thù đồ, nhứt trí nhi bách lự” mà Đức Khổng-Tử đã nói trong Hệ từ:
Cái lý ấy bên Lão-giáo gọi là ĐẠO 道
Bên Phật-giáo gọi là Chân-như 真 如
Danh-hiệu tuy khác nhau nhưng cùng một thể.
Xem ra, người xưa đã để rất nhiều thời-gian để nghiên cứu về môn Dịch-lý này. Trước mắt thấy Ngài Khương-Tử-Nha lúc chưa gặp thời thì Ngài lập chí, tu học ở chốn non cao, hằng ngày ngồi câu trên sông Vỵ, tức là ngồi ở Bàn Thạch mà “câu cá”. Thật ra “con cá” mà ông đã từng câu với cần câu không lưỡi đây là nói về quẻ Âm Dương như hình ảnh trên. Trong một Thái-cực-đồ như vậy giống như hai con cá nằm nghịch chiều nhau.
Tất nhiên người chưa gặp thời thì trau giồi chí lớn là học cho nhuần nhuyễn về lý Âm Dương, nghiên cứu Bát-quái, Ngũ hành đó vậy.
Nhà thơ Nguyễn-Công-Trứ đã nói lên điều ấy:
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,
Hiêu hiêu nhiên điếu Vỵ canh Sằn.
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn,
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
3- Thuyết Âm Dương
Trước hết Thái-cực sanh tâm, tức là ở trạng thái tĩnh biến sang trạng thái động do sự vận chuyển của Khí Hư-vô mà tạo thành Pháp. Hai lý Phật Pháp mới biến sanh Tăng đó là điều dễ hiểu. Phật, Pháp, Tăng đã có mới biến hằng hà sa số vô tận vô biên, nhưng tất cả đều ở lý duy nhất là Thái-cực.Vì vậy Đạo gia mới nói “Nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất bản” là vậy đó.
…Sau khi luân luân chuyển chuyển biến hoá mới tiến từ đẳng cấp mà có phân ra Phật Tiên Thánh. Sự thật là cũng một mà thôi.
Trên Ngọc-Hư-Cung cũng có hai lý tương phản ấy, nhưng lý Thái-cực mạnh hơn nên vi chủ. Luật thiêng liêng định vậy. Mỗi một chơn linh tấn hoá cao trọng thì tạo cho mình một linh đài, đó chẳng lạ chi là tạo gia nghiệp riêng của mình do các kiếp sanh của mình chất chứa từ thử. Đẳng đẳng linh đài nối tiếp nhau tạo thành một gia nghiệp chung. Tất cả chúng sanh đều có một gia nghiệp duy nhất, trên ấy vi chủ là Thầy, gần Thầy có chơn linh Cổ Phật cao trọng.
Trong vũ-trụ Chúa cả tạo-đoan ấy là Thầy nắm cả huyền-vi bí-mật trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là Pháp, Pháp tức là quyền-năng của Thầy thể hiện ra, cũng như lý Thái-cực ở trong cõi tịnh, rồi từ trong cõi tịnh lý Thái-cực phát động mới sanh ra Pháp. Pháp tức là những định-luật chi-phối cả Càn-khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật-Mẫu.
Sao gọi là Phật-Mẫu?
- Phật-Mẫu là Mẹ, là gốc sanh ra vạn-vật. Phật Mẫu nắm cơ hữu tướng. Phật-Mẫu là Âm còn Thầy là Dương. Âm Dương tương-hiệp mới biến ra Càn-khôn, cả Càn khôn ấy là Tăng, mà người nắm quyền vi chủ hàng Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền thế-giới. Phật và Pháp không biến đổi, còn vị cầm quyền thế-giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo mỗi thời-kỳ.
Không Đạo-giáo nào thuyết-minh rõ-ràng cơ tạo đoan lấy thuyết hỗn độn sơ khai phân chia:
- Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi thiên.
- Khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi địa.
Tức là hễ khí nhẹ thì bay lên làm trời, khí nặng rơi xuống làm đất. Ấy là giai-đoạn trời đất thành hình.
Trong vũ-trụ này có hai quyền-năng vô đối:
1- Là ngôi Chí-Tôn.
2- Là ngôi Phật-Mẫu.
Người ta không nói, nhưng luật thiên-nhiên dù ở trong vật tối thiểu hay tối đại vẫn có một Luật mà thôi. Biết đâu Chí-Tôn và Phật-Mẫu theo lời của Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn thì hai quyền-năng ấy vô đối, sản sinh ra cả Càn khôn vạn loại và tạo ra ba ngôi đầu tiên đó vậy.
Đức Shiva Phật là Phật-Mẫu:
Hồi buổi Chí-Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái “Linh-Pháp” của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật.
Đức Shiva Phật, Ấn-Độ làm một cái hình phân nửa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông. Bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc-chắn Nam-Nữ (Âm-Dương). Đức Shiva trong huyết-khí tức nhiên là huyết, còn đào tạo chơn-thần là Đức Chí-Tôn.
- Đức Chí-Tôn là Phật.
- Đức Phật-Mẫu là Pháp.
Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật ấy là do nơi Tinh mà ra, tức là Tăng.
Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn, Thần phân định Khí, khí mới sanh ra Tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Shiva tức Phật-Mẫu,Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ này.
Ấy vậy, Đạo-Phật thờ Phật-Mẫu chớ không phải không biết, dầu không thờ mà Đức Phật-Mẫu vẫn ngồi từ tạo thiên lập địa đến giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn Linh đó vậy.
Theo lý Dịch nói rằng trong Âm thì có Dương, trong Dương thì có Âm làm gốc.
Quả thật vậy, trong thân thể con người tuy phân nam nữ, nhưng dù Nam hay Nữ cũng có đủ yếu tố Âm Dương cho một cơ thể.
Ví như: trên đầu là Dương, dưới chân là Âm; đầu thì tròn, chân thì vuông. Phần trước là Âm vì có bụng mềm, sau lưng là dương vì có xương sống cứng, như vậy về hình dạng thì Dương là vật tròn, cứng; Âm thì vuông, mềm. Trong toàn thể con người: Bên trái là Dương, bên phải là Âm. Nhưng tay trái là dương thì có: cánh tay ngoài là âm (vì cánh tay ngoài có hai cái xương dài (số 2 là số âm), có 1 xương cho cánh tay trong (1 là số dương) Tổng cộng là 3, số tam tài. Ngoài có 5 ngón tay ứng với Ngũ hành. Hiệp chung thành 8 là Bát-quái (3+5=8)
Tay mặt cũng vậy (ngoài có 2 xương là âm, trong 1 xương là dương). Như vậy Âm Dương luôn đi liền nhau, chớ không bao giờ có tình trạng cô dương hay cô âm. Vì dương ở một mình thì không sanh. Âm ở một mình thì không trưởng “cô dương bất sanh, cô âm bất trưởng” những vấn-đề khác cũng tương-tự như vậy.
Nơi con người có 4 chi: hai tay, hai chân, có con số giống nhau, vậy nên người có 4 Bát-quái.
4- Lời Cầu nguyện Đức Phật-Mẫu:
“Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Tạo Hóa Huyền Thiên cảm bái,
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi năng hỉ xả, Thiên Hậu Chí Tôn Đại bi Đại ái”
Phật-Mẫu là Người cầm quyền năng tạo cả Càn Khôn Thế Giới gọi là Thiên Hậu Chí Tôn là Ðức Diêu-Trì Kim Mẫu Đại Từ-bi Bác-ái.
“Theo Bí-Pháp Chơn-Truyền của cơ sanh hóa phải có đủ Âm Dương, trong sanh quang chúng ta có điện quang (Positif và Négatif) cũng như vạn vật có trống mái. Nền Tôn Giáo nào có đủ Âm Dương thì mới vĩnh cữu.
Như Ðức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là Ðệ nhứt Tông Ðồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Âm Dương tương hiệp đúng theo Bí Pháp, nên Ðạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng.
Chí-Tôn có thể sai con của Người đến lập Ðạo như: Thích-Ca, Jésus, Khổng-Tử…Trái lại Người đã xuất nguyên linh của Người đến đây độ chúng ta, thì tưởng điều ấy trọng yếu hơn hết, khi mở Ðạo Cao-Ðài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến làm bạn với chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì không có ân đức nào bằng, vì không ai biết thương con hơn là Mẹ. Phật-Mẫu đến cầm quyền lập Ðạo xong, rồi giao lại cho Chí Tôn. Phật-Mẫu làm chủ Âm quang, Chí Tôn là chủ Dương quang. Âm Dương tương hiệp, Ðạo Cao-Ðài nương theo năng lực của hai khối Âm Dương đó. Ðối với năng lực tạo đoan Càn Khôn Thế Giới thế nào, thì Ðạo Cao-Ðài ngày kia sẽ có năng lực như thế đó”.
5- Tín-ngưỡng của người Cao-Đài:
Đức Hộ-Pháp nói rằng:
“Cả con cái Đức Chí-Tôn nên hiểu rằng: triết lý cao thượng của Đạo Cao-Đài lấy tính chất nó ở buổi sơ khởi khai thiên lập địa của Đức Chí-Tôn sanh hóa vạn loại nơi mặt địa cầu nầy. Trong tạo đoan Đạo Cao-Đài chỉ thờ kỉnh có hai quan niệm mà thôi.
- Trên là thờ Thiên-Thượng là Đức Chí Tôn,
- Dưới là thờ Vạn-vật, mà tối linh của Vạn vật là nhơn loại ấy là thờ Thiên-hạ.
Nó không biết trích điểm ai, dầu các Tôn giáo trích điểm hay đàm thuyết thế nào cũng mặc. Đạo CAO-ĐÀI chỉ biết nắm lấy cái căn bản, cái nguyên lý của nó mà thôi”.
Đức Ngài nói tiếp:
“Ðức Chí-Tôn duy có một mình, Ngài phân ra mới có Phật-Mẫu.
Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền-năng tạo ra Càn Khôn Vũ Trụ để lập gia đình cho loài người đó vậy. Nhờ Chí-Tôn phân tánh là Bí-pháp lập thành xã-hội đó. Chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái hay Nam Nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta hoặc một cách âm thầm bí mật. Vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần, gia đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: “Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên” tức là muốn nói đến” Cây có cội, nước có nguồn”.
6- Đạo có Thể-pháp thì có Bí-pháp:
Đức Hộ-Pháp nói rằng:
“Bần Đạo nói: Đạo có Thể pháp thì có Bí-pháp.
Các vị Giáo chủ cũng phải tùng theo khuôn luật đó:
- Một nền Chơn giáo có Thể pháp là cơ quan giải khổ cho chúng sanh tức nhiên phải có:
- Bí-pháp đặng làm cơ-quan giải thoát cho chúng sanh. Hễ độ phần xác tức nhiên phải độ phần hồn cho toàn vẹn.
Một nền Tôn giáo nào đã xuất hiện tại thế gian này dầu Thể pháp cao siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không Bí pháp làm tướng diện căn bản, thì nền Tôn-giáo ấy chỉ là Bàn môn Tả đạo mà thôi”.
(Đêm 09 tháng 04 năm Kỷ-Sửu - Dl 06-05-1949)
Lại nữa:
“Bí-pháp chơn truyền của Đức Chí-Tôn ấy là một thuyết pháp trọng yếu khó-khăn hơn hết.
Các nền Tôn giáo đương nhiên bây giờ nếu gọi là thất chơn truyền, thì thất chơn truyền do đâu?
- Do tại Bí-pháp không đúng lương tri, lương năng của loài người, lương tri lương năng của mỗi người đương thời buổi này đã đạt đến mức cao thượng, trọng hệ là những triết lý đơn sơ buổi nọ của các nền Tôn giáo để lại mặt thế này, hồi buổi Thượng cổ không cầm được quyền năng cùng tâm lý của nhân loại trong khuôn khổ đạo đức tinh thần nữa.
Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem cơ bí-mật huyền vi tạo đoan giáo hoá con cái của Ngài”
Nay:
“Nhơn loại đến giữa cơ Tạo đoan Càn khôn Vũ trụ, huyền vi bí-mật Tạo đoan đã cho một tánh chất ly-kỳ bí mật, là khôn ngoan hơn vạn vật, do khôn ngoan ấy mà tìm hiểu rằng cả cơ thể Tạo đoan có hai đặc điểm trọng yếu:
- Một là sống,
- Hai là linh.
Biết được hai đặc điểm ấy, thấy nhơn loại có hai chủ hướng:
- Một là nương với cái sống của mình, cho cái sống là hệ trọng tức nhiên là học thuyết cơ thể Tạo đoan của đời.
- Hai là nương theo tinh thần nhơn loại, nương theo triết lý này cho cái linh là trọng hệ, vì cớ nên xu hướng theo phần hồn là tinh thần thường tại.
Bây giờ chia theo hai lẽ ấy:
- Sống tức là Đời,
- Linh tức là Đạo.
Hai lẽ sống chia nhân loại ra hai đường làm căn bản, đứng trung tâm điểm cũng do nơi trí thức tinh thần, mà trí thức tinh thần ấy xu hướng:
- Theo học thuyết Đời tức là xu hướng theo cái sống.
-Theo học thuyết Đạo tức là xu hướng theo cái linh.
Cả hai tinh thần ta thấy không có lầm lạc, nhứt là đàng nào cũng có nguyên lý của nấy. Đời xu hướng theo cơ quan sống tức nhiên:
- Cơ quan Đời họ có Thể-pháp và Bí-pháp.
- Cơ quan Đạo cũng có Thể pháp và Bí-pháp. Nhưng hai lý thuyết tương đương dường như phản trắc. Về phần Đạo thì:
Trí thức tinh thần nhơn loại nhìn nơi vô biên biết càn khôn vũ trụ tức là cơ tạo đoan, nó định luật cho khối người, thành ra Pháp chủ Luật, tức là Pháp trước Luật sau.
Còn cơ quan Đời tức là cơ quan xu hướng theo cái sống, định Luật được rồi mới tìm tàng Pháp đặng thi hành Luật, thành ra Luật trước pháp sau.”
7- Khóc, cười của nhân thế:
Đức Hộ-Pháp nói:
“Sống nơi cảnh khổ mà tìm hạnh phúc khó lắm, hạnh phúc ấy có hay chăng? Bần-Đạo để dấu hỏi?
- Có chớ, thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.!
Chúng ta thấy trước mắt dầu cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này họ đã khác tánh đức, tinh thần, tâm lý với nhau, cái gì cũng khác hết; chỉ có cái cười và cái khóc là giống nhau mà thôi. Tại sao cái cười và cái khóc của con người lại giống nhau?
* Cười ấy phải chăng là tượng-trưng cho hạnh phúc.
* Khóc phải chăng là tượng-trưng đau khổ của loài người.
Bần-Đạo nói đây chỉ có cái cười giả dối là cười thì cay đắng như ớt, gừng, cũng có cái khóc giả dối là khóc cũng có nước mắt, nhưng cái khóc của họ là khóc giả dối mà thôi. Bần-Đạo nói cười thế nào mới tượng trưng hạnh phúc? Dầu hạnh phúc đó như ngọn gió thoảng qua, như giọt sương đầu cỏ, còn khóc thế nào mới đau đớn và quả quyết thống khổ? Chúng ta đã ngó thấy kiếp sống của chúng ta khóc nhiều mà cười ít. Thử hỏi một kiếp sống của chúng ta có thú vị hay chăng? Xin trả lời: Từ lọt lòng mẹ dĩ chí ngày chung qui chúng ta chỉ hưởng được hạnh phúc bóng dáng mà thôi, chớ chẳng hề khi nào chúng ta hưởng được chơn hạnh phúc.
Ấy vậy, chơn hạnh-phúc của ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh-phúc của các bạn đồng sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ thì làm sao họ có cái cười hạnh-phúc được? Chúng ta phải làm thế nào cho họ hưởng được hạnh-phúc, mặc dầu hạnh-phúc ấy mảy mún, chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái cười hạnh phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi mãi hạnh-phúc, tuy hạnh-phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thổi hay một đám sương sa, mà có hưởng, còn hơn không có chi hết.
Khi chúng ta ngó thấy người bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã làm cho được hạnh-phúc vui vẻ, cái đó phải chăng là cái hạnh-phúc của ta đây” (Ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (dl. 14-10-1951)
8- Long-Mã phụ Hà Đồ
 |
|
(H.53) Long Mã phụ Hà-đồ |
Ý-nghĩa: Nho-gia nói là vạn vật ôm ấp Âm Dương, đến mực trung dung thì gọi là Hoà, cơ hoà là cơ sanh hoá.
Trong trời đất có hai quyền năng đối kháng nhau gọi chung là Âm Dương, có đặc tính:
- Dương thì cứng, động, phát ra ánh sáng.
- Âm thì tịnh, mềm thuận, là sự bế tàng.
Âm Dương giao phối đúng tiết, đúng thời có kết quả tốt mới sinh tồn, nhưng cũng phải có Thần minh đứng giữa làm máy tạo huyền-vi vậy.
Thường Á-Đông cho Rồng là Kiền. Âm thì lấy vật là con ngựa cái làm tượng cho Khôn. Bởi Rồng lên thẳng chỉ không gian, ngựa chạy đường dài chỉ thời gian. Thế nên, hình ảnh con “Long Mã” là biểu tượng cho lý Âm Dương của vũ trụ và vạn vật. Hơn nữa Đạo Cao-Đài quan trọng ở cái lý biến đổi tuyệt vời của đạo pháp, nên có hình của con “Long Mã phụ Hà-Đồ” là để nói lên cơ Âm Dương của tạo hoá đã điều-hành đến chỗ tuyệt đối là “Hoà”. Hoà là trọng tâm của nền Đại-Đạo.
Lý Dịch quan trọng nhất của sự khởi đầu là Âm Dương. Âm Dương, đất trời cũng từ Kiền Khôn mà ra. Kinh Phật mẫu có câu:
“Càn Khôn sản xuất hữu hình,
“Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sanh”
Kiền Khôn là cái cửa của đạo Dịch vậy. Kiền là Dương, Khôn là Âm. Âm Dương hợp đức mà cứng mềm thành thể, lấy sự làm ra cái thể của trời đất để thông cái đức của Thần minh.
Kiền Khôn là hai quẻ nguyên thuỷ tượng trưng cái Âm Dương vi thuỷ của Đạo Dịch.
Quẻ Kiền có thể ghi bằng ba chấm thay vì gạch dài, kéo thẳng xuống thành ra số
(1) là số đầu của các số là thuần Dương, quẻ Khôn thay bằng các nét chấm lại là số nguyên thuỷ của số
(0) là thể Âm gọi là số ngẫu.
Âm Dương hoà hợp thành chữ Trung 中 mà biến hoá không giây phút nào ngừng nghỉ, làm cho mỗi phút, mỗi ngày một mới thêm. Sự đổi mới có nghĩa là biến đổi vậy. Thế nên con người sống phải hiểu rằng “Một sát-na già thêm một sát-na”, nói đến sát-na là nói đến tích tắc đồng hồ! Nhưng sự biến đổi này chỉ có tiến chứ không có lùi, không có sự thoái hoá, nhờ vậy mà vũ-trụ này luôn luôn đổi mới nên phải làm sao cho ngày mới, ngày ngày mới, mỗi ngày mỗi mới, do câu “Cẩu nhựt tân, nhựt nhựt tân, hựu nhật tân”.
Sự học cũng vậy là con thuyền đi nước ngược, không tiến tức là lùi. Sự mới khác có nghĩa là biến đổi. Cái luật biến đổi đó gọi là Dịch (Dịch là biến, biến theo thời gian) Thế nên khi thì nói: Dương 1, Âm 0 hoặc Âm 2.
Theo đạo Dịch cứ một Âm một Dương mà sinh sinh hoá hoá nên mới nói rằng “Sinh sinh chi vị Dịch” tức là sự sinh hoá của trời đất khởi đầu do cái Âm Dương nguyên thuỷ làm nền tảng, làm gốc cho sự sinh, thì Kiền Khôn tức là cửa khép mở để vào toà lâu đài Dịch vậy.
- Kiền là quẻ ba vạch liền ☰ (tượng bằng số 1)
- Khôn là quẻ ba vạch đứt ☷ (tượng bằng số 2)
Dương thì động cứng rắn, phát tán.
Âm tính thuận co rút, âm thầm.
Lý Âm Dương vô cùng tận vậy, nhưng chỉ có Hoà thì mới bình nên gọi là Hoà-bình, Hoà phải hiệp nên gọi là hoà hiệp đó là cơ đắc Đạo vậy, để rồi đi đến chỗ hoà-ái, hoà thuận.Nếu hoàn cảnh chưa tiện thì nên Hoà-hưỡn…
“Nguyên lý của DỊCH là do ảnh hưởng của trời đất có Âm Dương, vạn vật có thể phách, nhơn loại có xác hồn, sự sống của vạn loại trong càn khôn thế giái chỉ nhờ có vật chất và tinh thần tương hiệp mới thành hình. Xác phải phù hợp với hồn, cũng như vật chất phải phù hợp với tinh thần trở lại vô vi, vô vi cùng hữu hình phải tương đắc.”
Khi nói đến TRUNG tức nhiên là nói đến CHÁNH, hai chữ trung chánh này nắm cả then chốt của Đạo Dịch:
- Dịch khiến cho thiên hạ không trung trở về chỗ trung.
- Dịch khiến cho thiên hạ không chánh trở về chỗ chánh.
Trung chánh mà lập lại đặng rồi thì cuộc biến hoá của vạn vật được thông vậy. Nói cho đúng, trong vạn sự, vạn vật không có vật gì mà không trung, không chánh. Nghĩa là trong những sự bất trung, bất chánh, đều đã có sự trung chánh của nó rồi, cho nên mới nói là không có gì quân bình ngay trong những điều xảy ra không quân bình, thực sự là những quân bình tạm đang tìm cách lập quân bình chung của sự sự vật vật trên đời. Hay nói một cách khác, chính ngay trong những sự mất quân bình ta mới thấy rõ luật quân bình của trời đất.
Cái TRUNG CHÁNH ấy là cái trọng tâm, cái trọng lực khiến cho cặp Âm Dương không bao giờ rời nhau được; vạn vật không bao giờ ngừng biến hoá bởi một mở một đóng gọi là biến, qua lại không cùng gọi là thông “Nhứt hạp nhứt tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi thông”.
Hai chữ tiến thoái, tồn vong, vãng lai, chỉ cho ta thấy cái động của Đạo, không phải là cái động đi về một chiều, mà là cái động hai chiều thuận nghịch. Tất cả đều bị cái luật TRUNG CHÁNH nắm giữ không cho thiên hẳn một bên nào (thiên về Âm hay thiên về Dương). Đó là cái LUẬT PHẢN PHỤC, một cái luật thường hằng bất biến.
Cái luật TRUNG ấy có thể tượng trưng cái trọng tâm bất dịch của một cái đòng đưa. Nó là luật quân bình vậy”.
Vì đâu mà Thánh nhân vạch nên quẻ Dịch?
Thật ra tất cả cũng đều phát xuất từ con người mà ra. Người là một sản phẩm hoàn hảo nhất của Thượng-Đế. Điều quan trọng ở nơi một con người toàn diện; nghĩa là người phải có đủ năm giác quan, năm giác quan tương ứng với lý Ngũ hành. Nhưng trong năm giác quan này có tới sáu khiếu (khiếu là lỗ). Hay nói khác đi đó là “Ngũ quan hữu tướng Lục quan vô hình”, tức là hai tai, hai con mắt, hai lỗ mũi. Ba đôi một này họp thành quẻ Khôn ☷ Còn lại một miệng, một bộ sinh dục, một hậu môn, biểu tượng bằng ba nét liền, họp thành quẻ Càn ☰. Hình ảnh của hai quẻ Càn Khôn làm nên đầu mối của vạn vật, làm nên sự biến hoá vô cùng tận, mở ra toà lâu đài DỊCH mênh mông, mênh mông vô hạn định.
Do vậy mà DỊCH-LÝ CAO-ĐÀI được thành hình.
Giá trị của Long-Mã phụ Hà-Đồ:
Đây là Thánh nhân làm rõ nét về lý Âm Dương mà từ xưa đến giờ hầu như các nhà khoa học xem những Tôn giáo là mê tín dị đoan.
Mê tín dị đoan là gì?
Mê tín là tin một cách mù quáng, không rõ lý.
Dị đoan là không rõ đầu mối của sự việc.
Mê tín dị đoan tức nhiên sự tin tưởng càn quấy mà không giải thích được lý do. Do đây mà có hình LONG MÃ chính là con vật đầu rồng mình ngựa. Đầu rồng bởi vì khởi từ số 1 là con số có khởi mà không có cùng, là Dương, có hướng đi như trên. Mình ngựa là nằm theo đường ngang, chiều Âm, là số 2 kế tiếp. Số 2 không có khởi mà có cùng.
Thế nên trong cuộc sống thì người đàn ông là người thường hay gợi tình cảm trước, nhưng tình dục hầu như không giới hạn. Còn người đàn bà thì tình cảm thường đến sau khi người đàn ông gợi ý, tình dục cũng có giới hạn theo tuổi đời. Nếu về đường tu thì người Nam phải vận dụng ý-chí nhiều mới thắng nỗi sắc dục. Do vậy mà các vị Bồ-Tát muốn xuống trần để lập thêm một từng Liên Hoa rất ngại, nhiều khi các vị phải vào thân một con thú như trâu bò chẳng hạn, để suốt đời làm một vật hy-sinh cho nhân loại, để rồi sau cùng tạo một từng Liên-Hoa rực rỡ chứ không dám làm người, dễ bị mất kiếp, vì Nam thì bị sắc dục, Nữ bị mê tài mà đường trần dễ làm mê-muội. Vả lại nếu làm người mà đẹp cũng khó tu vì dễ bị cám dỗ, mà nếu xấu thì lại bị tự ty. Vậy người tu nên nắm vững những yếu điểm ấy mà lướt qua, xem như những chặng đường thử thách của người tu là như thế, như thế…
Kiền Khôn biến hoá như thế nào?
1/- Về con số 3 là tam Âm tam Dương:
Quẻ Càn ☰ cấu tạo bởi 3 vạch liền, nói là Kiền tam liên Tây Bắc Tuất Hợi, nghĩa là Càn khôn này nằm trong Hậu Thiên Bát-Quái của Văn-Vương ngày xưa.
Ba vạch liền là hào Dương vậy.
Quẻ Khôn ☷ cấu tạo bởi ba vạch đứt. Ba vạch đứt là ba hào Âm, vậy nên có 6 đoạn, gọi là Khôn lục đoạn.
Sự biến hoá của Càn Khôn:
Từ con số ba vạch này nối lại với nhau thành một hình: đó là hình tam giác, hình tam giác chính là cái hình có trước tiên trong kỷ hà học. Vì lẽ quẻ Càn có ba vạch bằng nhau, đặt ba vạch này liền lại với nhau sẽ thành một Tam giác đều, đỉnh quay lên trên. Nếu quẻ Khôn cũng nối liền như vậy sẽ thành một tam giác thứ hai, nhưng đỉnh quay về phía dưới. Hai tam giác này đặt chồng lên nhau sẽ tạo thành hình sao sáu cánh. Các điểm giao nhau của Khôn bị cắt qua các nét của Kiền.
Thế nên khi nói đến Càn Khôn là nói đến tam Âm tam Dương, tam giác đó cũng là lý biến hoá thứ nhứt.
2/- Càn Khôn biểu hiệu bằng số:
Căn cứ theo vạch mà tính quẻ Càn Khôn bằng số:
Ví như nhìn vào mỗi quẻ đơn có ba nét, thì số của nó chính là 33. Hoặc nhìn vào Khôn có 3 nét đứt thì bằng 6 vạch, ta cũng nói là Càn Khôn biểu tượng bằng số 36, hoặc cũng nói càn khôn là số 9 bởi cộng con số vạch của hai quẻ bằng 9.
Đọc Dịch không chấp lời cũng không chấp lẽ. Bởi Dịch là biến, nhờ biến như vậy mà bốn mùa thay đổi, vạn vật cũng như người có bé thì có trưởng, không bao giờ cố định. Tế bào trong người ta cũng vậy, khi còn tuổi trẻ chúng tăng trưởng không ngừng, khi về già chúng co rút và chết dần nên người mới bịnh hoạn, ốm yếu.
Hiện tại ở Đền Thánh hai lầu chuông và trống mỗi lầu cao 36 m, tức là tượng cho hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa Đạo Dịch mở ra và gồm nắm trọn máy Âm Dương của Tạo hoá.
3/- Số 2 và 3 cũng nói lên Càn Khôn:
Như đã biết Càn ba vạch liền (số 3) Khôn bằng 6 vạch đứt tức nhiên Khôn gấp hai lần số vạch của Càn (số 2) Thế nên khi nói đến số 23 cũng là nói đến Càn Khôn vậy.
Nhìn chung quanh Đền Thánh có 23 “Thiên Nhãn Thầy” trang trí chgung quanh mặt Đền ở mỗi bên của khung cửa sổ cũng nói lên Càn Khôn. Ngoài ra lý này còn gọi là tam thiên lưỡng địa, nhưng nói cho đúng là “Tham thiên lưỡng địa” Bởi duy chỉ con người mới được tham dự vào chuyện của trời đất mà thôi, vì vậy lý Tam tài: Thiên Địa Nhân vẫn đúng ngàn đời. Do vậy mà làm người phải là một con người đạo-đức mới đạt được những đức tính cao quí ấy.
4/- Hai quẻ Càn Khôn xếp thành chữ Điền:
Cấu tạo chữ Điền:
Nhưng khi bàn Lý Dịch thì phải bàn cho đến đích vì Dịch 易 là biến. Điền 田 do hai quẻ Kiền Khôn mà ra:
Quẻ Kiền ☰ có ba nét Dương có thể đặt đứng, đó là chỉ không gian
và quẻ Khôn có ba nét Âm ☷ đặt nằm chỉ thời gian. Hai quẻ Càn-Khôn phối hợp lại thành chữ Điền 田. Chữ Điền này chính là tâm của Bát-quái Đồ Thiên hay Bát quái Cao-Đài là một nền Chánh-giáo, là chỉ sự biến hoá của muôn loài vạn-vật, nên chi bậc đại nhân hay là người đạo-đức phải có được cái tâm điền ấy.
Xem kỹ trong “Dịch Lý Cao-Đài” của cùng Soạn giả sẽ thấy hai quẻ Càn ☰ Khôn ☷ là chủ của Bát-quái. Chữ Điền nếu phân tích ra sẽ thấy:
- Có 4 chữ nhựt 日 nằm ngang dọc (nhựt nhựt tung hoành nhựt). Ý muốn bảo rằng người tu phải: ngày mới, mỗi ngày mỗi mới, ngày ngày mới. “Nhựt tân, nhựt nhựt tân hựu nhựt tân” 日新日日新 又日新 (có 4 chữ nhựt là vậy)
- Có 4 chữ sơn 山 xoay quanh (Sơn sơn điên-đảo sơn)
- Có 2 chữ vương 王 đặt xuôi ngược (lưỡng vương tranh nhứt quốc)
- Có 4 chữ khẩu 口 họp lại chính giữa (tứ khẩu tại trung-gian).
Trong sám Trạng-Trình có câu: “Phá điền Thiên-tử giáng trần” hoặc “Phá điền Thiên-tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành”.Nay là thời-kỳ phá điền đã đến vậy!
* Đặc-biệt nhất là hai chữ Vương 王 nằm theo chiều xuôi ngược trong một cái khung đó là hình ảnh “hai vua mà tranh một nước”. Trong con người có hai vua ấy tức nhiên một vua tinh-thần và một vua vật-chất đang tranh đấu nhau để giành quyền thắng lợi. Vậy thử hỏi nếu vua tinh-thần thắng tức là ta đang hướng về con đường đạo đức, thì người phải năng trau-giồi cho đến độ tận thiện tận mỹ hòng giục tấn trên con đường Thiêng liêng hằng sống mà trở về với Đại-ngã tức là về với Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế. Sau khi đã lăn lóc với thế trần, còn gì?
Cho nên người TU là tự mình làm chủ lấy mình, nghĩa là đặt vị-trí chữ Vương cho đúng chỗ.
Bởi trong chữ Vương 王 có tàng ẩn chữ ngọc 玉 nếu một cái chấm của nét chủ 丶ấy xuất ra ngoài thì thành chữ chúa 主 nhập vào trong thành ra chữ Vương. Có câu: Ngọc tàng nhứt điểm, xuất vi chúa nhập vi vương 玉 藏 一 點 出 為 主 入 為 王 Tại sao người phải tu để đạt cho được cái “tâm Điền” ấy? - Đó là lý cớ vì sao phải tu-hành. Tu-hành chính là phương-pháp sửa đổi tâm-tánh để mình làm CHỦ được chính mình; đồng thời phải biết Trời là Đấng đang ngự trị nơi tâm linh mình, khi đã tự mình làm chủ được mình rồi thì cũng làm chủ được vũ-trụ.
Do vậy mà Đức Hộ-Pháp khi nhận được những bài thơ của Đức Thượng-Đế đã ngầm giao cho sứ mệnh mở Đạo Trời, mà mối Đạo này có “Bí-quyết đắc Đạo” là Thờ chữ CHỦ, tức nhiên người phải biết Trời là chủ của mình. Đặc biệt thơ mà Đức Chí-Tôn cho Ngài đều là những bài thơ mà Ngài cho là “Dị hợm”. Phải chăng là Ngài muốn thử thách lòng thiết thạch can trường, cũng đồng thời Ngài che dấu quyền-uy tối thượng mà Đức Hộ-Pháp sắp nhận lãnh. Thế mà cũng vẫn còn hậu quả chia phe phân phái.

►Xem tiếp >>>>>